“ĐỘNG CƠ, ĐỘNG LỰC, ĐỘNG HƯỚNG TRONG HÀNH VI CƠ ĐỐC” (Lu. 10:38-42) “Chúa đáp rằng: Hỡi Mathê, Mathê, ngươi chịu khó và bối rối về nhiều việc; nhưng có một việc cần mà thôi. Mari đã lựa phần tốt, là phần không có ai cất lấy được.” (Lu. 10:41-42) Giữa khi còn đang ở trong thân xác trên thế gian này, Cơ Đốc Nhân vẫn còn phải chịu ảnh hưởng của các sự hấp dẫn chung quanh mình cũng như những người chưa được cứu. Sự hấp dẫn ấy là có thật và lắm khi là một sự trăn trở lớn trong đời sống Cơ Đốc. Tuy nhiên, Cơ Đốc Nhân không thiếu hy vọng đắc thắng trong việc xây dựng cho mình động cơ đúng, đẹp ý Đức Chúa Trời, nhờ mối quan hệ (chiều đứng) đã được thiết lập với Ngài trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ: “21Vậy tôi thấy có luật nầy trong tôi: Khi tôi muốn làm điều lành, thì điều dữ dính dấp theo tôi. 22Vì theo người bề trong, tôi vẫn lấy luật pháp Đức Chúa Trời làm đẹp lòng; 23nhưng tôi cảm biết trong chi thể mình có một luật khác giao chiến với luật trong trí mình, bắt mình phải làm phu tù cho luật của tội lỗi, tức là luật ở trong chi thể tôi vậy. 24Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy? 25Cảm tạ Đức Chúa Trời, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta!” (Rô. 7:21-25) I. Chiều ngang: Những sự thuộc về thế gian, xác thịt, và Ma Quỉ. Sự thúc đẩy của những sự thuộc về thế gian, hay những sự tạm thời, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có đủ mọi thứ lo sợ, mọi thứ cảm thức không hợp theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh: “Sự lo lắng về đời nầy, sự mê đắm về giàu sang, và các sự tham muốn khác thấu vào lòng họ, làm cho nghẹt ngòi đạo, và trở nên không trái” (Mác 4:19) II. Chiều đứng: Đức Chúa Trời và những sự thuộc về Đức Chúa Trời. Quan hệ theo chiều đứng với Đức Chúa Trời giúp đem chúng ta đến gần với sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời về giá trị (và vì vậy, đó là giá trị đích thực). Đức Chúa Trời và những sự thuộc về Đức Chúa Trời có đặc điểm chung là thuộc linh, vô hình, và đòi hỏi tầm nhìn viễn cảnh. Chỉ khi nào chúng ta biết thực sự đặt mình dưới quyền làm Chúa của Đức Chúa Jêsus Christ để có thể đổi mới tâm trí mình với (bằng) các lẽ thật thuộc linh theo Kinh Thánh thì đời sống tâm trí của chúng ta mới được thấm nhuần theo các sự nhìn nhận có giá trị đời đời của Đức Chúa Trời: “38Khi Đức Chúa Jêsus cùng môn đồ đi đường, đến một làng kia, có người đàn bà, tên là Mathê, rước Ngài vào nhà mình. 39Người có một em gái, tên là Mari, ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Ngài. 40Vả, Mathê mảng lo về việc vặt, đến thưa Đức Chúa Jêsus rằng: Lạy Chúa, em tôi để một mình tôi hầu việc, Chúa há không nghĩ đến sao? Xin biểu nó giúp tôi. 41Chúa đáp rằng: Hỡi Mathê, Mathê, ngươi chịu khó và bối rối về nhiều việc; 42nhưng có một việc cần mà thôi. Mari đã lựa phần tốt, là phần không có ai cất lấy được” (Lu. 10:38-42) Một khi động cơ thúc đẩy là chính Đức Chúa Trời hay những sự thuộc về Đức Chúa Trời thì đó là động cơ “tốt” (Sv. Lu. 10:42). Động cơ tốt hứa hẹn cho việc có được động lực tốt. Động cơ và động lực tốt sẽ cùng nhau bảo đảm cho động hướng của thái độ, hành vi,… được tốt. Thái độ và hành vi Cơ Đốc là thiên hình, vạn trạng nhưng xuất phát điểm (động cơ), phạm vi đề cập (động lực), và đích điểm (động hướng) đều được gồm tóm trong những điều sau đây: 1. Được thúc đẩy theo ý muốn của Đức Chúa Trời: Tin rằng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời là sự chọn lựa duy nhất. 2. Được thúc đẩy theo lòng kính sợ Đức Chúa Trời: Tin rằng nếu không làm theo yy muốn của Đức Chúa Trời sẽ bị phạt (sợ một cách tiêu cực), hoặc sẽ không sống xứng hiệp theo ý chỉ của Ngài (sợ một cách tích cực). 3. Nhằm thể hiện lòng tri ân và kính yêu Đức Chúa Trời: Làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời vì biết ơn Ngài và kính yêu Ngài. 4. Nhằm đạt được phần thưởng của Đức Chúa Trời: Làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời vì tin quyết lời hứa của Ngài về phần thưởng. 5. Hướng về việc hoàn thành sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời: Tin rằng đời sống Cơ Đốc là phải làm đúng theo các nguyên tắc Kinh Thánh được rút ra từ sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời đối với Cơ Đốc Nhân. 6. Hướng về việc đạt mục đích và niềm hy vọng trong Đức Chúa Trời: Làm theo các sự kỳ vọng của Đức Chúa Trời đối với (dành cho) đời sống của mình để được hưởng tất cả những gì Đức Chúa Trời đã hứa và mình đã tin. 7. Hướng về việc sống theo sự khát khao Đức Chúa Trời: Muốn được Đức Chúa Trời chiếm ngự hoàn toàn hầu cho đời sống của mình luôn thể hiện ra các thuộc tính (mỹ đức) của Đức Chúa Trời. Trong số những điều nêu trên, hai điều đầu tiên (“Được Thúc Đẩy Theo Ý Muốn Của Đức Chúa Trời”, và “Được Thúc Đẩy Theo Lòng Kính Sợ Đức Chúa Trời”) thuộc về động cơ; hai điều tiếp theo (“Nhằm Thể Hiện Lòng Tri Ân Và Kính Yêu Đức Chúa Trời”, và “Nhằm Đạt Được Phần Thưởng Của Đức Chúa Trời”) thuộc về động lực, và ba điều sau cùng (“Hướng Về Việc Hoàn Thành Sự Nhìn Nhận Của Đức Chúa Trời”, “Hướng Về Việc Đạt Mục Đích Và Niềm Hy Vọng Trong Đức Chúa Trời”, và “Hướng Về Việc Sống Theo Sự Khát Khao Đức Chúa Trời”) thuộc về động hướng của một đời sống Cơ Đốc. (Rev. Doan Nhat Tan, PhD)
“CHỦ NGHĨA THẦN BÍ VÀ KINH THÁNH” Trên phương diện phương thức tiếp cận Kinh Thánh, Chủ Nghĩa Thần Bí (Mysticism) có thể được chia thành hai lớp: Giả Thần Bí (False Mysticism) và Chân Thần Bí (True Mysticism). Yếu lĩnh của Giả Thần Bí là cho rằng Sự Khải Thị Thiên Thượng không chỉ giới hạn trong Kinh Thánh mà Đức Chúa Trời vẫn còn tiếp tục ban cho những Sự Khải Thị khác ngoài Kinh Thánh nữa. Giả Thần Bí lấy kinh nghiệm của con người làm tối cao, Ví dụ: Kinh nghiệm bản thân của một cá nhân phải là thẩm quyền tối hậu chứ không phải là Kinh Thánh. Nếu sự dạy dỗ của Kinh Thánh phù hợp với kinh nghiệm bản thân thì sự dạy dỗ ấy của Kinh Thánh được kể là có giá trị; bằng không, sự dạy dỗ ấy của Kinh Thánh phải bị kể là vô giá trị. Theo Giả Thần Bí, Kinh Thánh vừa không hoàn hảo, vừa chẳng tối hậu. Giả Thần Bí tin rằng Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục ban cho Sự Khải Thị mới mẻ nếu người ta đáp ứng thuận với Sự Khải Thị của nó. Có những người theo Giả Thần Bí tin rằng lẽ thật thuộc linh được gia thêm ngoài Kinh Thánh. Loại Giả Thần Bí này được tìm thấy trong những người Phiếm Thần, Thông Linh Hiện Đại, Cơ Đốc Phục Lâm An Thất Nhật, Thời Đại Mới, Cơ Đốc Khoa Học, Moọc Môn, Quây Cơ, và Giêhôva Chứng Nhân. Ngoài ra, Giả Thần Bí cũng còn có thể thấy trong một vài hình thái của Phong Trào Túy Ân [1] hiện nay. Có một số người tin rằng Đức Chúa Trời vẫn còn đang phán bảo cho các nhà Tiên Tri hiện đại, và một số người còn tiến xa hơn bằng việc cho rằng Sự Khải Thị đến với và ra từ các nhà Tiên Tri như thế có giá trị tương đương với Lời Kinh Thánh. Đây chính là một phong trào đang bành trướng giữa vòng một số Hội Thánh Tin Lành. Tuy nhiên, hình thái Chân Thần Bí xuất phát từ chức vụ dạy dỗ và ở cùng của Đức Thánh Linh. Đức Thánh Linh soi sáng tâm trí của các tín hữu để ban quyền năng cho họ nắm bắt và áp dụng lẽ thật của Lời Kinh Thánh. Theo như Hê. 12:25 khẳng định, Đức Chúa Trời vẫn còn đang phán ngày nay; nhưng Ngài phán dạy thông qua chức vụ soi sáng của Đức Thánh Linh trên các lẽ thật trong các Kinh Điển của Kinh Thánh. Đây chính là công việc soi sáng, dắt dẫn, và chứng giải nhưng nhất thiết phải được phân biệt với công việc khải thị của Đức Thánh Linh. Nói về chức vụ này của Đức Thánh Linh, Chafer viết như sau: “Chân Thần Bí là cách tiếp cận hợp lẽ của các nhà thần học hệ thống tin Kinh Thánh. Cách tiếp cận này có liên quan với sự kiện là mọi tín hữu đều được Đức Thánh Linh ở cùng và nhờ đó có khả năng được trực tiếp soi sáng bởi Đức Thánh Linh trong việc họ hiểu các Sự Khải Thị Thiên Thượng. Một Sự Khải Thị như thế sẽ không vượt quá những gì Kinh Thánh khải thị, nó nhất trí với việc làm cho thông hiểu các lẽ thật Thiên Thượng được trước thuật trong Kinh Thánh. Chân Thần Bí vươn đến những gì có thể được gọi là Sự Khải Thị qui chuẩn mà không hề loại bỏ sự áp dụng lẽ thật Kinh Thánh mà Đức Chúa Trời muốn có trong việc mỗi cá nhân tìm kiếm sự hướng dẫn (Thiên Thượng). Sự hướng dẫn chân chính luôn luôn hài hòa với tự thân Lời Kinh Thánh (Sv. Gi. 16:13; 1Cô. 2:9-10) [2]. Ý thức Chân Thần Bí đối với Kinh Thánh tin rằng Kinh Thánh là thẩm quyền tối hậu của chúng ta và cố gắng luôn luôn đoán định đúng, sai cho kinh nghiệm cá nhân bằng Lời Kinh Thánh. Khuynh hướng Chân Thần Bí không tự cho phép mình có quyền ưu tiên đối với Kinh Thánh mà cũng không đoán định Kinh Thánh hoặc bất cứ điều gì thuộc về Kinh Thánh bằng kinh nghiệm [3]. Chúng ta phải thận trọng đánh giá kinh nghiệm chúng ta bằng Lời Đức Chúa Trời chứ đừng đánh giá Lời Đức Chúa Trời bằng kinh nghiệm của chúng ta. (Rev. Doan Nhat Tan, PhD) -- Ghi Chú: [1] Phong trào của những người say mê ân tứ thuộc linh và giảng dạy về ân tứ thuộc linh bất chấp giáo lý Kinh Thánh chân chính về ân tứ thuộc linh. [2] Lewis Sperry Chafer Systematic Theology (Thần Học Hệ Thống của Lewis Sperry Chafe, Abridged Edition, Vol. 1, John F. Walvoord, editor, Donald K. Campbell, Roy B. Zuck, consulting editors, Victor Books, Wheaton, IL, 1988, p. 42. [3] Vấn đề “Sự Soi Sáng Của Đức Thánh Linh” sẽ được đề cập rõ hơn trong một đề tài khác.
“CALVIN VÀ ARMINIUS TRÊN VẤN ĐỀ VỀ SỰ CỨU RỖI” (2Phi. 3:18) “Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ.” (2Phi. 3:18) Hệ tư tưởng của Calvin và hệ tư tưởng của Arminius trên vấn đề sự cứu rỗi là hai nổ lực thần học chính nhằm giải thích mối quan hệ giữa quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời với ý chí (và trách nhiệm) tự do của cá nhân trong lĩnh vực sự cứu rỗi. Các nổ lực này là đáng trân trọng, nhưng chung qui thì sự giải thích nào cũng bị giới hạn vì sự cao sâu của ý tưởng của Đức Chúa Trời luôn vượt lên trên mọi suy tưởng của loài người khiến không ai có thể hoàn toàn hiểu được sự vận hành của Ngài trong sự cứu rỗi dành cho nhân loại. Trong gáo lý Kinh Thánh bằng Tiếng Anh, những người theo tư tưởng của Calvin tách vạch tư tưởng thần học của mình thành năm điểm được viết tắt bằng năm chữ cái mà khi ghép với nhau theo đúng thứ tự thì thành tên của một loài hoa, đó là “TULIP”. Calvin cho rằng tình trạng suy đồi của con người là “Sự Suy Đồi Toàn Diện” (Total Depravity), sự lựa chọn của Đức Chúa Trời cho sự cứu rỗi của Ngài là “Sự Lựa Chọn Vô Điều Kiện” (Unconditional Election), sự đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ là “Sự Đền Tội Thay Hữu Hạn” (Limited Atonement), ân điển cứu rỗi của Đức Chúa Trời là “Ân Điển Bất Khả Kháng” (Irresistable Grace), và sự bảo tồn cho sự cứu rỗi của các tín hữu thật là “Sự Bảo Tồn Các Thánh Đồ” (Perseverance of the Saints) bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Sự khác biệt giữa hai hệ tư tưởng này xoay quanh vấn đề mức độ trách nhiệm cá nhân trong sự cứu rỗi của mình dưới quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời. Trong năm phạm trù liên quan đến sự cứu rỗi theo sơ đồ “TULIP”, tư tưởng của Calvin và Arminius trong các phạm trù đầu tiên và cuối cùng (ở hai đầu của sơ đồ “TULIP”, tức “T” và “P”) khác nhau nhưng không gay gắt lắm. Đối với các phạm trù còn lại (ở giữa sơ đồ “TULIP”, tức “U”, “L”, và “I”), tư tưởng của họ hoàn toàn trái ngược nhau. Sự khác biệt đối kháng giữa hai quan điểm là sự khác biệt “ULI”: “Sự Lựa Chọn Vô Điều Kiện” (Unconditional Election) mà Calvin tin đối nghịch với “Sự Lựa Chọn Theo Điều Kiện” (Conditional Election) mà Arminius tin; “Sự Đền Tội Thay Hữu Hạn” (Limited Atonement) mà Calvin tin đối nghịch với “Sự Đền Tội Thay Vô Hạn” (Unlimited Atonement) mà Arminius tin; “Ân Điển Bất Khả Kháng” (Irresistible Grace) mà Calvin tin đối nghịch với “Ân Điển Khả Kháng” (Resistible Grace) mà Arminius tin. “U” nói về “Sự Lựa Chọn Vô Điều Kiện” (Unconditional Election). Calvin cho rằng chỉ duy nhất Đức Chúa Trời là Đấng lựa chọn người sẽ được cứu thể theo ân điển tối cao của Ngài. Chúng ta vốn được sinh ra trong trạng thái chết thuộc linh, hoàn toàn không có khả năng đáp ứng Đức Chúa Trời. Vì vậy, sự tiền định của Đức Chúa Trời về việc người nào sẽ được cứu không thể phụ thuộc chút nào vào người ấy cả. Arminius lập luận rằng Đức Chúa Trời chọn lựa người sẽ được cứu dựa theo sự biết trước của Ngài là ai sẽ chọn Ngài. “L” nói về “Sự Đền Tội Thay Hữu Hạn” (Limited Atonement). Calvin tin rằng huyết đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ trên Thập Tự Giá của Ngài là để đền tội thay cho người được tiền định cho sự cứu rỗi trong Ngài. Arminius tin rằng Đức Chúa Jêsus Christ chịu chết trên Thập Tự Giá là để đền tội thay cho tất cả mọi tội của tất cả mọi người trên thế gian. “I” nói về “Ân Điển Bất Khả Kháng” (Irresistible Grace). Calvin tin rằng ví Đức Chúa Trời tiền định người được cứu nên người ấy không có khả năng chống lại sự lựa chọn của Ngài. Ngược lại, Arminius cho rằng người được chọn cho sự cứu rỗi vẫn có ý chí cá nhân để khước từ sự chọn lựa của Đức Chúa Trời. Đối với hai phạm trù còn lại, “Ân Điển Bất Khả Kháng” (Irresistable Grace) và “Sự Bảo Tồn Các Thánh Đồ” (Perseverance of the Saints) Arminius và những người theo lập trường của Arminius ít kiên định hơn. Về “Ân Điển Bất Khả Kháng” (Irresistable Grace), Calvin cho rằng trạng thái tự nhiên của con người (sau Ađam) là họ được sinh ra trong tội lỗi, hoàn toàn chết về thuộc linh, không thể tự cứu mình được. Một số người theo Arminius đồng ý với Calvin về điểm này trong khi những người khác thì tin rằng sự suy đồi ấy là không toàn diện, tội nhân vẫn còn khả năng chọn lựa Đức Chúa Trời cho mình. Về “Sự Bảo Tồn Các Thánh Đồ” (Perseverance of the Saints), cả người theo Calvin lẫn người theo Arminius đều tin rằng “một khi đã được cứu sự cứu rỗi sẽ được bảo tồn”, người đã được cứu sẽ không bao giờ bị mất sự cứu rỗi được. Tuy nhiên, vẫn có một số người theo lập trường của Arminius cho rằng người được cứu vẫn còn chịu ảnh hưởng của thế gian chi phối nên hành vi (phạm tội) của họ có thể khiến cho Đức Chúa Trời thu hồi sự cứu rỗi mà Ngài đã từng ban cho họ. Tư tưởng của Calvin là hợp Kinh Thánh hơn tư tưởng của Arminius. Kinh Thánh phán rất rõ về trạng thái suy đồi toàn diện của mỗi cá nhân được sinh ra trong thế gian này (Sáng. 6:5; Giê. 17:9; Rô. 3:10-18). Do tình trạng suy đồi toàn diện của nhân loại, sự lựa chọn vô điều kiện là tất yếu để có được sự cứu rỗi cho con người (Rô. 8:29-30, 9-11; Êph. 1:4-6, 11-12). Trong trạng thái ô tội, con người không thể tự động nhận ân điển cứu chuộc cho mình được mà phải cần đến sự thu dung vô điều kiện của Đức Chúa Trời. Tương tự như thực trạng con người không thể tự đến với sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, sự ban cho ân điển cứu chuộc của Đức Chúa Trời mang tính bất khả kháng đối với con người khiến họ không thể khước từ ân điển Ngài được (Gi. 6:37, 44, 10:16). Đồng thời, cũng giống như việc con người không thể khước từ ân điển cứu rỗi của Đức Chúa Trời được, con người không thể trả lại sự cứu rỗi mà Đức Chúa Trời đã ban cho họ, giáo lý về sự bảo tồn các thánh đồ là hoàn toàn hợp Kinh Thánh (Gi. 10:27-29; Rô. 8:29-30; Êph. 1:3-14). Giáo lý về “Sự Đền Tội Thay Hữu Hạn” (Limited Atonement) là phạm trù duy nhất trong tư tưởng của Calvin mà người ta có thể đưa ra được các sự phản bác có hậu thuẫn Kinh Thánh. Cho dầu Kinh Thánh phán tỏ tường rằng Đức Chúa Trời tiền định người được cứu, vẫn có vẻ như Kinh Thánh ám chỉ rằng sự hy sinh đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ là giá chuộc cho tất cả mọi tội của toàn thể thế gian chứ không phải chỉ riêng cho tội lỗi của những người được cứu chuộc (1Gi. 2:2; Gi. 1:29, 3:16; 1Ti. 2:6; 2Phi. 2:1). Sự đáp trả của những người theo tư tưởng của Calvin cho vấn đề này như sau: Trên phương diện tiềm năng, sự hy sinh đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ có quyền năng cứu rỗi cho cả thế gian; trên phương diện tác dụng, quyền năng ấy chỉ hiệu nghiệm riêng trên những người được chọn của Đức Chúa Trời mà thôi. Nếu không như thế, hóa ra có một nghịch lý là những người đi Địa Ngục cũng đã được Đức Chúa Jêsus Christ đền tội thay rồi! Việc đào sâu tìm hiểu sự khác biệt giữa hệ tư tưởng của Calvin và hệ tư tưởng của Arminius trên vấn đề sự cứu rỗi là một điều đáng quí nhưng chúng ta cần nên biết rằng cả hai cũng đều chỉ là sự nổ lực của con người để giải thích các phạm trù Thiên Thượng. Đức Chúa Trời có hoàn toàn tể trị trên công nghiệp cứu rỗi của Ngài cho nhân loại không? Có! Con người có phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trong việc tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời ban cho trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ hay không? Có! Làm sao hai lẽ thật cơ bản ấy dung hợp nhau trong sự cứu rỗi dành cho người được cứu là điều mà cả Calvin và Arminius cùng trăn trở. Thế nhưng, cho dầu Calvin đúng hay Arminius đúng, hoặc có những dung hợp nào đó giữa hai hệ tư tưởng này, trách nhiệm cá nhân của mỗi chúng ta đối với công nghiệp cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ vẫn không thay đổi: Chúng ta phải rao Tin Lành cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ cho khắp thế gian (Ma. 28:19-20; Công. 1:8)! (Rev. Doan Nhat Tan, PhD)
“CHÂN GIÁ TRỊ, GIÁ TRỊ, VÀ Ý CHỈ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI ĐỐI VỚI CHÚNG TA” (Sáng. 1:26-27) “Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình Ta và theo tượng Ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:26-27) Cơ Đốc Nhân chúng ta lắm khi còn mơ hồ về những vấn đề như nhờ đâu con người được kể là tạo vật cao trọng hơn hết trong thế giới thọ tạo của Đức Chúa Trời, vì sao chúng ta phải tôn trọng tha nhân bất kể hiện trạng của họ là như thế nào, có hay không trường hợp mà một người nào đó có thể không được kính trọng, phải như thế nào để chúng ta biết tôn trọng và được tôn trọng nhiều hơn, phải như thế nào để chúng ta biết kính trọng và được kính trọng nhiều hơn,... Tất cả những vấn đề này sẽ không được hiểu biết đầy đủ và thỏa đáng mà có thể thiếu một sự hiểu biết về chân giá trị (dignity) và giá trị (value) của con người theo Kinh Thánh. Phạm trù “chân giá trị” (dignity) được Kinh Thánh đề cập dưới nhiều hình thái khác nhau, định danh hoặc bất định danh, nhưng không hề được nhấn mạnh như một chủ đề thần học Kinh Thánh... “Nàng mặc lấy sức lực và oai phong, Và khi tưởng đến buổi sau, bèn vui cười.” (Châm. 31:25) “Còn điều răn thứ hai đây, cũng như vậy: Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mình.” (Ma. 22:39; Sv. 37-40) Trong Châm. 31:25 chân giá trị của “người nữ tài đức” được định danh: “Oai phong” (Hb. Hb. רדה [hadar]) là một từ liệu nói về cái chân giá trị vốn có của người nữ này. Trái lại, trong Ma. 22:39 thì “chân giá trị” không được định danh dầu vẫn được xác định cách kín đáo: Hãy yêu “như mình”. Tương tự với “chân giá trị”, phạm trù “giá trị” (value) cũng là một phạm trù Kinh Thánh được đề cập dưới nhiều hình thái khác nhau, định danh hoặc bất định danh, nhưng không hề được nhấn mạnh như một chủ đề thần học Kinh Thánh... “Nàng mặc lấy sức lực và oai phong, Và khi tưởng đến buổi sau, bèn vui cười.” (Châm. 31:25) “Hãy kính mọi người; yêu anh em; kính sợ Đức Chúa Trời; tôn trọng vua.” (1Phi. 2:17) Ở “người nữ tài đức” không những chỉ có “chân giá trị” mà cả “giá trị” của nàng cũng được định danh: “Sức lực” (Hb. זע [‘oz]) là một từ liệu nói về sự uy dũng của nhân cách của người nữ này nhờ ở “chân giá trị” của nàng. Trái lại trong 1Phi. 2:17 thì “giá trị” không được định danh dầu vẫn được xác định cách kín đáo: Hãy “kính”, “yêu”, kính sợ”, “tôn trọng”. Dưới ánh sáng của Kinh Thánh, chỉ con người mới có chân giá trị, và chân giá trị của con người đến từ một sự cài đặt ngoại lai của Đức Chúa Trời vào bản chất người khi Ngài trực tiếp tạo dựng họ: “26 Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. 27 Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:26-27) Theo góc nhìn của con người đối với Đức Chúa Trời thì “chân giá trị” của con người là một sự thừa thọ căn bản đối với Đức Chúa Trời khiến họ hoàn toàn thuộc về Đức Chúa Trời. Ngược lại, từ góc nhìn của Đức Chúa Trời đối với con người thì “chân giá trị” của con người là một sự chia sẻ cốt lõi về chính chân giá trị của Ngài khiến cho con người có thể được ở trong mối hạnh ngộ vô cùng với chính Ngài. Theo góc nhìn của người đối với người thì người nam và người nữ đều có chân giá trị như nhau và vì vậy mà, về nguyên tắc, tất cả mọi người đều có chân giá trị như nhau. Khác với “chân giá trị”, phạm trù “giá trị” có thể được dùng để đề cập đến sức mạnh của nhân cách hay qui mô của sự hoàn thành của một người: “6 Cũng phải khuyên những người tuổi trẻ ở cho có tiết độ. 7 Hãy lấy mình con làm gương về việc lành cho họ, trong sự dạy dỗ phải cho thanh sạch, nghiêm trang, 8 nói năng phải lời, không chỗ trách được, đặng kẻ nghịch hổ thẹn, không được nói xấu chúng ta điều chi.” (Tít 2:6-8) Từ liệu “nghiêm trang” (Tít 2:7) trong Tiếng Hy Lạp là Gr. σεμνότης [semnotes] là một từ liệu nói về sự đáng kính có được nhờ việc chịu tuân theo những mẫu mực phù hợp với chân giá trị của Đức Chúa Trời. Chính “sự đáng kính” này cùng với những sự tương tự như thế làm nên “giá trị” cho một người. Như vậy “giá trị” là sự thể hiện ra qua nhân cách hay qui mô của sự hoàn thành của một người sống theo chân giá trị. Theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời, khi người ta không còn ở dưới sự ảnh hưởng của chân giá trị thì giá trị của họ cũng không còn: “Chúng tôi hết thảy đã trở nên như vật ô uế, mọi việc công bình của chúng tôi như áo nhớp; chúng tôi thảy đều héo như lá, và tội ác chúng tôi như gió đùa mình đi.” (Ês. 64:6) “22 Họ tự xưng mình là khôn ngoan, mà trở nên điên dại; 23 họ đã đổi vinh hiển của Đức Chúa Trời không hề hư nát lấy hình tượng của loài người hay hư nát, hoặc của điểu, thú, côn trùng.” (Rô. 1:22-23) “Người Nữ Tài Đức” trong Châm. 31 được mô tả như một người mặc đầy “chân giá trị” và “giá trị” là hai phạm trù tương quan nhau cách hữu cơ: Chân giá trị càng được nguyên vẹn, càng có hiệu lực tác động cao trên đời sống một người thì giá trị thể hiện ra trên đời sống người ấy càng cao: “25 Nàng mặc lấy sức lực và oai phong, Và khi tưởng đến buổi sau, bèn vui cười. 26 Nàng mở miệng ra cách khôn ngoan, Phép tắc nhân từ ở nơi lưỡi nàng. 27 Nàng coi sóc đường lối của nhà mình, Không hề ăn bánh của sự biếng nhác. 28 Con cái nàng chỗi dậy, chúc nàng được phước; Chồng nàng cũng chỗi dậy, và khen ngợi nàng rằng: 29 Có nhiều người con gái làm lụng cách tài đức, Nhưng nàng trổi hơn hết thảy.” (Châm. 31:25-29). Đức Chúa Trời muốn chúng ta tôn trọng (honor) chân giá trị của tha nhân và kính trọng (respect) tha nhân. Tôn trọng và kính trọng là hai phạm trù khác nhau, chúng có thể đi đôi với nhau chứ không nhất thiết sẽ cứ đi đôi với nhau. Nếu một vị quan chức mà có nhân cách quá tồi tàn thì rất khó cho người ta kính trọng vị quan chức ấy (respect); nhưng chức trách của vị quan chức ấy là điều vốn được Đức Chúa Trời ban cho (Sv. Rô. 13:1; 1Ti. 2:2; Tít 3:1) và trở thành một bộ phận trong chân giá trị của vị quan chức ấy thì phải được tôn trọng (honor). Đây là một nguyên tắc Kinh Thánh đòi hỏi chúng ta phải tôn trọng dầu rằng không thể kính trọng được (Sv. 1Phi. 2:17). Như vậy, tôn trọng mọi người là phận sự của chúng ta còn việc có được sự kính trọng của chúng ta hay không thì đó là việc của họ. Khi đời sống của một người, bất kể người đó là ai, tỏ ra cho thấy là không còn chịu tuân theo những mẫu mực phù hợp với chân giá trị của Đức Chúa Trời thì ấy là lúc họ tự đánh mất giá trị của mình. Kinh Thánh xem những người như vậy là người đang trong trạng thái ngủ về thuộc linh mà chỉ duy nhất Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ mới có thể thay đổi được họ khi họ chịu để cho Ngài thay đổi họ! “8 Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng; 9 vì trái của sự sáng láng ở tại mọi điều nhân từ, công bình và thành thật. 10 Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa, 11 và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm, thà quở trách chúng nó thì hơn; 12 vì dầu nói đến điều mà những người đó làm cách kín giấu, cũng đã là hổ thẹn rồi. 13 Nhưng hết thảy mọi sự đã bị quở trách đều được tỏ ra bởi sự sáng; phàm điều chi đã tỏ ra thì trở nên sự sáng vậy. 14 Cho nên có chép rằng: Ngươi đương ngủ, hãy thức, hãy vùng dậy từ trong đám người chết, thì Đấng Christ sẽ chiếu sáng ngươi.” (Êph. 5:8-14) Chân giá trị của chúng ta đến từ Đức Chúa Trời và giá trị của chúng ta tùy thuộc vào việc chúng ta chịu tuân theo những mẫu mực về giá trị phù hợp với chân giá trị của Đức Chúa Trời như thế nào. Nhưng, dầu có như thế nào thì Đức Chúa Trời vẫn muốn Cơ Đốc Nhân chúng ta phải là người dễ dạy! (Rev. Doan Nhat Tan, PhD)
“HỌ LÀ AI DƯỚI ÁNH SÁNG KINH THÁNH?” (Gal. 6:2) “Hãy mang lấy gánh nặng cho nhau, như vậy anh em sẽ làm trọn Luật Pháp của Đấng Christ” (Gal. 6:2) Cho đến ngày nay, giữa vòng những người tự nhận mình là “có Chúa” vẫn không ít người có giọng điệu gian trá của “con rắn xưa” (Sv. Khải. 12:9) để che đậy chân tướng phản phúc đối với Đấng đã chuộc mình (Sv. 2Phi. 2:1) và những người mà Đấng ấy đã sử dụng để gây dựng mình. Đó là những kẻ giả hình, làm bộ công bình cho lịch trình bí mật trong lòng mình (Sv. Lu. 16:15), làm bộ công bình để trốn tránh - cứ tạm gọi như vậy chứ có nhiều trường hợp đó là bản chất thật của họ được lộ ra chứ không còn là “trốn tránh” nữa - nghĩa vụ công bình mà Đức Chúa Trời đòi hỏi họ phải sống… “Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều chi chân thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thanh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen, thì anh em phải nghĩ đến. Hễ sự gì anh em đã học, đã nhận, đã nghe ở nơi tôi, và đã thấy trong tôi, hãy làm đi, thì Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ ở cùng anh em.” (Php. 4:8-9) “Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng; vì trái của sự sáng láng ở tại mọi điều nhân từ, công bình và thành thật. Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa, và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm, thà quở trách chúng nó thì hơn.” (Êph. 5:8-11) Đối với những con người như vậy thì họ luôn là “ẩn số” trong các mối quan hệ liên thân vị. Họ luôn tỏ ra mình là người công nghĩa bằng những cách nói như “tôi không quan tâm!”, “tôi chỉ cần lo chuyện của tôi thôi!” , “tôi không bênh ai, không bỏ ai cả!”… Thật ra họ chỉ là “ẩn số” khi chưa đặt đưới ánh sáng của Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời mà thôi! Một người đã được cứu là một người đã được ở trong địa vị công bình (Positional Righteousness. Sv. Rô. 10:4), chính từ địa vị ấy họ có năng lực sống đời sống công nghĩa thực hành (Practical Righteousness. Sv. Rô. 6:14; 1Tê. 5:21) và rồi với thời gian đức công nghĩa xã hội (Social Righteousness. Sv. Gia. 1:27) - tức sự phản ánh các mỹ đức của Đức Chúa Trời trong người theo Ngài - dần dần được hình thành để giúp họ trở nên giống Ngài qua hình ảnh Con Ngài… “Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định. Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em; còn những kẻ Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã gọi, những kẻ Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã xưng là công bình, và những kẻ Ngài đã xưng là công bình, thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển.” (Rô. 8:28-30) Một khi các giá trị công nghĩa của Đức Chúa Trời (“công nghĩa thực hành”, “công nghĩa xã hội”) bị một người chà đạp thì việc ấy khiến cho người ta phải nêu lên một dấu hỏi lớn về việc họ đang ở đâu đối với sự công nghĩa địa vị mà Đức Chúa Jêsus Christ đã qui kết cho họ theo công trình đền tội thay của Ngài trên thập tự giá… “Nhưng hiện bây giờ, sự công bình của Đức Chúa Trời, mà luật pháp và các đấng tiên tri đều làm chứng cho, đã bày tỏ ra ngoài luật pháp: Tức là sự công bình của Đức Chúa Trời, bởi sự tin đến Đức Chúa Jêsus Christ, cho mọi người nào tin. Chẳng có phân biệt chi hết, vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Đấng Đức Chúa Trời đã lập làm của lễ chuộc tội, bởi đức tin trong huyết Đấng ấy. Ngài đã bày tỏ sự công bình mình như vậy, vì đã bỏ qua các tội phạm trước kia, trong buổi Ngài nhịn nhục; tức là Ngài đã tỏ sự công bình Ngài trong thời hiện tại, tỏ ra mình là công bình và xưng công bình kẻ nào tin đến Đức Chúa Jêsus.” (Rô. 3:21-26) Người ta có thể thấy rằng mẫu người “Kẻ Sĩ” của thi hào Nguyễn Công Trứ chỉ là một mẫu người thế tục mà còn phải xem “Vũ trụ chi gian giai phận sự” (Nguyễn Công Trứ, “Kẻ Sĩ”) huống hồ là Cơ Đốc Nhân! Ca dao tục ngữ Việt Nam cũng khẳn định rằng “Làm trai cho đáng nên trai” (Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam) huống hồ là Cơ Đốc Nhân! Phan Bội Châu mà còn xác định được rằng “Sinh vi nam tử yếu hy kỳ” (Phan Bội Châu, “Xuất Dương Lưu Biệt”) huống hồ là Cơ Đốc Nhân! Thật ra lập luận “tôi không quan tâm!”, “tôi chỉ cần lo chuyện của tôi thôi!” , “tôi không bênh ai, không bỏ ai cả!”… của hạng người ngụy quân tử, giả công bình này là một sự ngụy biện nhằm che đậy ẩn ý của họ (Sv. 1Cô. 4:6) và lập luận này không thể nào đứng vững được trước các sự dạy dỗ tỏ tường của Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời về phận sự phải sống quan tâm của các Cơ Đốc Nhân! Lời Chúa dạy các Cơ Đốc Nhân phải… Yêu thương lẫn nhau – Gi. 13:34; Rô. 12:10; 13:8 Tha thứ nhau – Êph. 4:32; Côl. 3:13 Phục vụ nhau – Gal. 5:13 Hữu hảo với nhau – 1Phi. 4:7-10 Cầu nguyện cho nhau – Gia. 5:16 Gây dựng lẫn nhau – Rô. 14:19; 1Tê. 5:11 Chào kính nhau – Rô. 16:16; 1Cô. 16:20; 2Cô. 13:12; 1Phi. 5:14 Chịu đựng lẫn nhau – Êph. 4:1-2; Côl. 3:13-14 Đừng đoán phạt nhau – Rô. 14:13 Đừng nói hành nhau – Gia. 4:11 Đừng oán trách nhau – Gia. 5:9 Đừng cắn xé nhau – Gal. 5:15 Đừng khiêu khích lòng ganh tị đối với nhau – Gal. 5:26 Chăm lo cho nhau – 1Cô.12:25-26 Chấp nhận nhau – Rô. 15:7 Thuận phục (thuận thỏa) lẫn nhau – Êph. 5:21-22 Xưng nhận với nhau – Gia. 5:16 Đừng nói dối với nhau – Côl. 3:9 Nhân từ đối với nhau – Êph. 4:32 Khuyên dạy nhau – Côl. 3:16 Nhắc nhở nhau về việc giữ đức tin – Hê. 10:24 Khuyên bảo (chỉ vẽ) nhau – Rô. 15:14; Côl. 3:16 An ủi nhau – 1Tê. 4:18, 5:11 Mang lấy gánh nặng cho nhau – Gal. 6:2 Trong danh sách này, mệnh lệnh đầu tiên rằng “Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu nhau; như Ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể ấy” (Gi. 13:34) có tính chất của một môi trường xúc tác, kiến tạo để giúp cho Cơ Đốc Nhân thực hiện được các mệnh lệnh còn lại và sẽ được thể hiện ra ở một trong các nét đạo hạnh Cơ Đốc rất đặc trưng là “Hãy mang lấy gánh nặng cho nhau, như vậy anh em sẽ làm trọn Luật Pháp của Đấng Christ” (Gal. 6:2). Thiếu khởi điểm (Sv. Gi. 13:34) loại Cơ Đốc Nhân đột biến này nhất định không bao giờ có thể đi đến đích điểm được (Sv. Gal. 6:2) và như vậy - dưới ánh sáng Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời - hạng người này phải lộ nguyên hình là những người chưa thoát khỏi sự cầm buộc của sự công bình riêng theo bản chất xác thịt của mình! “Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng; vì trái của sự sáng láng ở tại mọi điều nhân từ, công bình và thành thật. Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa, và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm, thà quở trách chúng nó thì hơn.” (Êph. 5:8-11) (Rev. Doan Nhat Tan, PhD)
“ĐẮC THẮNG” “Chúa Cứu Thế Jêsus càng ngự trị trên đời sống chúng ta nhiều chừng nào thì ưu thế của Ngài, qua quyền năng Đức Thánh Linh, trên toàn bộ con người chúng ta càng đầy trọn chừng ấy…” Triển vọng đắc thắng trong cuộc chiến cầu nguyện sẽ không đến với chúng ta ngay trong một lúc. Đức Chúa Trời có một sự kiên trì lớn lao đối với con cái Ngài. Ngài chịu đựng sự chậm tiến của chúng ta trong sự kiên trì của Đấng làm Cha. Mỗi con cái của Đức Chúa Trời hãy vui thỏa trong các lời hứa Ngài qua lời Kinh Thánh. Đức tin càng mạnh, chúng ta càng nghiêm túc bền lòng cho đến cuối cùng. Chúa chúng ta phán lời sau đây liên quan đến một đời sống phong phú hơn khi Ngài phán rằng Ngài đã đến để ban sự sống cho chiên Ngài: “Ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống, và được sự sống dư dật” (Gi. 10:10). Một người có thể có sự sống, tuy nhiên, vì cớ thiếu sự dinh dưỡng hoặc vì sự đau ốm, sự sống của người ấy không được phong phú hoặc không được mạnh mẽ. Đây chính là sự khác biệt giữa Cựu Ước và Tân Ước. Chắc chắn trong Cựu Ước đã có sự sống, sự sống dưới Luật Pháp, nhưng không có ân điển dư dật của Tân Ước. Chúa Cứu Thế Jêsus đã ban sự sống cho các môn đồ Ngài, nhưng họ đã chỉ có thể nhận lấy sự sống dư dật qua sự phục sinh của Ngài và sự ban cho của Đức Thánh Linh. Mọi Cơ Đốc Nhân chân thực đều đã nhận được sự sống nơi Chúa Cứu Thế Jêsus. Thế nhưng phần đông đều không hiểu được về một đời sống phong phú hơn mà Ngài muốn trao ban. Sứ Đồ PhaoLô đã nói nhiều về phương diện ấy. Vị Sứ Đồ nói về “ân điển dư dật” trên chính đời sống mình: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi”, “Tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài làm cho chúng tôi được thắng trong Đấng Christ luôn luôn”, “Chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần”. Chúng ta đã nói về tội thiếu cầu nguyện, về phương thức để được giải thoát khỏi tội ấy, và về làm thế nào để tránh được tội này. Tất cả những gì đã được bàn về những điểm ấy có thể được gồm tóm trong chỉ một lời này của Chúa Cứu Thế: “Ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống, và được sự sống dư dật”. Thế nên điều quan trọng hơn hết đối với chúng ta là hiểu cho được thêm về sự sống ấy để chúng ta có thể thấy rõ được rằng một đời sống cầu nguyện đích thực không gì khác hơn là chúng ta phải bước đi trong một sự kinh nghiệm tăng tiến chưa từng thấy của một đời sống chứa chan sự sống. Không thể bắt đầu cuộc tranh chiến chống lại sự thiếu cầu nguyện trong sự dựa nương trên Chúa Cứu Thế, trong sự trông đợi nơi Ngài sự giúp đỡ, giữ gìn mà lại đồng thời vẫn cứ còn ở trong trạng thái nhụt chí, nản lòng. Đó chính là trạng thái nhìn sự thiếu cầu nguyện như một tội lỗi mà chúng ta cần phải cố công ra sức chống đỡ. Tự thân trạng thái nhụt chí, nản lòng ấy là một bộ phận của toàn bộ đời sống xác thịt được gắn bó chặt chẽ với các tội lỗi khác vốn được xuất phát từ cùng một nguồn gốc. Chúng ta quên mất rằng toàn bộ xác thịt cùng với mọi ảnh hưởng của nó, cho dầu là hiển thị trong tâm linh hay trong thân xác, phải được kể như đã bị đóng đinh trên thập tự giá. Chúng ta không được phép thỏa mãn với một đời sống yếu đuối mà phải tìm kiếm một đời sống phong phú, dư dật. Chúng ta phải dâng mình hoàn toàn để cho Đức Thánh Linh có thể ngự trị trọn vẹn trên chúng ta để hiển thị ra đời sống phong phú, dư dật ấy hầu cho có thể có được một sự chuyển hóa trong con người thuộc linh của chúng ta, và hầu cho ưu thế tuyệt đối của Chúa Cứu Thế và của Đức Thánh Linh được nhận biết qua đời sống của chúng ta. Vậy thì những sự cấu thành đích thực của đời sống phong phú, dư dật này là gì? Chúng ta không thể cứ lặp đi lặp lại hoặc khởi sự sự sống ấy theo những cách nào khác được, vì sự sống phong phú, dư dật ấy không gì khác hơn là việc Chúa Cứu Thế Jêsus càng ngự trị trên đời sống chúng ta nhiều chừng nào thì ưu thế của Ngài, qua quyền năng Đức Thánh Linh, trên toàn bộ con người chúng ta càng đầy trọn chừng ấy. Một khi Đức Thánh Linh làm cho sự đầy trọn của Chúa Cứu Thế và sự sống của Ngài hiện rõ trong đời sống chúng ta, đời sống ấy hiển thị được Chúa Cứu Thế trên ba phương diện chính: 1. Chúa Cứu Thế Là Đấng Đã Chịu Đóng Đinh Trên Thập Tự Giá. Chúa Cứu Thế Jêsus không phải chỉ thuần túy là Đấng đã chết để chuộc tội cho chúng ta mà Ngài còn là Đấng đem chúng ta đến với Ngài để cùng chết với Ngài trên thập tự giá, và là Đấng hiện nay đang hành động trong chúng ta theo quyền năng của sự chết và của thập tự giá Ngài. Bạn chỉ có mối tương thông đích thực với Ngài khi bạn có thể nói được rằng “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi”. Mọi xúc cảm và khuynh hướng của chúng ta đều phải ở trong Ngài theo như sự hạ mình và vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự, của Ngài. Chính đó là điều Chúa Cứu Thế muốn nói khi Ngài phán về Đức Thánh Linh rằng “Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi”. Đời sống phong phú, dư dật không phải có được bằng công phu luyện tập mà là nhờ ở sự dự phần theo một niềm tin trẻ thơ vào trong sự sống Ngài. 2. Chúa Cứu Thế Là Đấng Đã Được Phục Sinh Kinh Thánh thường đề cập đến sự phục sinh trong mối liên hệ với quyền năng hành dộng diệu kỳ của Đức Chúa Trời nhờ đó Chúa Cứu Thế đã sống lại từ trong cõi chết; và từ đó mà có sự bảo đảm rằng “Quyền vô hạn của Ngài, đối với chúng ta có lòng tin, là lớn dường nào, y theo phép tối thượng của năng lực mình, mà Ngài đã tỏ ra trong Đấng Christ, khi khiến Đấng Christ từ kẻ chết sống lại và làm cho ngồi bên hữu mình tại các nơi trên trời” (Êph. 1:19, 20). Đừng vội cho qua những lời này. Hãy quay lại để đọc lại những lời ấy, và hãy học biết bài học lớn ở đây là cho dầu bạn cảm thấy yếu đuối, bất năng đến như thế nào đi nữa thì quyền phép toàn năng của Đức Chúa Trời vẫn cứ hành động được trong bạn; và rằng nếu như bạn chỉ cần tin thôi, thì quyền năng ấy sẽ chia sẻ cho bạn sự phục sinh của Chúa Cứu Thế Jêsus trong cuộc sống mỗi ngày. Quả thật vậy, Đức Thánh Linh có thể đổ đầy cho bạn sự vui mừng và sự đắc thắng của sự phục sinh của Chúa Cứu Thế như quyền năng cho cuộc sống mỗi ngày của bạn ngay giữa những thử thách và cám dỗ của đời ác này. Hãy để thập tự giá hạ thấp bạn cho đến chết. Đức Chúa Trời sẽ đem lại cho bạn một sự sống thiên đàng qua Đức Thánh Linh. Thật chúng ta biết còn quá ít về toàn bộ công việc của Đức Thánh Linh để biến chúng ta thành người dự phần với Chúa Cứu Thế đã chịu đóng đinh và đã được phục sinh, và để biến chúng ta thành ra phù hợp với sự sống và sự chết của Ngài. 3. Chúa Cứu Thế Là Đấng Đã Được Tôn Vinh Hiển. Chúa Cứu Thế đã được tôn vinh hiển của chúng ta là Đấng ban phép báptem bằng Đức Thánh Linh. Khi chính Đức Chúa Jêsus được báptem bằng Đức Thánh Linh ấy là vì Ngài đã hạ mình để nhận báp-tem ăn năn của Giăng, phép báp-tem dành cho tội nhân, dưới sông Giôđanh. Dầu vậy, khi Ngài gánh vác lấy công việc cứu chuộc, Chúa Cứu Thế cũng đã nhận Đức Thánh Linh để bước vào công việc Ngài kể từ giờ phút ấy cho đến khi bước lên thập tự giá Ngài “dâng mình không tì tích cho Đức Chúa Trời”. Bạn có muốn rằng Chúa Cứu Thế đã được tôn vinh hiển này sẽ báptem bạn bằng Đức Thánh Linh không? Hãy dâng mình cho Ngài để hầu việc Ngài qua việc làm cho mọi tội nhân hiểu biết về tình yêu của Đức Chúa Cha. Ước mong rằng Đức Chúa Trời giúp cho chúng ta hiểu được rằng nhận Đức Thánh Linh từ nơi Đức Chúa Jêsus đã được tôn vinh hiển là một công việc lớn lao biết dường nào! Điều đó đòi hỏi một sự sẵn lòng, một sự khát khao của tâm linh để làm việc cho Ngài, và nếu cần, để chịu khổ vì Ngài. Bạn đã biết và yêu Chúa, đã làm việc cho Ngài, và bạn cũng đã được ban phước trong công việc ấy; thế nhưng Chúa còn có nhiều hơn thế để trao ban cho bạn. Ngài có thể trao ban nhiều hơn cho bạn, cho anh em, chị em tín hữu chung quanh chúng ta, và cho những người chăn bầy trong Hội Thánh bởi quyền năng của Đức Thánh Linh đến mức lòng chúng ta phải dầy dẫy sự kinh ngạc tột cùng. Bạn đã từng nắm bắt được điều ấy bao giờ chưa? Sự sống phong phú, dư dật không gì khác hơn là sự sống của Chúa Cứu Thế như Đấng đã chịu đóng đinh, như Đấng đã phục sinh, như Đấng đã được tôn vinh hiển là Đấng ban báptem bằng Đức Thánh Linh và bày tỏ chính mình Ngài trong tấm lòng của chúng ta và sống như là Đấng chủ tể trong chính đời sống chúng ta. Có một thành ngữ rằng “Hãy sống như đáng phải sống”. Đừng sống theo nhãn quan con người về những gì khả hữu. Hãy sống trong Lời Đức Chúa Trời, trong tình yêu và sự thành tín vô hạn của Đức Chúa Jêsus. Cho dầu điều ấy có diễn tiến chậm một chút, và có những sự vấp ngã nhất định nào đó, nhưng đức tin vẫn cứ cám ơn Ngài, không phải vì những gì kinh nghiệm được mà vì những lời hứa mà đức tin nương cậy, vẫn cứ tiến triển càng lúc càng mạnh hơn cho đến khi nắm chắc được sự bảo đảm phước hạnh rằng chính mình Đức Chúa Trời sẽ hoàn thiện công việc của Ngài trong đời sống chúng ta. “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi.” (Gal. 2:20)
“TRIỂN VỌNG…” “Cầu nguyện với Đức Chúa Trời không phải chỉ là đến với Ngài để cầu xin những điều gì đó. Trên hết, sự cầu nguyện là một sự tương giao với Đức Chúa Trời và là một trạng thái được đặt mình dưới quyền năng của sự thánh khiết và tình yêu thương của Ngài cho đến chừng Ngài ngự trị trên chúng ta và in sâu vào toàn bộ bản chất của chúng ta tính hạ mình của Đức Chúa Jêsus Christ, và đó cũng chính là bí quyết của sự thờ phượng.” Nếu bây giờ chúng ta đã được giải thoát khỏi tội thiếu cầu nguyện và đã hiểu được làm thế nào để có thể tiếp tục kinh nghiệm được sự giải thoát ấy thì kết quả của sự tự do của chúng ta là gì? Những ai nhận thức được một cách đúng đắn về điều ấy, với một sự nghiêm túc và bền chí đã được đổi mới, sẽ theo đuổi cho có được kết quả của sự tự do ấy. Chắc chắn đời sống và sự kinh nghiệm của người ấy sẽ là một bằng chứng cho việc họ đã nắm bắt được một điều gì đó có giá trị không kể xiết được. Họ sẽ là một bằng chứng sống động của mối phước hạnh mà sự đắc thắng ấy đã đem lại. Hãy suy nghĩ về sự tin quyết trong Đức Chúa Cha để nó sẽ thế chỗ cho sự ô nhơ và sự tự lên án trước đây đã từng một thời là điểm đặc trưng của đời sống chúng ta. Hãy suy nghĩ về sự ý thức sâu sắc mà ân điển toàn năng của Đức Chúa Trời đã thực hiện một số điều nhất định trong chúng ta để chứng minh cho chúng ta thấy mình có mang hình ảnh của Ngài và xứng hiệp đối với một đời sống tương thông cùng Ngài cũng như dọn mình để làm vinh hiển Ngài. Cho dầu có bị ám ảnh về tình trạng vô nghĩa của chúng ta, hãy suy nghĩ làm thế nào để chúng ta có thể sống như con cái thật của Vua Thiên Thượng trong mối tương thông với Cha mình, và có thể hiển thị đặc điểm của Đức Chúa Jêsus chúng ta trong mối thông công với Cha Ngài lúc Ngài còn ở trong thân trạng trên thế gian. Hãy suy nghĩ phải làm thế nào để thì giờ cầu nguyện trở thành thì giờ sung sướng nhất trong ngày của chúng ta, và làm thế nào để Đức Chúa Trời có thể sử dụng chúng ta góp phần vào chương trình của Ngài, và có thể biến chúng ta thành suối nguồn phước hạnh cho thế giới chung quanh chúng ta. Người giảng luận phải học biết cách tiếp nhận sứ điệp thực sự từ Đức Chúa Trời, nhờ quyền năng của Đức Thánh Linh, và rồi chuyển đến hội chúng cũng chính trong quyền năng ấy. Người ấy phải biết nhờ vào đâu mà mình có thể được đầy dẫy được tình yêu thương và lòng nhiệt thành vốn là những điều ban năng lực cho mình để có thể làm mục vụ qua việc thăm viếng, gặp gỡ từng cá nhân trong một tâm thế đầy thấu cảm dịu dàng. Người ấy có thể nói như Sứ Đồ PhaoLô rằng “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi”, và rằng “Chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần”, “Chúng tôi làm chức khâm sai của Đấng Christ, cũng như Đức Chúa Trời bởi chúng tôi mà khuyên bảo. Chúng tôi nhân danh Đấng Christ mà nài xin anh em: Hãy hòa thuận lại với Đức Chúa Trời”. Đây không phải là một giấc mơ hão huyền hay là sản phẩm của sự hoang tưởng. Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta gương chứng ở Sứ Đồ PhaoLô làm minh họa để rồi, cho dầu chúng ta có nhiều khác biệt với vị Sứ Đồ ấy về ân tứ và về ơn gọi, chúng ta vẫn cứ thể nghiệm được ân điển dư dật từ Thiên Thượng vốn giúp chúng ta có thể làm được mọi sự cho Ngài. Có một triển vọng mở ra cho chúng ta để chúng ta có thể dâng mình dự phần làm người cầu thay nhằm thực hiện một công việc lớn là mang lấy trong lòng gánh nặng về mọi nhu cần của Hội Thánh và toàn thế giới. Sứ Đồ PhaoLô đã cố đánh thức mọi người thời bấy giờ cầu nguyện cho các thánh đồ, và ông cho chúng ta biết về gánh nặng mà ông dành cho những người chưa bao giờ biết mặt. Với sự hiện diện trong thân xác, Sứ Đồ PhaoLô bị ràng buộc bởi thời gian và nơi chốn, thế nhưng trong Đức Thánh Linh ông có quyền năng Thánh Linh và Danh của Chúa Cứu Thế Jêsus để cầu nguyện cho những người chưa được nghe về Cứu Chúa có thể tiếp nhận được phước hạnh. Cùng với cuộc sống trong mối quan hệ với mọi người trên đời, dầu ở xa hay ở gần, Sứ Đồ PhaoLô còn sống một đời sống khác, một đời sống thiên đàng, là một cuộc sống của tình yêu thương và của quyền năng kỳ diệu trong sự cầu nguyện mà ông đã dày công theo đuổi. Khó lòng cho chúng ta có thể hình dung hết được quyền năng mà Đức Chúa Trời sẽ tuôn đổ xuống cho những người biết cầu nguyện trừ phi chúng ta được giải thoát khỏi tội thiếu cầu nguyện để cầu nguyện được với một sự mạnh mẽ chạm đến tận thiên đàng mà đem phước hạnh xuống trong Danh toàn năng của Đức Chúa Jêsus Christ. Quả thật là một triển vọng lớn lao! Cầu xin các Mục Sư và Giáo Sĩ được nhờ ơn Đức Chúa Trời mà bước vào trong sự cầu nguyện, chúng ta hãy ước ao cho họ có năng lực ấy gấp đôi cùng với đức tin và sự vui mừng! Được như thế sẽ đem lại biết bao là thay đổi trong sự giảng dạy, trong các buổi nhóm cầu nguyện, và trong mối thông công với tha nhân! Thật là một quyền năng dịu êm cho đời sống tâm linh để được thánh hóa nhờ mối tương thông với Đức Chúa Trời và với tình yêu của Ngài trong Đức Chúa Jêsus Christ! Thật là một tác động tuyệt vời có thể thực hành trong đời sống của kẻ tin nhằm thúc giục họ tiến lên trong công việc cầu thay! Tác động ấy sẽ lớn lao biết chừng nào giữa vòng Hội Thánh và người ngoại! Thật là một quyền năng mạnh mẽ có thể ảnh hưởng được trên biết bao người chăn bầy và Hội Thánh khác cũng như những người biết Đức Chúa Trời sẽ sử dụng chúng ta như thế nào cho Hội Thánh của Ngài trên thế gian này! Thật đáng cho chúng ta hy sinh mọi sự và khẩn cầu Đức Chúa Trời một cách không ngừng nghỉ để Ngài ban cho chúng ta một sự đắc thắng thực sự và trọn vẹn đối với tội thiếu cầu nguyện đã từng làm vấy bẩn đời sống của chúng ta. Tại sao phải viết về những điều này và quá đề cao về mối phước hạnh của sự đắc thắng trên tội thiếu cầu nguyện và về những điều cướp lấy mất của chúng ta một cách tàn bạo quyền năng mà Đức Chúa Trời đã dự bị sẵn cho chúng ta? Ấy là vì những cách suy nghĩ hạn hẹp mà chúng ta từng có về các lời hứa và quyền năng của Đức Chúa Trời; và vì chúng ta thường thiên về sự tái phạm, thiên về việc hạn chế quyền năng của Đức Chúa Trời, và thiên về việc cho rằng Ngài sẽ không thể làm được những điều quá lớn cho chúng ta. Có được một sự nhận thức tươi mới về Đức Chúa Trời trong nội tâm là một điều vinh hiển lớn lao. Tuy thế, đó cũng chỉ mới là sự khởi đầu. Điều còn lớn hơn và vinh hiển hơn sẽ là một sự nhận thức về Đức Chúa Trời như là Đấng Toàn Năng độc nhất vô nhị và biết ngửa trông nơi Thánh Linh Ngài mở toang tấm lòng và khối óc chúng ta ra để đón nhận những điều vĩ đại, những điều mới mẻ mà Ngài muốn trao ban cho những ai biết ngửa trông nơi Ngài. Ý định của Đức Chúa Trời là khích lệ cho đức tin và làm cho con cái và tôi tớ Ngài thấy được rằng họ sẽ không thể nào hiểu được mà phải nương cậy vào sự vĩ đại và sự toàn năng của Đức Chúa Trời, để rồi họ có thể hiểu một cách chính xác và trong một tinh thần trẻ thơ đối với lời của Chúa rằng “Đức Chúa Trời, bởi quyền lực cảm động trong chúng ta, có thể làm trổi hơn vô cùng mọi việc chúng ta cầu xin hoặc suy tưởng…” (Êph. 3:20). Như vậy, chúng ta có thể thấy được rằng Đức Chúa Trời của chúng ta thật là vĩ đại và vinh hiển biết bao! Có người sẽ nêu lên câu hỏi: “Liệu có nguy cơ về một sự đắc thắng nhất định nào đó trở thành một sự cám dỗ và dẫn đến sự coi thường và sự kiêu ngạo hay không?”. Hiển nhiên là có. Tất cả những gì tốt đẹp nhất trên thế gian này đều có thể bị dẫn đến chỗ lạm dụng. Vậy thì, làm thế nào để chúng ta có thể tránh khỏi tình trạng ấy? Chẳng có thể nhờ gì khác ngoài một sự cầu nguyện đích thực là điều có thể đem chúng ta vào trong mối giao tiếp với Đức Chúa Trời. Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời được truy cập qua sự cầu nguyện sẽ xóa bôi được tình trạng tội lỗi của chúng ta. Sự toàn năng và sự vĩ đại của Đức Chúa Trời sẽ làm cho chúng ta cảm nhận được tính vô nghĩa của mình. Sự tương giao với Đức Chúa Trời qua Đức Chúa Jêsus Christ sẽ đem chúng ta đến chỗ kinh nghiệm được rằng chẳng có điều gì tốt trong chúng ta cả, và chúng ta chỉ có thể có sự tương giao với Đức Chúa Trời khi nào mà đức tin của chúng ta đem chúng ta được đến chỗ hạ mình như chính Chúa Cứu Thế Jêsus đã hạ mình, và chúng ta thực sự sống trong Chúa Cứu Thế Jêsus như chính Ngài ở trong Đức Chúa Cha vậy. Cầu nguyện với Đức Chúa Trời không phải chỉ là đến với Ngài để cầu xin những điều gì đó. Trên hết, sự cầu nguyện là một sự tương giao với Đức Chúa Trời và là một trạng thái được đặt mình dưới quyền năng của sự thánh khiết và tình yêu thương của Ngài cho đến chừng Ngài ngự trị trên chúng ta và in sâu vào toàn bộ bản chất của chúng ta tính hạ mình của Đức Chúa Jêsus Christ, và đó cũng chính là bí quyết của sự thờ phượng. Vâng, chính trong Chúa Cứu Thế Jêsus mà chúng ta được đến gần Đức Chúa Cha như đối với những người đã theo Ngài trọn đời mình và đã chết trong Ngài, như những người mà Ngài đã sống trong họ và ban năng lực cho họ nói được rằng “Tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi”. Những gì chúng ta đã nói về công việc mà Đức Chúa Jêsus Christ làm trong chúng ta để giải thoát chúng ta ra khỏi tội thiếu cầu nguyện là nghiệm đúng không chỉ đối với sự khởi đầu của đời sống cầu nguyện nhưng cũng nghiệm đúng trên niềm vui mà sự kinh nghiệm mới mẻ về quyền năng cầu nguyện tạo ra cho chúng ta, nó nghiệm đúng trong toàn bộ mọi ngày sống trong đời sống cầu nguyện của chúng ta. “Qua Ngài” chúng ta có được lối đến gần với Đức Chúa Cha. Trong cách ấy, cũng như trong toàn bộ đời sống cầu nguyện, Chúa Cứu Thế là tất cả. Những người biết cầu nguyện chẳng còn thấy gì khác ngoài Đức Chúa Jêsus. Cầu xin Đức Chúa Trời củng cố cho chúng ta một niềm tin rằng có một sự đắc thắng để dành cho chúng ta, và rằng mối phước hạnh là cao vượt hẳn lên trên những gì lòng người có thể nghĩ ra được! Đức Chúa Trời sẽ thực hiện điều này cho tất cả những ai yêu mến Ngài. “20Vả, Đức Chúa Trời, bởi quyền lực cảm động trong chúng ta, có thể làm trổi hơn vô cùng mọi việc chúng ta cầu xin hoặc suy tưởng, 21nguyền Ngài được vinh hiển trong Hội thánh, và trong Đức Chúa Jêsus Christ, trải các thời đại, đời đời vô cùng! Amen.” (Êph. 3:20-21) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“BÍ QUYẾT” “Bạn có khao khát muốn được biết làm thế nàođể có thể luôn luôn kinh nghiệm được sự giải thoátkhỏi tội thiếu cầu nguyện hay không? Bí quyết là như thế này: Hãy tin quyết nơi Con Độc Sanh của Đức Chúa Trời, hãy dành thì giờ cho Ngài trong đời sống tâm linh cho Ngài hiển thị chính mình qua một trạng thái thân thiết chưa bao giờ có trong vị thế của Đấng Toàn Năng, Đấng Yêu Thương Đời Đời để chăm sóc bạn. Bạn sẽ kinh nghiệm được điều mà có thể là cho đến nay bạn vẫn còn xa lạ về những gì Đức Chúa Trời có thể làm cho những kẻ yêu mến Ngài.” Những gì chúng ta đã bàn về sự giải thoát khỏi tình trạng thiếu cầu nguyện cũng góp một phần trong việc giải đáp cho vấn nạn “Làm thế nào để sự kinh nghiệm về sự giải thoát ấy được duy trì?”. Sự cứu chuộc không phải chỉ được ban cho theo từng phần, hoặc như thể một cái gì đó mà chúng ta chỉ có thể sử dụng theo từng lúc. Sự cứu chuộc được ban cho như một tổng thể của ân điển vốn có trong Chúa Cứu Thế Jêsus mà người ta có thể vui hưởng trọn vẹn trong một mối tương giao tươi mới với Ngài. Điều này quá đỗi cần thiết phải được hiểu và phải được ăn sâu vào trong tâm trí của chúng ta đến nỗi cần phải phải được đề cập lại một lần nữa. Chẳng có gì có thể bảo toàn cho chúng ta tránh khỏi sự thiếu quan tâm, hoặc giúp giữ vững, một sự cầu nguyện sống động và đầy quyền năng ngoại trừ một mối tương giao thân thiết hàng ngày với Chúa Cứu Thế Jêsus của chúng ta. Đức Chúa Jêsus phán với các môn đồ Ngài: “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa... Khi Ta nói rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, thì hãy tin Ta... Kẻ nào tin Ta, cũng sẽ làm việc ta làm; lại cũng làm việc lớn hơn nữa...” (Gi. 14:1, 11, 12). Đức Chúa Jêsus muốn dạy dỗ các môn đồ Ngài rằng tất cả những gì họ đã học biết từ Kinh Thánh Cựu Ước có liên quan đến quyền năng, sự thánh khiết, và tình yêu thương của Đức Chúa Trời bây giờ phải được nhận thực trong Ngài. Họ không được phép chỉ biết thuần túy tin trên văn tự mà phải biết tin vào chính thân vị của Ngài. Họ phải tin rằng Ngài đã đến từ Đức Chúa Cha và Đức Chúa Cha ở trong Ngài, như thế họ chỉ có một sự sống, một sự vinh hiển. Tất cả những gì họ đã biết về Chúa Cứu Thế, họ cũng sẽ tìm thấy trong Đức Chúa Trời. Đức Chúa Jêsus nhấn mạnh nhiều về điểm này vì chỉ với một đức tin như thế vào nơi Ngài và vào nơi sự vinh hiển Thiên Thượng của Ngài thì họ mới có thể làm được công việc Ngài đã làm, và rồi mới có thể làm được cả những việc lớn hơn nữa. Đức tin này sẽ dẫn họ đến chỗ nhận biết được rằng giống như Chúa Cứu Thế và Đức Chúa Cha là Một, họ cũng sẽ ở trong Chúa Cứu Thế và Chúa Cứu Thế sẽ ở trong họ. Chính mối tương giao thuộc linh, mật thiết, và không gián đoạn này với Đức Chúa Jêsus tự hiển thị một cách đầy quyền năng trong đời sống của chúng ta, và đặc biệt là trong đời sống cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau xem xét về điều ấy để thấy được rằng tất cả mọi thuộc tính vinh hiển của Đức Chúa Trời đều có trong Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta. 1. Tính Toàn Tại Của Đức Chúa Trời. Tính toàn tại hay tính vô sở bất tại của Đức Chúa Trời là thuộc tính giúp Đức Chúa Trời hiện diện khắp trong toàn cõi vũ trụ trong mọi thời điểm. Cũng như Đức Chúa Cha, Đức Chúa Jêsus bây giờ đang hiện diện ở tất cả mọi nơi, nhất là Ngài hiện diện với những người đã được cứu. Đây là một bài học lớn và quan trọng hơn hết mà đức tin chúng ta phải có. Chúng ta có thể hiểu về điều này một cách tỏ tường qua gương sáng của các môn đồ của Đức Chúa Jêsus. Đặc ân của các môn đồ này, những người luôn ở trong mối tương giao với Ngài, là gì? Đó là sự vui hưởng một sự hiện diện khong hề gián đoạn với Đức Chúa Jêsus. Chính vì lẽ này mà họ đã vô cùng xót xa khi nghĩ về sự thể Ngài phải chịu chết. Họ nhận biết họ sẽ bị cướp đi mất sự hiện diện ấy. Trong tình cảnh ấy, Đức Chúa Jêsus đã làm thế nào để an ủi họ? Ngài đã hứa rằng Đức Thánh Linh từ thiên đàng sẽ đến để hình thành trong họ một sự cảm thức đầy trọn về sự hiện diện của Ngài đến độ Ngài vẫn cứ gần gũi và mật thiết với họ cũng như có một mối tương giao không sao đổ vỡ được còn hơn cả những gì họ đã kinh nghiệm được trong lúc Ngài còn sống trong thân trạng trên thế gian. Lời hứa tuyệt vời này hiện nay là di sản cho toàn thể mọi kẻ tin, cho dầu là có không ít người chẳng hề hiểu biết mấy về điều đó. Hiện nay Đức Chúa Jêsus Christ, trong thân vị thiên đàng của Ngài, trong tình yêu đời đời đã khiến Ngài phải treo thân trên thập tự giá để chuộc tội cho chúng ta, khát khao có được mối tương giao với chúng ta trong mỗi phút giây và giữ chúng ta trong sự vui hưởng mối tương giao ấy. Điều này cần phải được giải thích cho mọi người tiếp nhận Chúa Cứu Thế Jêsus hiểu: “Chúa yêu bạn đến độ Ngài đòi bạn phải sát gần Ngài không một chút lơi lỏng để bạn có thể nếm biết được tình yêu của Ngài”. Đó cũng chính là điều mà những ai đã rơi vào một đời sống thiếu năng lực cầu nguyện, thiếu năng lực vâng lời, thiếu thánh khiết phải học biết. Chỉ duy nhất điều ấy mới đem lại cho chúng ta quyền năng để làm người cầu thay hầu chinh phục thế giới và những linh hồn hư mất cho Cứu Chúa của chúng ta. 2. Tính Toàn Năng Của Đức Chúa Trời. Quyền năng của Đức Chúa Trời thật tuyệt diệu biết bao! Chúng ta nhận ra quyền năng Ngài qua tạo vật; chúng ta nhận ra quyền năng Ngài qua Kinh Thánh Cựu Ước. Chúng ta cũng nhận ra quyền năng Đức Chúa Trời trong công nghiệp tuyệt vời của Chúa Cứu Thế mà Đức Chúa Cha đã thực hiện trong Ngài, và trên hết là qua sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Chúng ta được mời gọi đặt niềm tin nơi Đức Chúa Con như chính chúng ta tin Đức Chúa Cha. Đức Chúa Jêsus là Đấng, bằng tình yêu của Ngài, thân thiết với chúng ta không thể tưởng được và là Đấng Quyền Năng vô hạn, chẳng có sự chi là bất năng đối với Ngài cả. Cho dầu tấm lòng và xác thân của chúng ta có bất tuân chúng ta đến đâu thì Ngài cũng cứ thắng được. Tất cả mọi sự đều đã được phán hứa trong Lời Đức Chúa Trời, tất cả đều là di sản cho chúng ta là con cái của Sự Giao Ước Mới được thừa hưởng nhờ sự trao ban từ nơi Đức Chúa Jêsus Quyền Năng. Nếu nội tâm tôi biết sấp mình trước mặt Ngài, tôi sẽ được ở trong quyền năng của Đức Chúa Trời. Nếu mỗi ngày tôi chịu giao thác đời sống của tôi cho Đức Chúa Jêsus thì tôi có thể yên tâm rằng chính quyền phép toàn năng đời đời của Ngài sẽ đem tôi vào trong sự che chở và sẽ hoàn thành mọi sự cho tôi. Quả thật là kỳ diệu vì chỉ cần dành thì giờ cho cuộc sống nội tâm thôi thì chúng ta sẽ nếm biết được một cách đầy trọn về thực tại của sự hiện diện của Đức Chúa Jêsus Quyền Năng! Một mối phước hạnh lớn lao biết bao qua đức tin của chúng ta: Mối tương giao không thể bị phá vỡ với một Cứu Chúa Quyền Năng Toàn Năng. 3. Tình Yêu Thánh Khiết Của Đức Chúa Trời. Điều này có nghĩa là, với một sự toàn tâm, Đức Chúa Trời trao ban cho chúng ta mọi thuộc tính Thiên Thượng của Ngài cho sự hầu việc của chúng ta và sửa soạn để chia sẻ chính mình Ngài cho chúng ta. Chúa Cứu Thế Jêsus là sự mặc khải của tình yêu của Ngài. Đức Chúa Jêsus là Con Độc Sanh của tình yêu của Ngài, là quà tặng của tình yêu của Ngài, là quyền năng của tình yêu của Ngài. Chính Đức Chúa Jêsus này, Đấng đã bước lên thập tự giá để bày tỏ một bằng chứng hiển nhiên cho tình yêu của Đức Chúa Trời qua sự chết và sự rải huyết của Ngài hầu cho chúng ta có thể tin nơi tình yêu ấy, là Đấng đến để giao ngộ với chúng ta trong đời sống tâm linh và ban cho chúng ta một sự bảo đảm tuyệt đối rằng mối tương giao không thể bị phá vỡ được với Ngài là di sản cho chúng ta thừa hưởng, và chúng ta thừa hưởng được nhờ Ngài. Tình yêu thánh khiết của Đức Chúa Trời đã hy sinh mọi sự để đắc thắng tội lỗi và biến nó thành vô nghĩa đã đến với chúng ta qua Chúa Cứu Thế Jêsus để cứu chúng ta thoát khỏi mọi tội. Hãy dành thì giờ để suy gẫm về lời Chúa phán: “Hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin ta nữa”. “Ngươi há không tin rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, hay sao?”. Đó là bí quyết của đời sống cầu nguyện. Hãy dành thì giờ cho đời sống tâm linh để sấp mình thờ phượng; và đợi chờ cho đến lúc Ngài tỏ mình và ngự trị trên chúng ta, để rồi Ngài thể hiện qua chúng ta cho mọi người thấy được thể nào con người có thể sống và bước đi trong một mối tương giao với một Cứu Chúa không nhìn thấy được. Bạn có khao khát muốn được biết làm thế nào để có thể luôn luôn kinh nghiệm được sự giải thoát khỏi tội thiếu cầu nguyện hay không? Bí quyết là như thế này: Hãy tin quyết nơi Con Độc Sanh của Đức Chúa Trời, hãy dành thì giờ cho Ngài trong đời sống tâm linh cho Ngài hiển thị chính mình qua một trạng thái thân thiết chưa bao giờ có trong vị thế của Đấng Toàn Năng, Đấng Yêu Thương Đời Đời để chăm sóc bạn. Bạn sẽ kinh nghiệm được điều mà có thể là cho đến nay bạn vẫn còn xa lạ về những gì Đức Chúa Trời có thể làm cho những kẻ yêu mến Ngài. “1Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa… 10Ngươi há không tin rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, hay sao? Những lời Ta nói với các ngươi, chẳng phải Ta tự nói; ấy là Cha ở trong Ta, chính Ngài làm trọn việc riêng của Ngài. 11Khi Ta nói rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, thì hãy tin Ta; bằng chẳng, hãy tin bởi công việc Ta. 12Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, kẻ nào tin Ta, cũng sẽ làm việc Ta làm; lại cũng làm việc lớn hơn nữa, vì Ta đi về cùng Cha. 13Các ngươi nhân danh Ta mà cầu xin điều chi mặc dầu, Ta sẽ làm cho, để Cha được sáng danh nơi Con. 14Nếu các ngươi nhân danh Ta xin điều chi, Ta sẽ làm cho.” (Gi. 14:1, 10-14) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“LÀM THẾ NÀO?” “Nếu sự e ngại và lưỡng lự vẫn cứ còn, cầu xin cho bạn được nhờ ơn thương xót của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ, và nhờ sự thành tín không kể xiết về tình yêu thương dịu dàng của Ngài, để bạn dám dâng mình trước mặt Ngài. Hãy cứ tin chắc với tất cả tấm lòng rằng từ nơi Ngài sẽ có sự giải thoát cho khỏi tội thiếu cầu nguyện.” Chướng ngại vật lớn nhất trên đường đi đến sự đắc thắng đối với tình trạng thiếu cầu nguyện là cái cảm thức âm thầm cho rằng chúng ta sẽ không bao giờ có được mối phước hạnh được giải thoát khỏi nó. Chúng ta thường tiến hành sự nỗ lực của chúng ta theo chiều hướng ấy và chẳng gặt hái được gì. Thói quen cố cựu và sức mạnh của xác thịt, những sự cuốn hút từ môi trường sống của chúng ta,... tất cả xem chừng đều quá mạnh đối với chúng ta. Khi trong lòng cho rằng không sao với đến được thì còn cố gắng mà làm chi? Sự thay đổi có cần cho đời sống sao mà lớn lao và khó khăn quá! Mỗi khi câu hỏi được nêu lên là “Liệu có thay đổi được không?” thì câu trả lời cứ là “Ôi! Đối với tôi quả thật là không thể có được”. Bạn có biết câu trả lời ấy từ đâu đến không? Ấy là tại vì bạn đã nhận lấy sự kêu gọi về việc cầu nguyện giống như lời kêu gọi từ Môise và sự đòi hỏi của Luật Pháp. Môi-se và Luật Pháp Môise chưa hề giúp cho bất cứ ai có được quyền năng vâng lời. Bạn có thực sự khát khao về lòng can đảm để tin rằng sự giải thoát khỏi một đời sống thiếu cầu nguyện là một điều khả hữu đối với bạn và nó hoàn toàn có thể trở thành một thực tại hay không? Kế đến, bạn phải học biết bài học quan trọng rằng một sự giải thoát như thế đã được gồm tóm trong Chúa Cứu Thế Jêsus, tức nó là một phước hạnh của Sự Giao Ước Mới mà chính Đức Chúa Trời sẽ san sẻ cho bạn qua Chúa Cứu Thế Jêsus. Khi bạn bắt đầu hiểu được điều ấy, bạn sẽ nhận ra lời khuyên giục rằng “Hãy... cầu nguyện không thôi” chuyển tải một sứ điệp mới mẻ hơn. Trong lòng bạn bắt đầu dấy lên một niềm hy vọng mới rằng Đức Thánh Linh – Đấng ban cho vào trong lòng bạn để cứ gọi “Aba! Cha!” - sẽ đem lại cho bạn một đời sống cầu nguyện đích thực. Thế rồi bạn sẽ nghe được, không phải trong một tình trạng nản lòng mà là trong trạng thái hân hoan của sự hy vọng, lời kêu gọi bạn đến sự ăn năn. Lắm phen người ta quay về với nội tâm mình trong một tâm trạng chua chát, tự lên án mình sao cầu nguyện quá ít; và rồi đã hạ quyết tâm rằng sẽ sống theo một cách thế khác hẳn trong tương lai. Tuy thế vẫn chẳng có một phước hạnh nào đến cả là vì không phải nhờ sức mạnh mình mà người ta trung tín được, và sự kêu gọi ăn năn vẫn chưa có được quyền năng vì người ta vẫn còn chưa biết chăm chú vào Chúa Jêsus. Nếu người ta nhận thức được điều ấy, tất người ta sẽ thức với Chúa như thế này: “Chúa ôi! Ngài biết lòng con giá băng và đen tối đến thế nào; con biết rằng con phải cầu nguyện, nhưng con cảm thấy con không thể làm điều đó được; con thiếu một sự bức xúc và một niềm khát khao đối với sự cầu nguyện”. Người ta không biết rằng tại lúc ấy, Chúa Cứu Thế Jêsus đang trông xuống và phán với giọng dịu êm của Ngài rằng “Con không thể cầu nguyện được; con cũng biết rằng tất cả chỉ là giá băng và đen tối; tại sao con lại không đem trao tất cả vào tay Ta? Hãy chỉ tin quyết rằng Ta sẵn sàng giúp cho con trong sự cầu nguyện; Ta khát khao được rải kín tình yêu của ta vào tấm lòng của con để rồi, trong sự nhận biết sự yếu đuối của mình, con có thể tin cậy mà dựa nương vào ta để có thể được trao ban ân điển về sự cầu nguyện. Cũng giống như Ta sẽ tẩy sạch cho con khỏi mọi tội lỗi khác, Ta sẽ giải thoát con khỏi tội thiếu cầu nguyện – miễn là con đừng đi tìm sự đắc thắng bằng sức riêng của mình. Hãy sấp mình trước mặt Ta như một người ngửa trông mọi sự trước một Cứu Chúa. Hãy để linh hồn con yên lặng trước mặt Ta cho dầu con có cảm thấy buồn rầu về thực trạng của mình đến bao nhiêu cũng vậy. Hãy chỉ chắc chắn về một điều này mà thôi: Ta sẽ dạy cho con cầu nguyện”. Người ta thường thừa nhận như thế này: “Tôi biết lỗi lầm của tôi; tôi cũng không nghĩ rằng Đức Chúa Jêsus phải giải thoát tôi và tẩy sạch tôi khỏi tội lỗi này. Tôi đã không nhận thức được rằng Ngài ở cùng tôi mỗi ngày trong nội tâm tôi, và tôi ở trong tình yêu bao la của Ngài sẵn sàng gìn giữ và ban phước cho tôi dầu tôi có cảm thấy mình tội lỗi ô uế đến thế nào đi nữa. Tôi đã không nhận thấy được rằng cũng giống như Ngài sẽ ban cho mọi thứ ân điển để đáp lời sự cầu nguyện, thì trên hết, Ngài sẽ ban cho ân điển về một tấm lòng cầu nguyện. Thật là ngớ ngẩn vô cùng khi tin rằng mọi phước hạnh đều đến từ Ngài mà lại tưởng rằng sự cầu nguyện, là điều mà mọi sự đều tùy thuộc vào đó, lại phải được nắm bắt bằng chính nỗ lực của cá nhân! Cám ơn Chúa vì bây giờ thì con đã hiểu – Chính Chúa Cứu Thế Jêsus trong nội tâm con đang trông nom con và nhận lấy trách nhiệm dạy dỗ con biết làm thế nào để đến gần Đức Chúa Cha. Ngài chỉ đòi hỏi duy nhất một điều là con phải chờ đợi Ngài bằng một lòng tin của trẻ thơ và phải làm sáng danh Ngài”. Anh em, chị em ơi! Phải chăng chúng ta đã quên lãng một cách tệ hại về lẽ thật này? Từ một đời sống thuộc linh khiếm khuyết, chẳng có gì khác hơn là một đời sống cầu nguyện khiếm khuyết. Với một đời sống thuộc linh khiếm khiết thì nỗ lực để cầu nguyện tốt hơn quả thật là uổng công. Đó là một điều bất khả thi. Chẳng có gì cần thiết hơn là sự kinh nghiệm rằng “Nếu ai ở trong Đấng Christ , thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới”. Đây đúng là điều xác thực đối với những ai hiểu và kinh nghiệm được thế nào là ở trong Chúa Cứu Thế Jêsus. Toàn bộ mối tương giao của chúng ta với Chúa Cứu Thế Jêsus phải là một trạng thái mới. Chúng ta phải tin cậy vào tình yêu tuyệt đối của Ngài là một tình yêu thực sự khát khao được tương thông với chúng ta trong mọi lúc và giữ cho chúng ta ở trong sự vui hưởng mối tương giao với Ngài. Chúng ta phải tin cậy vào quyền năng Thiên Thượng của Ngài là một quyền năng đã từng đắc thắng đối với tội lỗi và có khả năng giữ cho chúng ta khỏi bị nó xâm hại. Chúng ta phải tin cậy vào Ngài như là Đấng cầu thay vĩ đại, nhờ Đức Thánh Linh, sẽ cảm ứng cho mọi thành viên của Hội Thánh bằng niềm vui và quyền năng để tương thông với Đức Chúa Trời qua sự cầu nguyện. Đời sống cầu nguyện của chúng ta phải được đặt trong vòng điều khiển của Chúa Cứu Thế Jêsus và tình yêu của Ngài. Nhiên hậu, sự cầu nguyện của chúng ta sẽ có được những gì nó vốn có như là nhịp thở tự nhiên và đầy vui sướng của đời sống thuộc linh để cho bầu không khí thiên đàng được hít vào và thở ra. Chúng ta có thể nhận thấy rằng một khi đức tin này ngự trị trong chúng ta thì lời kêu gọi về đời sống cầu nguyện sẽ trở thành lời kêu gọi được hoan nghênh. Lời kêu gọi rằng “Hãy ăn năn về tội thiếu cầu nguyện” không phải là một lời kêu gọi để được đáp trả bằng tiếng thở dài vô vọng, hoặc bằng sự bất ứng của tính xác thịt. Lời mời của Cha Thiên Thượng sẽ được đón nhận vì Ngài có mở toang trước mặt Ngài một cánh cửa và tiếp nhận chúng ta bước vào mối thông công cùng chính Ngài. Lời cầu nguyện xin có sự cứu giúp của Đức Thánh Linh để cầu nguyện được sẽ không còn ở trong nỗi lo ngại cho rằng đó là một điều quá to tát đối với sức lực của chúng ta nữa; nỗi lo ngại ấy sẽ được trút bỏ dưới chân Chúa trong sự bất lực tuyệt đối của chúng ta để rồi chúng ta tìm ra được sự đắc thắng từ quyền năng và tình yêu tuôn tràn qua sự chấp thuận của Ngài. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“VẤN ĐỀ TRỌNG TÂM TRONG CUỘC CHIẾN CẦU NGUYỆN” “Con cái của Đức Chúa Trời thắng hơn mọi sự nhờ sự cầu nguyện. Bởi vậy cho nên chẳng lạ gì việc Satan phải làm hết sức mình để giật lấy cho được món vũ khí ấy ra khỏi tay họ, hoặc ít ra thì cũng ngăn trở không cho họ biết sử dụng và giỏi sử dụng được món vũ khí lợi hại ấy.” Xin đừng tìm kiếm loanh quanh để có một sự giải thích về tình trạng thiếu cầu nguyện khiến chúng ta khốn khổ; hãy kiếm sự giải thích ấy chính ngay tại Lời Đức Chúa Trời: Chính mối ác cảm tiềm ẩn trong tấm lòng đối với một Đức Chúa Trời thánh khiết khiến cho chúng ta phải chịu một đời sống thiếu cầu nguyện. Một khi Cơ Đốc Nhân không đầu phục hoàn toàn theo sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh – và đó chính là ý muốn tỏ tường của Đức Chúa Trời mà cũng là công việc của Ân Điển Ngài – nhất định họ phải sống, mà không biết, dưới sức mạnh của “xác thịt”. Đời sống theo “xác thịt” này biểu lộ theo nhiều cách thế khác nhau. Nó có thể biểu hiện qua tinh thần nóng vội, hoặc qua sự nóng giận bộc phát bất chợt, hoặc qua việc thiếu lòng yêu thương mà lắm khi họ phải tự trách mình; nó cũng có thể biểu hiện qua việc tìm thấy sự khoái lạc đối với việc ăn nhậu là điều lắm phen lương tâm họ lên tiếng cáo trách họ; nó cũng còn biểu hiện qua việc theo đuổi ý riêng và việc tự tôn cao mình, qua việc tự tin ở sức mạnh và sự khôn ngoan riêng của mình, qua việc cảm ứng thuận với những điều vui thú trong thế gian là những điều khiến họ phải hổ thẹn trước mặt Đức Chúa Trời. Tất cả những điều như thế là đời sống “theo xác thịt”. “Anh em há chẳng phải là tánh xác thịt ăn ở như người thế gian sao?” (1Cô. 3: 3), chắc hẳn lời này lắm phen khuấy động tấm lòng chúng ta; chúng ta không thể nào hoàn toàn bình an, thanh thản trong Đức Chúa Trời được. Tất cả Cơ Đốc Nhân chúng ta phải trả lời được cho câu hỏi sau đây: Liệu tôi có thể tìm thấy ở đây câu trả lời về nguyên nhân cho tình trạng thiếu cầu nguyện của tôi cũng như cho tình trạng bất năng đối với việc đem lại một sự thay đổi cho vấn đề hay không? Tôi sống trong Thánh Linh, tôi đã từng được tái sanh, nhưng tôi lại không bước đi theo Thánh Linh. “Xác thịt” vẫn còn có quyền điều động trên đời sống của tôi. Một đời sống theo “xác thịt” không thể cầu nguyện được trong Thánh Linh và trong quyền năng. Cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ cho tôi. Đời sống theo xác thịt là căn nguyên hiển nhiên của tình trạng thiếu cầu nguyện đáng buồn và đáng xấu hổ của tôi. Khái niệm “vị trí chiến lược” là một khái niệm không được phép thiếu trong tư duy chiến đấu trong mọi loại chiến tranh. Khái niệm này vô cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh trường kỳ giữa Vương Quốc Thiên Đàng với các thế lực của bóng tối. Khi một vị tướng chọn một vị trí để từ đó tấn công vào quân thù, ông dồn hết sức chú ý vào những điểm mà ông cho là quan trọng hơn hết trong chiến cuộc. Trong trận chiến Waterloo, tướng Wellington đã nhận ra ngay một nông trại nọ có vị trí chiến lược ấy. Ông đã không tiếc lực lượng để chiếm cho được vị trí ấy: Thắng lợi toàn cuộc phụ thuộc vào điều đó. Nhờ đó tướng Wellington đã chiến thắng. Cũng tương tự như thế trong cuộc chiến giữa tín hữu với các quyền lực của bóng tối. Tâm trí (nội tâm) của mỗi người là vị trí quyết định cho sự chiến thắng. Kẻ thù luôn dồn mọi nỗ lực để lôi kéo các Cơ Đốc Nhân, nhất là những người chăn bầy, đi đến chỗ xao lãng sự cầu nguyện. Kẻ thù biết rằng cho dầu có hưởng ứng bài giảng đến đâu, buổi nhóm có thu hút đến đâu, chăm sóc mục vụ có trung tín đến đâu,... những điều này cũng không tác hại mấy trên lãnh địa của nó một khi sự cầu nguyện vẫn còn bị xao lãng. Khi Hội Thánh biết dấu mình trong quyền năng ở đời sống tâm linh trong nội tâm, và rồi các chiến sĩ của Chúa nhận được quyền phép từ trên cao qua việc quì gối cầu nguyện, nhất định các thế lực của bóng tối sẽ bị rúng động và rồi linh hồn tội nhân sẽ được giải thoát. Trong Hội Thánh, trên cánh đồng truyền giáo, đối với những người chăn bầy cũng như đối với các hội chúng, mọi sự đều tùy thuộc vào việc thực hành một cách trung tín quyền năng của sự cầu nguyện. Có hai bên tranh chấp nhau về một vấn đề. Đó là một Cơ Đốc Nhân và một con quỷ. Con quỷ nhận ra rằng Cơ Đốc Nhân có một thứ vũ khí lợi hại giúp đem lại chiến thắng. Hai bên phải giáp mặt nhau trong một cuộc chiến quyết định, và con quỷ kiên quyết cướp cho được thứ vũ khí ấy của đối phương để phá hỏng đi. Thế là tạm thời nguyên nhân chính của cuộc tranh chiến đã trở nên phụ; vấn đề còn lại vào lúc này là ai sẽ có được thứ vũ khí mà sự chiến thắng sẽ tùy thuộc vào đó? Chính đó mới là điều quan trọng sống còn cần phải giành cho được. Đó chính là điều thực hữu trong cuộc tranh đấu giữa Satan và Cơ Đốc Nhân. Con cái của Đức Chúa Trời thắng hơn mọi sự nhờ sự cầu nguyện. Bởi vậy cho nên chẳng lạ gì việc Satan phải làm hết sức mình để giật lấy cho được món vũ khí ấy ra khỏi tay họ, hoặc ít ra thì cũng ngăn trở không cho họ biết sử dụng và giỏi sử dụng được món vũ khí lợi hại ấy. Thế thì Satan làm thế nào để ngăn trở sự cầu nguyện? Chính bằng việc cám dỗ hủy bỏ hoặc rút ngắn sự cầu nguyện qua việc đem lại cho tâm trí một tình trạng vô định cùng với đủ loại xao lãng; cũng như bằng sự chẳng tin và thiếu hy vọng. Hạnh phúc thay những anh hùng cầu nguyện là những người vượt qua được tất cả mọi điều trở ngại ấy để cứ chăm chắm vào việc vận dụng món vũ khí lợi hại của mình. Cũng giống như Chúa chúng ta trong vườn Ghếtsêmanê, kẻ thù càng công kích dữ dội, Chúa càng cầu nguyện một cách nghiêm túc và không ngừng nghỉ cho đến khi có được sự đắc thắng. Sau khi nêu đủ các phần vũ khí của người chiến sĩ của Đức Chúa Trời, Sứ Đồ PhaoLô nói thêm rằng “Hãy nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin. Hãy dùng sự bền đỗ trọn vẹn mà tỉnh thức về điều đó” (Êph. 6:18). Thiếu sự cầu nguyện thì mão trụ của sự cứu chuộc, thuẫn của đức tin, và gươm của Thánh Linh là Lời Đức Chúa Trời sẽ thiếu quyền năng. Mọi sự đều tùy thuộc vào sự cầu nguyện. Cầu xin Đức Chúa Trời dạy cho chúng ta biết tin quyết vào điều ấy và giữ chặt lấy điều ấy! “Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng.” (Hê. 4:16) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
|
Author“Side-By-Side Support Archives
December 2022
Categories |