“VỀ TRẬN CHIẾN THUỘC LINH VÀ CƠ ĐỐC NHÂN” (1Gi. 2:15) “Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian, thì sự kính mến Đức Chúa Cha chẳng ở trong người ấy.” (1Gi. 2:15) Trận chiến thuộc linh không phải có tính chất tùy chọn đối với Cơ Đốc Nhân. Kinh Thánh dạy cho biết rõ rằng trận chiến thuộc linh là cuộc hợp trận giữa các mặt trận với thế gian, xác thịt, và Ma Quỉ mà mỗi Cơ Đốc Nhân đều phải đương đầu. Thế gian và Ma Quỉ (cùng các thế lực của chúng) có tính chất ngoại lai nhưng chính từ đó mà xuất phát mọi sự cám dỗ đối với tính xác thịt vốn vẫn còn trong con người của các tín hữu. Cơ Đốc Nhân phải đối đầu với các trở lực này để có thể tiến đến sự viên thục thuộc linh theo ý chỉ của Đức Chúa Trời đối với đời sống của họ: 1. Đối Với Thế Gian “Ta đã bảo các ngươi những điều đó, hầu cho các ngươi có lòng bình yên trong Ta. Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, Ta đã thắng thế gian rồi!” (Gi. 16:33) “[4]Vì hễ sự gì sanh bởi Đức Chúa Trời, thì thắng hơn thế gian; và sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta. [5]Ai là người thắng hơn thế gian, há chẳng phải kẻ tin Đức Chúa Jêsus là Con Đức Chúa Trời hay sao?” (1Gi. 5:4-5) 2. Đối Với Xác Thịt “[16]Vậy tôi nói rằng: Hãy bước đi theo Thánh Linh, chớ hề làm trọn những điều ưa muốn của xác thịt. [17]Vì xác thịt có những điều ưa muốn trái với những điều của Thánh Linh, Thánh Linh có những điều ưa muốn trái với của xác thịt; hai bên trái nhau dường ấy, nên anh em không làm được điều mình muốn làm” (Gal. 5:16-17) 3. Đối Với Ma Quỉ “[14]Hỡi con trẻ, ta đã viết cho các con, vì các con đã biết Đức Chúa Cha. Hỡi phụ lão, tôi đã viết cho các ông, vì các ông đã biết Đấng có từ lúc ban đầu. Hỡi kẻ trẻ tuổi, ta đã viết cho các ngươi, vì các ngươi là mạnh mẽ, lời Đức Chúa Trời ở trong các ngươi, và các ngươi đã thắng được ma quỉ… [4]Hỡi các con cái bé mọn, phần các con, là thuộc về Đức Chúa Trời, đã thắng được họ rồi, vì Đấng ở trong các con là lớn hơn kẻ ở trong thế gian” (1Gi. 2:14; 4:4) Vấn đề không phải có hay không có trận chiến thuộc linh, mà vấn đề ở chỗ là phải làm thế nào để chiến đấu hữu hiệu và chiến thắng. Vì vậy, một vấn đề khác được đặt ra cho tất cả mọi Cơ Đốc Nhân, đó là phải có một sự nhìn nhận cân bằng, hợp Kinh Thánh đối với bản chất của trận chiến thuộc linh. Những ai làm ngơ đối với các sự giảng dạy Kinh Thánh về sự có thật của trận chiến thuộc linh cũng như về các vũ khí thuộc linh phải được trang bị để chiến đấu và chiến thắng tự đặt mình vào thế dễ bị tổn thương và tiêu diệt. Mặt khác, những ai bị ám ảnh quá nặng về các thế lực bóng tối cũng tự đặt mình vào tình thế nguy hiểm. Qui gán cho Ma Quỉ và các quỉ sứ của nó trách nhiệm về mọi tình thế khó khăn, mọi tai ương, hay mọi tham muốn là một việc quá dễ dàng. Sự thật là chỉ riêng một mình tính xác thịt trong bản chất người cũng đủ để tạo ra những điều vừa kể, chưa cần đến các thế lực bóng tối! Sự thật là không ai cần phải được Ma Quỉ thúc ép mới có thể ích kỷ được, hay mới có thể kiêu ngạo, mê ăn uống, ham muốn, nóng nảy,… Việc “đổ thừa” khiến chúng ta không có khả năng nhận ra đúng kẻ thù thuộc linh để chiến đấu và chiến thắng. Chỉ với một ý thức đầy đủ, thỏa đáng, hợp Kinh Thánh về mọi phương diện, nhất là về mối quan hệ thánh khiết và thiêng liêng với Đức Chúa Jêsus Christ, Cơ Đốc Nhân mới có được một tầm nhìn hợp Kinh Thánh và thuận lợi cho trận chiến thuộc linh. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“NGUYÊN TẮC PHẢI GIẢNG CHO HẾT Ý CHÚA” (1Cô. 2:4-5) “Lời nói và sự giảng của tôi chẳng phải bằng bài diễn thuyết khéo léo của sự khôn ngoan, nhưng tại sự tỏ ra Thánh Linh và quyền phép; hầu cho anh em chớ lập đức tin mình trên sự khôn ngoan loài người, bèn là trên quyền phép Đức Chúa Trời.” (1Cô. 2:4-5) Trong cương vị Mục Sư, chúng ta ai cũng biết Sứ Đồ PhaoLô đã từng bảo cho Hội Thánh Êphêsô biết rằng ông “không trễ nải một chút nào để tỏ ra cho biết hết thảy ý muốn của Đức Chúa Trời” (Công. 20:27). Đây quả thật là một sự đòi hỏi cao nhưng vị Sứ Đồ ngoan cường và tận hiến này đã hoàn thành. Chúng ta phải noi gương Sứ Đồ PhaoLô như lời ông đã truyền rằng “Hãy bắt chước tôi, cũng như chính mình tôi bắt chước Đấng Christ vậy” (1Cô. 11:1). Thế nhưng nhiều người trong chúng ta đã biết bao phen chùn bước trước các chủ đề khó giảng của Kinh Thánh. Ai cũng biết ý chỉ của Đức Chúa Jêsus đối với Sứ Đồ PhaoLô cũng là thánh ý cho chúng ta vâng theo nhưng lắm người trong chúng ta đã tránh né một số vấn đề giáo lý nhất định nào đó, trong đó có giáo lý Kinh Thánh về Sự Chọn Lựa (election). Đối với giáo lý này, có thể có nhiều lý do khác nhau khiến chúng ta chùn bước mà những điều tôi sẽ đề cập sau đây là một số điển hình. Thứ nhất, chúng ta có thể không cảm thấy tự tin về sự hiểu biết Kinh Thánh của chúng ta trên một số đề tài Kinh Thánh nhất định nào đó. Dầu không ai trong chúng ta có năng lực “toàn tri” cả nhưng tất cả chúng ta đều phải “chuyên tâm cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời như người làm công không chỗ trách được, lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật” (2Ti. 2:15). Thứ hai, chúng ta có thể cảm thấy sợ bị phê phán. Tuy nhiên, nếu chúng ta thực sự tin quyết vào Lời Phán của Chúa, chúng ta không được phép dội ngược mà phải hăm hở “giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi” (1Ti. 4:2). Chương thứ nhất của sách Giêrêmi là một mẫu điển hình tốt cho chúng ta trên vấn đề này. Thứ ba, chúng ta có thể đánh giá thấp năng lực hiểu giáo lý của Hội Chúng. Sự học tập là một tiến trình tích lũy cần có thời gian và sự bền lòng. Cho dầu người ta không thể hiếu hết ngay lập tức một đề tài nào đấy thì đề tài ấy vẫn cứ phải được giảng dạy. Chính Đức Thánh Linh sẽ là Giáo Sư Lớn cho mọi Cơ Đốc Nhân, chính Ngài sẽ bồi dưỡng ngày càng nhiều hơn những kiến thức có cần cho sự viên thục Cơ Đốc của họ. Thứ tư, trong cương vị Mục Sư chúng ta từng phải chịu búa rìu dư luận cách khe khắt và dồn dập từ các Mục Sư khác cho nên chúng ta luôn cảm thấy có áp lực nặng, đặc biệt là đối với các Mục Sư còn non trẻ trước các vị Mục Sư già dặn hơn. Thông thường các vị Mục Sư thâm niên có khuynh hướng đòi hỏi cao đối với các vị Mục Sư khác. Tuy nhiên, họ không hề có ý loại trừ những người còn non trẻ kinh nghiệm mục vụ ra khỏi cuộc thông công quí báu giữa những người cùng hầu việc Chúa với nhau. Tình đồng lao giữa những người đồng công với nhau trong công trường thuộc linh là một điều hết sức quí giá cần phải được bảo vệ. Tuy nhiên, chẳng phải vì thế mà chúng ta được quyền thỏa hiệp trên phương diện giáo lý, thần học. Tôi thích một trong những giáo lý được người Báp Tít nhấn mạnh - giáo lý về “Chức Thầy Tế Lễ Phổ Quát Cho Mọi Tín Hữu”. Đặc trưng này được Kevin Bauder nói rõ ra là “Cơ Đốc Nhân không cần phải có một hệ tư tế phân lập nào khác với Đức Chúa Jêsus Christ cả”. Còn có một số nội dung liên quan mà tôi chưa đề cập được ở đây nhưng điều cần được xác định rõ là mỗi Cơ Đốc Nhân đều phải trả lời trực tiếp với Cứu Chúa và Chúa của chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ. Mối quan hệ cá nhân giữa mỗi Cơ Đốc Nhân với Đức Chúa Jêsus Christ phải đi trước và ở trên tất cả các mối quan hệ khác. Đặc trưng giáo lý thứ hai của người Báp Tít là giáo lý về “Sự Tự Do Của Linh Hồn”. Đây là một lẽ thật đòi hỏi chúng ta phải chịu trách nhiệm cách cá nhân với Chúa của chúng ta. Chúng ta có phận sự phải hiểu biết Lời Chúa và phải áp dụng Lời Chúa cho đời sống của mình. Nếu một tín hữu tin rằng mình là một Cơ Đốc Nhân theo Kinh Thánh thì người ấy phải có phận sự sống theo Kinh Thánh và đấu tranh cho sự chứng giải thuộc linh của mình. Theo niềm tin về “Chức Thầy Tế Lễ Phổ Quát Cho Mọi Tín Hữu” thì mỗi Cơ Đốc Nhân phải hoàn toàn chịu trách nhiệm cá nhân đối với Lời Chúa và phải đứng vững trong niềm tin của mình chứ không chấp nhận sự cưỡng buộc giáo lý. Trong cương vị của người Mục Sư các nét đặc trưng này hết sức quan trọng: Chúng ta phải sống và giảng “hết thảy ý muốn của Đức Chúa Trời” theo sự chứng giải vốn có của chúng ta. Chúng ta phải sống như Sứ Đồ PhaoLô đã nêu gương là “chẳng trễ nải rao truyền mọi điều ích lợi cho anh em, chẳng giấu điều chi hết” (Công. 20:20). Khi tôi còn là một Mục Sư trẻ tôi vẫn thường ngại ngùng đối với một số chủ đề giáo lý mà tôi chưa nắm vững. Tôi phải nói thật là hồi ấy lắm khi vì cả nể hoặc lo sợ mà tôi đã tự ý gác qua một bên sự chứng giải thuộc linh cá nhân của mình để rập khuôn theo những gì người khác giảng. Tôi nghĩ rằng ngày xưa Timôthê cũng đã từng chịu áp lực tương tự như thế nên chi Sứ Đồ PhaoLô cứ liên tục thúc giục Timôthê về những điều như là phải “đánh trận tốt lành” (1Ti. 1:18), phải “cầm giữ đức tin” (1Ti. 1:19), “phải có tiết độ trong mọi sự” (2Ti. 4:5), phải “vì đức tin mà đánh trận tốt lành” (1Ti. 6:12), phải “giữ lấy sự giao phó” (1Ti. 6:20), phải “giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, …cứ dạy dỗ chẳng thôi” (2Ti. 4:1-2). Sứ Đồ PhaoLô đã giảng “cho biết hết thảy ý muốn của Đức Chúa Trời” và ông muốn Timôthê cũng phải làm tương tự như thế. Ngày nay chúng ta cũng phải dốc hết sức mình để làm cho được như vậy. “Hết thảy ý muốn của Đức Chúa Trời” phải gồm cả giáo lý Kinh Thánh về Sự Chọn Lựa. thật đáng ngạc nhiên khi thấy ngày nay có quá ít các sự giảng dạy về Ân Điển của Đức Chúa Trời. Chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà người ta ưa nói vuốt đuôi và chỉ thích giới thiệu một loại “Tin Lành” rẻ tiền. Phong cách thịnh hành ngày nay là gọt giũa sao cho sứ điệp Tin Lành trở nên mềm mỏng nhất, dễ chịu nhất, dễ nghe nhất. Thế nhưng, chúng ta được kêu gọi vào thánh chức Mục Sư chẳng phải là để nói vuốt đuôi khiến cho Tin Lành trở nên dễ nghe đối với bất cứ ai. Kinh Thánh dốc sức trình bày cặn kẽ về vấn đề Sự Cứu Rỗi hầu cho Dân Sự của Đức Chúa Trời được vững lập trên nền Tin Lành và được trang bị bằng Tin Lành để hầu việc Ngài cách phải phép. Vì vậy cho nên những người mệnh danh là “Giáo Sư Kinh Thánh” nhưng lại làm cho sứ điệp Tin Lành hợp theo luận lý của con người, trở nên mềm mỏng, dễ nghe thì đó là những con người phá hoại Tin Lành bằng tinh thần thỏa hiệp với thế gian của mình. Thái độ chỉnh lý để thỏa hiệp này mỗi ngày càng thâm nhập sâu hơn vào Hội Thánh và cuối cùng sẽ làm cho Hội Thánh mất năng lực tôn vinh hiển Đức Chúa Trời. Những thuật ngữ giáo lý như “đã định”, “đã biết trước”, “đã định sẵn”, “đã gọi”, “đã xưng”, “đã làm cho vinh hiển” (Sv. Rô. 8:28-30) ngày càng ít được cao rao từ bục giảng. Nếu các lẽ thật này không được giảng dạy giữa vòng Dân Sự của Đức Chúa Trời thì sự nhìn nhận của họ đối với Sự Cứu Rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ sẽ bị nông cạn và một sứ điệp cao trọng hơn hết trong các sứ điệp Tin Lành sẽ thôi không còn được quí chuộng như đáng phải được quí chuộng. Tại “Thư Viện COS” này chúng tôi sẽ quyết không chùn bước trong việc giúp cao rao “hết thảy ý muốn của Đức Chúa Trời” về Ân Điển của Ngài. Hễ khi nào nguyên tắc phải giảng “hết thảy ý muốn của Đức Chúa Trời” được áp dụng thì chủ đề then chốt phải được giảng là các giáo lý về Ân Điển của Đức Chúa Trời. Nếu thiếu một sự hiểu biết chính xác và sâu sắc đối với các phạm trù giáo lý Kinh Thánh này thì cũng sẽ không thể nào có được một nền tảng vững mạnh cho sứ điệp Tin Lành. Chính đây là lý do chính khiến giữa vòng các Hội Thánh ngày nay có quá nhiều người chưa được cứu (vì họ chưa có các dấu hiệu của những người đã được cứu). Nếu thiếu sự sâu sắc trong việc hiểu biết Kinh Thánh thì các Mục Sư chỉ giảng được một thứ “Tin Lành” còn sống sít và người nghe giảng chỉ có thể được nghe một thứ “Tin Lành” chưa chín mà thôi. Rốt cuộc tất cả những việc như thế sẽ góp phần hình thành một thứ “Tin Lành” non kém hơn Tin Lành với một việc “tin” mà không hề có chút ăn năn tội nào hết, chẳng hề có sự tái sinh của Đức Thánh Linh gì cả. Tiến trình của Sự Cứu Rỗi phải được đúc kết cẩn thận để nhấn mạnh việc tội nhân phải được tái sinh trước khi họ tuyên xưng niềm tin của mình trong Đức Chúa Jêsus với một số hành vi cá nhân có tính minh thị cho sự biến cải trong lòng họ cặp theo. Nếu “ý muốn của Đức Chúa Trời” bị gạt bỏ ra khỏi cách giảng dạy chìu lòng người như hiện nay thì nhất định Ngài sẽ không đẹp ý. Nếu chúng ta quay trở lại với lời của Sứ Đồ PhaoLô giảng cho các Mục Sư ở Êphêsô chúng ta sẽ thấy ông đã chẳng hề nhụt chí trong việc giảng “cho biết hết thảy ý muốn của Đức Chúa Trời” trong sứ điệp về Ân Điển của Ngài. Toàn bộ Tin Lành theo PhaoLô được quyện chặt với Ân Điển tối cao của Đức Chúa Trời. Đó là Tin Lành bắt đầu với Sự Chọn Lựa của Đức Chúa Trời trước khi có thế gian. Chúng ta nhận thấy điều ấy rõ hơn qua việc Sứ Đồ PhaoLô dùng Giacốp và Êsau làm minh họa cho sự truyền dạy của mình rằng “khi hai con chưa sanh ra, chưa làm điều chi lành hay dữ - hầu cho được giữ vững ý chỉ Đức Chúa Trời, là ý định sẵn bởi sự kén chọn tự do của Ngài, chẳng cứ việc làm, nhưng cứ Đấng kêu gọi” (Rô. 9:11). PhaoLô còn tiếp tục cho chúng ta biết rằng việc cứu chuộc “những bình đáng thương xót” là cách Đức Chúa Trời “đã định sẵn cho sự vinh hiển” của Ngài “chẳng những từ trong người Giuđa, mà cũng từ trong Dân Ngoại nữa” (Sv. Rô. 9:23-24). Sứ Đồ PhaoLô chỉ cho người ở Hội Thánh Êphêsô biết trong Chương Thứ Nhất của sách Êphêsô rằng “trước khi sáng thế, Ngài đã chọn chúng ta trong Đấng Christ, đặng làm nên thánh không chỗ trách được trước mặt Đức Chúa Trời, bởi sự thương yêu của Ngài đã định trước cho chúng ta được trở nên con nuôi của Ngài bởi Đức Chúa Jêsus Christ, theo ý tốt của Ngài” (Êph. 1:4-5). Chính nhờ sự tiền định Thiên Thượng tối cao mà người ta mới được bước vào sự tha tội và sự sống đời đời. Tất nhiên, sự tiền định ấy đã được hoàn thành trong Đức Chúa Jêsus là Đấng đã gánh thay tội lỗi của chúng ta và lấy chính sự sống Ngài làm của lễ đền tội thay cho chúng ta. Sứ điệp Tin Lành vĩ đại này, bởi Đức Thánh Linh, tác động trên tấm lòng của những kẻ được tiền định cho sự cứu rỗi. Chính nhờ Đức Thánh Linh mà người ta mới biết nghe “đạo chân thật, là đạo Tin lành về sự cứu rỗi” (Êph. 1:13). Chính Đức Thánh Linh là Tác Nhân Vận Hành trong việc ban đức tin (Sv. Êph. 2:8) và “làm cho chúng ta sống với Đấng Christ” (Êph. 2:5). Sở dĩ phải như thế là vì chúng ta vốn “đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình” và “đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ” (Êph. 1:1, 5). Theo sự truyền dạy của Sứ Đồ PhaoLô, chương trình của Đức Chúa Trời như thế là nhằm “hầu cho về đời sau tỏ ra sự giàu có vô hạn của ân điển Ngài, mà Ngài bởi lòng nhân từ đã dùng ra cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Êph. 2:7). Nhiều lần trong Chương Thứ Nhất của Sách Êphêsô Sứ Đồ PhaoLô cứ khẳng định mục đích tôn vinh hiển Đức Chúa Trời bởi Ân Điển của Ngài: “để khen ngợi sự vinh hiển của Ân Điển Ngài đã ban cho chúng ta cách nhưng không trong Con yêu dấu của Ngài!” (Êph. 1:6), “hầu cho sự vinh hiển của Ngài nhờ chúng ta là kẻ đã trông cậy trong Đấng Christ trước nhứt mà được ngợi khen” (Êph. 1:12), “để khen ngợi sự vinh hiển Ngài” (Êph. 1:14). Nếu chúng ta không chịu giảng cách trung thực “cho biết hết thảy ý muốn của Đức Chúa Trời” về Sự Cứu Rỗi của Ngài mà lại để cho các yếu tố nhân tạo xen vào tức là chúng ta đã “đánh cắp” sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Sự thật là tự thân tội nhân sẽ không có khuynh hướng và năng lực tìm đến với Đức Chúa Trời cho được Sự Cứu Rỗi vì sự sa bại của tấm lòng họ (Sv. Rô. 8:7). Đức Chúa Jêsus phán rằng “ai không tin thì đã bị đoán xét rồi, vì không tin đến danh Con Một Đức Chúa Trời” (Gi. 3:18) và Nicôđem đã được Đức Chúa Jêsus cho biết rằng ông “phải sanh lại” (Gi. 3:7). Khi kết hợp các lẽ thật này với sự phán dạy của Gi. 1:12, 13 chúng ta nhận ra được bức tranh toàn cảnh là nếu Đức Chúa Trời không chịu đi bước trước để độ cứu nhân loại thì nhân loại sẽ chẳng có mảy may hy vọng nào về Sự Cứu Rỗi cả. Lẽ thật ấy được khẳng định qua ngòi viết của Sứ Đồ Giăng rằng người được Sự Cứu Rỗi “là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời vậy” (Gi. 1:13). Việc rao truyền Tin Lành cũng phải được tuân thủ theo nguyên tắc rao “cho biết hết thảy ý muốn của Đức Chúa Trời” và đó sẽ là sứ điệp chỉ cho thấy nhu cần của tội nhân là cầu xin cho được ơn thương xót của Đức Chúa Trời, tức là sự cầu xin được ăn năn tội, được ban cho đức tin. Sự ăn năn theo Kinh Thánh không bao giờ là một sự ăn năn hời hợt mà phải là kết quả của sự vận hành của Đức Thánh Linh để đánh bại một kẻ thù đáng ghét của Đức Chúa Trời là ý chí kiêu ngạo của bản ngã của con người. Theo bản chất tất cả mọi người đều từ chối quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời vì sự kiêu ngạo của nhân tính chống lại với tinh thần trách nhiệm đối với Ngài. Đức Thánh Linh đến với đời sống của tội nhân được chọn với một sức mạnh chứng giải vô song để đem người được chọn của Đức Chúa Trời đến với Đức Chúa Jêsus Christ. Chính Đức Thánh Linh là Đấng “có sức mạnh để đạp đổ các đồn lũy” và “đánh đổ các lý luận, mọi sự tự cao nổi lên nghịch cùng sự hiểu biết Đức Chúa Trời, và bắt hết các ý tưởng làm tôi vâng phục Đấng Christ” (2Cô. 10:4, 5). Sứ điệp rao truyền Tin Lành của chúng ta phải hoàn toàn hòa hợp với “hết thảy ý muốn của Đức Chúa Trời”. Phận sự của chúng ta là rao ra lẽ thật của Đức Chúa Trời “bất luận gặp thời hay không gặp thời” (2Ti. 4:2) ngay cả khi mà “người ta không chịu nghe đạo lành; nhưng vì họ ham nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo sư xung quanh mình” (2Ti. 4:3). Chúng ta có thể tìm được sự tin quyết từ Lời Đức Chúa Trời phán cùng Giêrêmi rằng “Đừng sợ sệt vì cớ chúng nó… Họ sẽ đánh nhau với ngươi, nhưng không thắng ngươi; vì Ta ở cùng ngươi đặng giải cứu ngươi” (Giê. 1: 1:17, 19). Lời dứt khoát của Đức Chúa Trời phán với Giêrêmi là “hãy thắt lưng, chờ dậy, bảo cho chúng nó mọi sự mà ta truyền cho ngươi” (Giê. 1:17). Xem ra mệnh lệnh này cũng tương tự như những gì mà Sứ Đồ PhaoLô đã làm là “không trễ nải một chút nào để tỏ ra cho biết hết thảy ý muốn của Đức Chúa Trời”. Hai nhân vật Kinh Thánh này như thể là hai mẫu mực sáng ngời để khích lệ cho tất cả chúng ta hãy bày tỏ cùng một loại đức tin với họ trong việc đứng vững cho Lời của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh. Ngày xưa Đức Chúa Trời đã phán với các Đấng Tiên Tri của Ngài thế nào trên vấn đề này thì ngày nay Ngài cũng phán với chúng ta như thế ấy: “Ta sẽ tỉnh thức, giữ lời phán Ta đặng làm trọn” (Giê. 1:12b). Chúng ta đã được kêu gọi thực hiện việc canh giữ và làm trọn Lời của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh của Ngài. Trước khi chia tay với Hội Thánh Êphêsô Sứ Đồ PhaoLô đã bày tỏ sự lo ngại của ông về việc “sẽ có muông sói dữ tợn xen vào” cắn xé bầy chiên của Đức Chúa Trời ở đó (Sv. Công. 20:29). Hơn nữa, Sứ Đồ PhaoLô còn lo về việc giữa vòng Hội Thánh “cũng sẽ có những người nói lời hung ác dấy lên, ráng sức dỗ môn đồ theo họ” (Sv. Công. 20:30). Ngày nay các giáo sư giả có mặt khắp nơi, lôi kéo hàng triệu người đi vào chỗ ôm ấp những giáo lý sai lạc đối với Kinh Thánh. Trong một tình hình như vậy chúng ta ai nấy đều phải trung tín như Sứ Đồ PhaoLô là “chẳng trễ nải rao truyền mọi điều ích lợi” cho Hội Thánh, bảo vệ Hội Thánh khỏi mọi giáo lý sai lạc đối với Kinh Thánh (Sv. Công. 20:20). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“VÀI ĐIỀU VỀ CHỦ TRƯƠNG TƯƠNG ĐỐI VĂN HÓA” (1Phi. 3:15) “Hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ.” (1Phi. 5:8-11) Muốn kết quả cho Đức Chúa Trời chúng ta phải biết làm cho con người mình nhỏ lại để sự vĩ đại của Ngài được hiển thị rõ nét hơn. Chúng ta chỉ có thể nhỏ lại khi chúng ta nhận thức được Đức Chúa Trời, thế giới tự nhiên, thực tiễn khách quan, tha nhân, và ngay chính chúng ta. Một trong những điều thuộc về thực tiễn khách quan là chủ trương “tương đối văn hóa” (cultural relativism) mà các biến tướng của chủ trương này luôn là một trở ngại cho việc chia sẻ Tin Lành của Cơ Đốc Nhân chúng ta, nhất là trong những dịp như Lễ, Tết, Hội Hè,… theo văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt Nam chúng ta. Chủ trương “tương đối văn hóa” là một quan điểm cho rằng mọi tín ngưỡng, phong tục, đạo đức học đều chỉ có giá trị tương đối đối với từng cá nhân tùy theo xã hội mà họ sống. Quan điểm này chủ trương rằng “cái đúng” cũng như “cái sai” chỉ đúng và sai tùy theo cách quan niệm của từng nền văn hóa nhất định mà thôi. Theo quan điểm này, cái “đạo đức” trong một nền văn hóa này vẫn rất có thể bị xem là “vô đạo đức” trong một nền văn hóa khác như thường. Với một cách tiếp cận vấn đề như vậy những người theo thuyết “tương đối văn hóa” nhấn mạnh rằng vì cớ không thể có một tiêu chuẩn đạo đức duy nhất cho toàn thế giới cho nên không ai có quyền bình phẩm đúng, sai gì hết về tín ngưỡng tôn giáo, phong tục văn hóa, và tập quán đạo đức của bất cứ ai cả. Đối với khoa nhân chủng học hiện đại thì thuyết “tương đối văn hóa” là một học thuyết tốt. Những người theo thuyết “tương đối văn hóa” cho rằng mọi nền văn hóa đều có giá trị vốn có của mình và đều có giá trị như nhau. Theo họ, sự khác biệt nhau giữa các nền văn hóa, cho dầu các sự khác biệt ấy mâu thuẫn nhau, người ta cũng không được quyền phán xét đúng, sai hay tốt, xấu gì cả. Các nhà nhân chủng học ngày nay có khuynh hướng cho rằng tất cả mọi nền văn hóa đều phải được xem như đồng đẳng một cách chánh đáng, đếu phải được nghiên cứu với một quan điểm hoàn toàn trung dung. Tư tưởng của thuyết “tương đối văn hóa” có một sự liên quan mật thiết với tư tưởng “tương đối đạo đức” là một dòng tư tưởng cho rằng “chân lý” là cái khả biến chứ không thường hằng. Theo dòng tư tưởng này thì “đúng” và “sai” chỉ tùy thuộc vào quan niệm cá nhân hoặc theo một xã hội nhất định nào đó mà thôi vì “chân lý” luôn mang tính chủ quan chứ chẳng hề có một hệ thống tiêu chuẩn khách quan nào ràng buộc đối với mọi nền văn hóa cả. Tóm lại, theo quan điểm “tương đối đạo đức”, chẳng ai có quyền nói ai đúng hay ai sai gì cả; cũng chẳng có xã hội nào có thể phê phán xã hội nào cả. Thuyết “tương đối văn hóa” cho rằng trên đời này chẳng có cái gì tự nó vốn đúng hay vốn sai, vốn tốt hay vốn xấu. Vì vậy, các lề thói cổ đại của người Mayan như tự làm cho mình tổn thương thân thể hay sử dụng con người làm vật tế thần tự nó không tốt mà cũng không xấu, không đúng mà cũng chẳng sai mà chỉ thuần túy là những sự thực hành tôn giáo, tín ngưỡng vô tội cũng như người Việt làm cỗ để cúng giỗ ông bà của mình hay đốt pháo nổ hoặc bắn pháo hoa để mừng năm mới âm lịch vào mỗi dịp Tết mà thôi; mỗi nền văn hóa đều có các sự thực hành mang tính tín ngưỡng, phong tục, đạo đức học riêng cho mình. Vào Tháng Giêng năm 2002 khi Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush gọi một nhóm các nước là “trục ma quỉ” (axis of evil) thì các nhà chủ trương “tương đối văn hóa” cảm thấy mình bị xúc phạm nặng nề: Khi một xã hội xem một xã hội khác là “ma quỉ” thì, đối với các nhà “tương đối văn hóa”, điều ấy là một sự rủa sả nặng nề. Chính từ một dòng tư tưởng như vậy mà hiện nay đang có sự thắng thế của một trào lưu chủ trương rằng thế giới phải “thông cảm” cho những người Hồi Giáo cực đoan chứ không được chống lại họ. Những người chủ trương “tương đối văn hóa” đòi hỏi các nước Phương Tây không được áp đặt quan niệm của họ về Hồi Giáo cho thế giới Hồi Giáo, chẳng hạn họ không có quyền xem việc người Hồi Giáo cực đoan đánh bom tự sát là một việc ác! Theo các nhà chủ trương “tương đối văn hóa” thì phong trào thánh chiến của người Hồi Giáo cũng chỉ là một sự thực hành tôn giáo giống y như bao nhiêu sự thực hành tôn giáo khác của thế giới Tây Phương mà thôi, và vì vậy mà người Mỹ không được quyền gọi sự kiện tấn công tòa tháp Trung Tâm Thương Mại Thế Giới vào ngày 11. 09. 2001 ở thành phố New York là một cuộc tấn công “khủng bố”! Các nhà hoạt động của chủ trương “tương đối văn hóa” luôn chống đối các hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ Cơ Đốc vì họ nhận ra rằng khi người ta tin Tin Lành thì các sự thực hành về văn hóa của họ cũng sẽ thay đổi theo; chẳng hạn người ta sẽ thôi không còn ăn thịt người nữa, sẽ thôi không còn thiêu sống vợ theo cùng với chồng khi chồng chết, sẽ thôi không đâm trâu, chém lợn nữa,… Đối với các nhà hoạt động cho chủ trương “tương đối văn hóa” thì những điều ấy làm tổn hại truyền thống văn hóa cho nên cần phải được nghiêm cấm cho dầu các ích lợi mang giá trị dân tộc, nhân bản, khoa học, khai phóng của các sự thay đối ấy có lớn đến đâu cũng mặc. Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta có phận sự phải xem trọng tha nhân bất kể họ là người của một nền văn hóa như thế nào vì họ cũng là con người là chủng loại duy nhất được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Thượng của Đức Chúa Trời (Sv. Sáng. 1:27). Chúng ta cũng phải nhận thức rằng sự đa dạng về văn hóa trong xã hội loài người là một điều đáng quí cần phải được trân trọng và bảo tồn. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đồng thời hiểu rằng vì cớ hậu quả của tội lỗi trong thế giới đã bị sa bại vì tội lỗi này mà không phải tất cả các tín ngưỡng, tôn giáo cùng với các sự thực hành tín ngưỡng, tôn giáo cặp theo đều đẹp ý Đức Chúa Trời và đếu có ích cho đời sống văn minh trong một thế giới đang tiến bộ. Chân Lý nếu đúng là Chân Lý chân chính thì phải xuất phát từ Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo Và Tể Trị. Chân Lý chân chính mang tính khách quan chứ không phải chỉ có giá trị chủ quan (Sv. Gi. 17:17). Lẽ Thật chân chính mang tính tuyệt đối và quả là có một hệ thống tiêu chuẩn khách quan ràng buộc cả xã hội loài người trên mặt địa cầu này (Sv. Khải. 20:11-12). Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta cũng có phận sự phải biết rằng hoạt động truyền giáo của chúng ta không được phép áp đặt cách máy móc các giá trị Tây Phương ngoại lai mà phải tập trung vào việc rao ra Lẽ Thật Kinh Thánh về sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ theo Tin Lành cứu rỗi của Ngài trong Kinh Thánh. Chính Tin Lành theo Kinh Thánh sẽ nhen lên ngọn lửa thay đổi theo thánh ý của Đức Chúa Trời chứ không phải bằng các nổ lực thô thiển và thô bạo của chúng ta. Công việc của Đức Chúa Trời phải được diễn biến theo các bước của Ngài, trong thời điểm của Ngài, và bằng cách thế của Ngài (Sv. Công. 19) chứ không phải bằng nổ lực chủ quan, duy ý chí của những con người lếu láo có đời sống chẳng ra sao mà chỉ giỏi to mồm như chúng ta vẫn thường thấy! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“SATAN LÀ AI?” (1Phi. 5:8-11) “Hãy tiết độ và tỉnh thức: Kẻ thù nghịch anh em là Ma Quỉ, như sư tử rống, đi rình mò chung quanh anh em, tìm kiếm người nào nó có thể nuốt được. Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự nó, vì biết rằng anh em mình ở rải khắp thế gian, cũng đồng chịu hoạn nạn như mình. Đức Chúa Trời ban mọi ơn đã gọi anh em đến sự vinh hiển đời đời của Ngài trong Đấng Christ, thì sau khi anh em tạm chịu khổ, chính Ngài sẽ làm cho anh em trọn vẹn, vững vàng, và thêm sức cho. Nguyền xin quyền phép về nơi Ngài, đời đời vô cùng! Amen.” (1Phi. 5:8-11) Đối với người kính yêu Đức Chúa Trời, họ không thể nào không ghét Satan cho được thế nhưng chỉ thuần một cảm thức “ghét Satan” cách mơ hồ thì chưa đủ, và đôi khi còn nguy hiểm là đằng khác! Muốn “ghét Satan” phải biết rõ “Satan là ai” theo sự bày tỏ của Kinh Thánh nếu không sẽ mắc mưu nó trong khi ghét nó vì một trong những điều nó đang cố sức làm ngày nay là kéo những người kính yêu Đức Chúa Trời nhưng thiếu năng lực phân biệt thuộc linh ra khỏi Đức Chúa Trời bằng những điều họ tin và làm cách phi Kinh Thánh và phản Kinh Thánh! Cách người ta nghĩ về Satan không giống nhau và không luôn luôn hợp Kinh Thánh. Chỉ duy nhất Kinh Thánh mới có khả năng vẽ ra một bức tranh đầy đủ và đúng đắn về Satan. Theo Kinh Thánh, Satan là một thực thể thiên sứ đã bị truất phế khỏi địa vị Thiên Đàng vì phạm tội và trở thành hoàn toàn đối nghịch với Đức Chúa Trời, ra sức ngăn trở việc hoàn thành các mục đích của Đức Chúa Trời. Thoạt đầu, Satan đã được tạo dựng như một Thiên Sứ. Ês. 14:12 cho chúng ta biết tên của nó trước khi phạm tội là Lucifer (Hb. לליה [heylel], “sao mai, con trai của sáng sớm”). Êx. 28:12-14 mô tả việc Satan được tạo dựng như một “Chêrubim” (Hb. בורכ [kᵉruwb]) giữ vị trí cao nhất giữa vòng các Thiên Sứ được tạo dựng trên Thiên Đàng. Satan đã trở nên ngạo mạn vì sự vinh quang mình và đã nuôi ý soán ngôi Đức Chúa Trời (Sv. Ês. 14:13-14; Êx. 28:15; 1Ti. 3:6). Chính sự kiêu ngạo của Satan đã khiến Satan phải đi Địa Ngục. Trong Ês. 14:12-15 sự toan tính của Satan khá rõ qua cách nghĩ “ta sẽ”, “ta sẽ”,… Vì Satan phạm tội, Đức Chúa Trời đã truất Satan khỏi địa vị cao quí của nó mà cho đày Địa Ngục. Satan đã trở thành “vua chúa của thế gian”, “vua cầm quyền chốn không trung” (Sv. Gi. 12:31; 2Cô. 4:4; Êph. 2:2). Satan là “kẻ ngày đêm kiện cáo” (Sv. Khải. 12:10), là “quỉ cám dỗ” (Ma. 4:3; 1Tê. 3:5), và là kẻ “đi lừa dối” (Sv. Sáng. 3; 2Cô. 4:4; Khải. 20:3). Nghĩa của tên gọi của Satan là “kẻ đối địch” (Sv. Rô. 13:2; 2Tê. 2:4). Thế nhưng tên gọi phổ thông phổ biến của Satan là “ma quỉ”, là “quỉ” tức là kẻ chuyên vu khống, phạm thượng, là kẻ ác, kẻ xấu,… (Sv. Ma. 4:1-11, 9:33, 11:18, 12:22, 13:29, 15:22, 17:18, 25:41; Mác 5:15-18, 7:26-30; Lu. 4:2-13, 4:33-35, 7:33, 8:12, 8:29, 9:42, 11:14; Gi. 6:70, 7:20, 8:44-52, 10:20-21, 13:2; Công. 10:38 13:10; Êph. 4:27, 6:11; 1Ti. 3:6-7; 2Ti. 2:26; Hê. 2:14; Gia. 4:7; 1Phi. 5:8; 1Gi. 3:8-10; Giu. 1:9; Khải. 2:10, 12:9, 12:12, 20:2, 20:10). Dầu đã bị truất phế khỏi địa vị Thiên Đàng, Satan vẫn cứ còn gắng sức cất mình lên cho cao hơn Đức Chúa Trời. Vì vậy, Satan đã, đang, và sẽ làm đủ mọi trò dối gạt cho người ta tin việc của nó là việc của Đức Chúa Trời! Satan sẽ làm mọi cách để người ta thờ phượng nó cách trực tiếp hoặc gián tiếp mà cứ ngỡ là mình kính sợ Đức Chúa Trời và đang thờ phượng Ngài! Satan sẽ cứ còn làm hết sức sao cho suy tổn sự vinh hiển của Đức Chúa Trời cách nhiều nhất qua việc kéo những người kính yêu Đức Chúa Trời nhưng thiếu năng lực phân biệt thuộc linh ra khỏi Đức Chúa Trời bằng những điều họ tin và làm cách phi Kinh Thánh và phản Kinh Thánh! Dầu vậy, định phận đời đời của nó đã được Đức Chúa Trời phán quyết rồi: “Còn Ma Quỉ là đứa đã dỗ dành chúng, thì bị quăng xuống Hồ Lửa và diêm, trong đó đã có Con Thú và Tiên Tri Giả rồi. Chúng nó sẽ phải chịu khổ cả ngày lẫn đêm cho đến đời đời” (Khải. 20:10). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THUẬT TUYÊN KINH THEO KINH THÁNH” (2Ti. 2:15) “Hãy chuyên tâm cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời như người làm công không chỗ trách được, lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật.” (2Ti. 2:15) Có lẽ là lời sau đây là sự khái quát hóa tốt nhất cho Thuật Tuyên Kinh theo Kinh Thánh: “Hãy chuyên tâm cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời như người làm công không chỗ trách được, lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật” (2Ti. 2:15) Thuật Tuyên Đạo theo Kinh Thánh là một khoa học giúp thông giải Kinh Thánh theo các bước thích hợp đối với các loại hình văn chương Kinh Thánh khác nhau trong Kinh Thánh. Chẳng hạn, Thi Thiên phải được thông giải khác với cách thông giải Tiên Tri, và Châm Ngôn phải được thông giải khác với cách thông giải Luật Pháp trong Ngũ Kinh. Mục đích của Thuật Tuyên Kinh là giúp cho chúng ta biết làm cách nào để quan sát, thông giải, và áp dụng Kinh Thánh. Nguyên tắc quan trọng hàng đầu của Thuật Tuyên Kinh là “Kinh Thánh Phải Được Thông Giải Theo Tự Nghĩa”. “Thông Giải Theo Tự Nghĩa” hàm ý rằng Lời Kinh Thánh phải được hiểu theo nghĩa tường minh của chữ đã được bản văn Kinh Thánh sử dụng. Kinh Thánh phán theo như đã chép, và Kinh Thánh đã chép theo như Kinh Thánh phán. Có nhiều người mắc lỗi không đọc Kinh Thánh theo như Kinh Thánh đã được chép và vì vậy mà dẫn đến việc đưa ra những nghĩa không thực sự có trong bản văn Kinh Thánh. Tất nhiên là vẫn có những ý nghĩa thuộc linh ẩn sau nghĩa tường minh của bản văn Kinh Thánh nhưng điều ấy không có nghĩa là Lời Kinh Thánh luôn mang ẩn nghĩa, và cũng không có nghĩa là việc tìm kiếm ẩn nghĩa là mục tiêu duy nhất (hoặc chính) của việc thông giải Kinh Thánh. Thuật Tuyên Kinh theo Kinh Thánh giúp chúng ta giữ được sự trung tín trong việc tìm hiểu ý nghĩa khách quan ban đầu (vốn có) của bản văn Kinh Thánh, tránh được lỗi biểu tượng hóa, phúng dụ hóa bản văn Kinh Thánh là sự gán ghép ý nghĩa chủ quan của người thông giải, phủ định tính khải thị thành văn của Đức Chúa Trời trong (và qua) bản văn Kinh Thánh. Nguyên tắc sống còn thứ hai của Thuật Tuyên Kinh là “Bản Văn Kinh Thánh Phải Được Thông Giải Hợp Bối Cảnh Lịch Sử, Hợp Cấu Trúc Ngữ Pháp, Và Hợp Nội Hàm Của Bản Văn”. “Thông Giải Hợp Bối Cảnh Lịch Sử” hàm ý rằng việc thông giải một bản văn Kinh Thánh phải có sự thông hiểu về bối cảnh văn hóa của bản văn, về bối cảnh lịch sử khiến dẫn đến sự ra đời của bản văn. “Thông Giải Hợp Cấu Trúc Ngữ Pháp” hàm ý rằng việc thông giải phải có sự hiểu biết về các qui luật ngôn ngữ của ngôn ngữ nguyên thủy của bản bản văn Kinh Thánh (Hêbơrơ, HyLạp) để hiểu được văn phạm, văn thái của bản văn. “thông giải hợp nội hàm của bản văn” hàm ý rằng việc thông giải một bản văn Kinh Thánh phải được tiến hành trong sự chú ý về văn mạch của đoạn văn đang được nghiên cứu (tại văn) với văn mạch của các đoạn văn đi trước đó (thượng văn), và với văn mạch của các đoạn văn đi sau đó (hạ văn) để xác định ý nghĩa nào là hợp luận lý (lôgích) nhất cho bản văn đang được nghiên cứu. Có một số người nhận thức sai rằng Thuật Tuyên Kinh theo Kinh Thánh làm hạn chế sự thông biết Lời Đức Chúa Trời bằng việc “bóp nghẹt” mất sự “khải thị” của Đức Thánh Linh qua việc tuân thủ theo các nguyên tắc tuyên kinh. Một sự nhận thức như vậy là một sự sai lầm lớn! Mục tiêu của Thuật Tuyên Kinh theo Kinh Thánh, và tác dụng của các nguyên tắc tuyên kinh theo Kinh Thánh là giúp cho chúng ta tiến gần nhất đến sự khải thị đã được thiết lập sẵn trong bản văn Kinh Thánh. Mục đích của Thuật Tuyên Kinh theo Kinh Thánh là giúp bảo vệ chúng ta khỏi các sự áp dụng vô nguyên tắc Lời Kinh Thánh là những sự áp dụng phi, phản Kinh Thánh. Lời Kinh Thánh phán: “Lời của Đức Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm, sắc hơn gươm hai lưỡi, thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tủy, xem xét tư tưởng và ý định trong lòng” (Hê. 4:12) Thuật Tuyên Kinh theo Kinh Thánh là một khoa học giàu tính nghệ thuật có tác dụng giúp cho chúng ta giữ cho “gươm hai lưỡi” của Lời Đức Chúa Trời luôn luôn sắc bén, không bị hoen rỉ bởi các sự thông giải bừa bãi, vô nguyên tắc. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“VỀ VẤN ĐỀ THẦN TÍNH CỦA ĐẤNG CHRIST” (1Phi. 3:15) “Hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ.” (1Phi. 3:15) Kinh Thánh phán cho biết rằng chỉ các giáo sư giả mới đưa ra những sự giảng dạy phủ nhận Thần Tính của Đức Chúa Jêsus Christ, tức dạy rằng Ngài không phải là Đức Chúa Trời: “1Hỡi kẻ rất yêu dấu, chớ tin cậy mọi thần, nhưng hãy thử cho biết các thần có phải đến bởi Đức Chúa Trời chăng; vì có nhiều tiên tri giả đã hiện ra trong thiên hạ. 2Bởi điều nầy, hãy nhận biết Thánh Linh của Đức Chúa Trời: Phàm thần nào xưng Đức Chúa Jêsus Christ lấy xác thịt mà ra đời, thần đó là bởi Đức Chúa Trời; 3còn thần nào không xưng Đức Chúa Jêsus, chẳng phải bởi Đức Chúa Trời. Đó là thần của Kẻ địch lại Đấng Christ, mà các con đã nghe rằng hầu đến, và hiện nay đã ở trong thế gian rồi. 4Hỡi các con cái bé mọn, phần các con, là thuộc về Đức Chúa Trời, đã thắng được họ rồi, vì Đấng ở trong các con là lớn hơn kẻ ở trong thế gian. 5Họ thuộc về thế gian, cho nên nói theo như thế gian, và người thế gian nghe họ. 6Chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời: ai nhìn biết Đức Chúa Trời thì nghe chúng ta; còn ai chẳng hề thuộc về Đức Chúa Trời, thì chẳng nghe chúng ta. Ấy bởi đó chúng ta nhìn biết thần chân thật và thần sai lầm” (1Gi. 4:1-6) Để khỏi mắc mưu gian của các giáo sư giả, cách đơn giản nhất mà cũng là hợp lẽ duy nhất là hãy tra xem Kinh Thánh phán gì về Thần Tính của Ngài… Thứ Nhất, Kinh Thánh Phán Về Ngài Bằng Các Danh Xưng Chỉ Định Về Thần Tính Thiên Thượng Chỉ Duy Nhất Thuộc Về Đức Chúa Trời: “Emmanuên” (Ês. 7:14, Sv. Ma. 1:23). “Đấng Trước Hết Và Là Đấng Sau Cùng” (Khải. 1:17; 22:13). “Đức Chúa Trời” (Thi. 102:24-27, Sv. Hê. 1:10-13; Gi. 1:1; 20:28; Rô. 9:5; 1Gi. 5:20-21). “Đức Chúa Trời Và Đức Chúa Jêsus” (2Phi. 1:1). “Đức Chúa Trời Lớn Và Cứu Chúa” (Tít 2:13). “Đấng Thánh Và Đấng Công Bình” (Công. 3:14). “Chúa Của Các Chúa Vua Của Các Vua” (Khải. 17:14). “Chúa” (Thi. 110:1 Sv. Ma. 22:42-45; Ês. 40:3 Sv. Ma. 3:3; Công. 20:28). “Đức Giêhôva Vạn Quân” (Ês. 8:13-14; 1Phi. 2:8). “Chúa Tôi Và Đức Chúa Trời Tôi” (Gi. 20:28). “Chúa Của Loài Người” (Công. 10:36; Rô. 10:12). “Đức Chúa Trời Quyền Năng” (Isa 9:6 [C. 5 VNTT.]). “Con Một Đến Từ Nơi Cha” (Gi. 1:14, 18; 3:16, 18; 1Gi. 4:9). “Con Đức Chúa Trời” (Ma. 26:63-67; Mác 1:1; 15:39; 1Cô. 1:9; 2Cô. 1:19; Gal. 2:20; Êph. 4:13; Hê. 1:2; 2Phi. 1:17; 1Gi. 1:2-3; 3:23; 5:10, 12-13, 20), “Con Người” (Đa. 7:13-14; Ma. 11:19; 12:8). Thứ Hai, Ngài Được Kinh Thánh Gọi Bằng Các Danh Xưng Thiên Thượng Chỉ Dành Cho Đức Chúa Trời: “Đức Giêhôva”, “Đức Chúa Trời” (Ês. 40:3 Sv. Ma. 3:3). “Vua Vinh Hiển”, “Chúa Vinh Hiển” (Thi. 24:7, 10; 1Cô. 2:8; Gia. 2:1). “Đức Giêhôva Sự Công Bình Chúng Ta” (Giê. 23:5-6 Sv. 1Cô. 1:30), “Đấng Chí Cao Trổi Cao Hơn Cả Trái Đất” (Thi. 97:9; Gi. 3:31), “Đầu Tiên Và Cuối Cùng” “Đấng Trước Hết Và Là Đấng Sau Cùng” (Ês. 44:6 Sv. Khải. 1:17; Ês. 48:12-16 Sv. Khải. 22:13). “Đức Giêhôva Vạn Quân” (Xa. 13:7 Sv. Php. 2:6). “Đức Giêhôva Vạn Quân” (Ês. 6:1-3 Sv. Gi. 12:41; Ês. 8:13-14 Sv. 1Phi. 2:8). “Chúa” (Thi. 110:1 Sv. Ma. 22:42-45). “Chúa Giêhôva Đấng Chăn Bầy”, “Đấng Chăn Chiên Lớn” (Ês. 40:10-11; Heb 13:20). “Đức Giêhôva Đấng Dựng Nên Muôn Vật” (Châm. 16:4; Sv. Côl. 1:16). “Chúa Là Sứ Giả Giao Ước” (Mal. 3:1 Sv. Lu. 7:27). “Chúa (Giêhôva)” (Giôên 2:32 Sv. 1Cô. 1:2). Thứ Ba, Kinh Thánh Kể Ngài Là Đồng Đẳng Với Đức Chúa Trời: Về tính tiền tại đời đời và về công nghiệp sáng tạo (Thi. 102:24-27 Sv. Hê. 1:8, 10-12). Về quyền tể trị tối cao (Ês. 9:6). Về tính vĩ đại (Ôs. 1:7 Sv. Tít 2:13). Về tính tối cao (Rô. 9:5). Về quyền phán xét (Truyền. 12:14 Sv. 1Cô. 4:5; 2Cô. 5:10; 2Ti. 4:1). Về sự ở cùng trong loài người (Ês. 7:14 Sv. Ma. 1:23). Về quyền làm Chúa đối với cả thế gian (Đa. 10:17 Sv. Khải. 1:5; 17:14). Về đức thánh khiết và công nghĩa (1Sa. 2:2 Sv. Công. 3:14). Về quyền làm Chúa trên Thiên Đàng (1Cô. 15:47). Về quyền làm Chúa đối với ngày Sabát (Sáng. 2:3 Sv. Ma 12:8). Về quyền làm Chúa đối với mọi sự (Công. 10:36 Sv. Rô. 10:11-13). Về chức phận Con của Đức Chúa Trời (Ma. 26:63-67). Về tính độc sanh bởi Đức Chúa Trời (Gi. 1:14, 18; 3:16, 18 Sv. 1Gi. 4:9). Về tính Thiên Thượng của huyết Ngài (Công. 20:28). Về tính đồng nhất với Đức Chúa Cha (Gi. 10:30, 38; 12:45; 14:7-10; 17:10). Về tính Đấng đồng đẳng với Đức Chúa Cha (Gi. 14:16 Sv. Gi. 15:26). Về tính không thể dò lường được (Châm. 30:4 Sv. Ma. 11:27). Về tính tạo dựng đối với tất cả mọi sự (Ês. 40:28 Sv. Gi. 1:3; Col 1:16). Về tính quan phòng trên tất cả mọi sự (Nê. 9:6 Sv. Côl. 1:17; Hê. 1:3). Về tính quen thuộc đối với các thánh đồ (Sáng. 17:1 Sv. Sáng. 48:15-16; 32:24-30; Ôs. 12:3-5; Quan. 6:22-24; 13:21-22; Gióp 19:25-27). Về tính đồng công đối với Đức Chúa Cha (Gi. 5:17-18, 23; 10:30, 33, 38; 12:45; 14:7-11; 17:11, 21-22). Về tính ban sai đối với Đức Thánh Linh (Gi. 14:16). Về tính đồng nhất với Chúa trong Cựu Ước (Gi. 12:40-41 Sv. Ês. 6:8-11). Về tính đồng nhất đối với Đức Giêhôva của Cựu Ước (Gi. 19:37 Sv. Xa. 12:10). Về tính thẩm quyền đối với sự tha tội (Ma. 1:21; 9:6 Sv. Mác 2:5; Lu. 5:20; Côl. 3:13). Về quyền phong lập Sứ Đồ (Gal. 1:1). Về tính đồng đẳng trong qui thức chúc phước (Rô. 1:7; 1Cô. 1:3; 2Cô. 1:2; Gal. 1:3; Êph. 1:2; 6:23-24; 1Tê. 1:1; 3:11; 2Tê. 1:1-2; 2:16-17; 2Ti. 1:2). Về tính thủ đắc mọi quyền phép của Đức Chúa Trời (Ma. 28:17-18). Về tính tự hữu đối với bản chất của Đức Chúa Trời (Gi. 1:1-2; 1Gi. 1:1). Về quyền chung thẩm mà chỉ Đức Chúa Trời mới có (2Cô. 5:10). Thứ Tư, Kinh Thánh Cho Thấy Các Sự Làm Chứng Về Thần Tính Của Ngài: Bởi Đức Chúa Cha (Gi. 5:32, 34, 37; 6:27; 8:18; Công. 13:33; 1Gi. 5:9). Tại lúc Ngài chịu báptêm (Ma. 3:16-17; Mác 1:11; Lu. 3:22). Tại lúc Ngài hóa hình (Ma. 17:5; Mác 9:7; Lu. 9:35; 2Phi. 1:17). Bởi chính Ngài (Gi. 5:18, 31, 36; 8:18, 42; 10:33, 36, 38; 12:45; 14:11-13; 16:27-28; 17:5, 8, 24-25; 19:7). Cho Sứ Đồ Phierơ và các môn đồ khác (Ma. 16:16-17; Mác 8:29-30; Lu. 9:20-21). Cho người Do Thái Giáo (Ma. 22:43-44; Gi. 5:23; 10:30, 33, 36, 38; 12:45). Cho các môn đồ của Ngài (Gi. 16:27-28). Bởi người mù được chữa lành (Gi. 9:35-37). Cho Philíp (Gi. 14:7-11, 20). Cho Caiphe (Ma. 26:63-64; Mác 14:61-62; Lu. 22:67-70). Cho Philát (Gi. 18:36-37; 1Ti 6:13). Bởi các Thiên Sứ cho Giôsép (Ma. 1:23). Cho Mari (Lu. 1:32, 35). Bởi Giăng Báptít (Gi. 1:29-34; 5:33). Bởi Sứ Đồ Giăng (Gi. 1:14, 18; 13:3; 1Gi. 2:22-24). Bởi các môn đồ (Gi. 16:30). Bởi Sứ Đồ Phaolô (Công. 9:20). Bởi Trước Giả sách Hêbơrơ (Hê. 11:26). Bởi cả Kinh Thánh (Gi. 5:39). Bởi Thôma (Gi. 20:28). Bởi các tà linh (Ma. 8:29; Mác 1:23-24; 3:11; 5:6-7; Lu. 4:34, 41). Thứ Năm, Kinh Thánh Cho Biết Về Sự Tiền Tại Đời Đời Của Ngài: “Cha Đời Đời” (Ês. 9:6). “Có Trước Muôn Vật” (Gi. 1:1-2, 15; 17:5, 24; Côl. 1:17; 2Ti 1:9). “Có Từ Lúc Ban Đầu” (1Gi. 2:13). “Bởi Từ Đời Xưa, Từ Trước Vô Cùng” (Mi. 5:2). “Còn Đến Muôn Đời” (Thi. 102:24-27 Sv. Hê. 1:10-13; Thi. 110:4; Êph. 3:21; Hê. 7:16, 24-25; Khải. 5:13-14). “Đời Đời Không Hề Thay Đổi” (Heb 13:8). Thứ Sáu, Kinh Thánh Cho Biết Về Sự Tôn Vinh Hiển Của Ngài: Như Đấng Mêsia (Thi. 2:8-9; 68:18 Sv. Êph. 4:8). Như Đấng tối thượng (Ma. 26:64 Sv. Mác 16:19; Lu. 22:69; 24:26; Gi. 7:39; Công. 2:33-34; 3:20-21; 7:55-56; Rô. 8:17, 34; Êph. 1:20-22; 4:10; Côl. 3:1; 1Ti. 3:16; Hê. 1:3; 10:12-13; 12:2; 1Phi. 3:22; Khải. 3:21). Như Chúa của cả trời đất (Php. 2:9-11 Sv. Côl. 2:15). Như Cứu Chúa (Công. 5:31). Như Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm (Hê. 4:10, 14; 6:20; 7:26; 8:1; 9:24). Thứ Bảy, Kinh Thánh Cho Thấy Ngài Tự Chứng Rằng Mình Là Đức Chúa Trời Và Các Sứ Đồ Cũng Kể Ngài Là Đức Chúa Trời: Chính Ngài (Ma. 11:29; 20:28; Mác 10:43-45; Lu. 22:26-27; Gi. 10:4; 13:13-15, 34; 17:14, 18, 21-22; Khải. 3:21). Sứ Đồ Phaolô (Rô. 8:29; 13:14; 15:2-7; 2Cô. 4:10; 8:9; 10:1; Gal. 3:27; 6:2; Êph. 4:13, 15, 24; 5:2; 6:9; Php. 2:5-8; Côl. 3:10-11, 13; 1Tê. 1:6). Các Sứ Đồ Khác (Hê. 3:1; 12:2-4; 1Phi. 1:15; 2:21-24; 3:17-18; 1Gi. 2:6; 3:1-3, 16; 4:17). Ngoài các giáo sư giả ra, cũng nên để ý rằng nếu như không ai có thể giúp cho một người học Lớp Một giải được phương trình bậc ba thì, tương tự như vậy, cũng chẳng ai có thể giúp cho những người không biết gì về Thần Học Kinh Thánh hiểu ra được những Giáo Lý Kinh Thánh về Đức Chúa Jêsus Christ (“Cứu Thế Luận”, Christology) được đâu. Đối với những người như thế thì dầu rằng không nhất thiết phải biện luận với họ nhưng chúng ta phải nhất thiết tránh không được để cho họ mê hoặc! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“MỤC VỤ SOI SÁNG CỦA ĐỨC THÁNH LINH TRONG VIỆC GIẢI NGHĨA VÀ HIỂU KINH THÁNH” (2Phi. 1:20-21) “Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được. Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời.” (2Phi. 1:20-21) Mục Vụ soi sáng của Đức Thánh Linh luôn luôn song hành với sự giải nghĩa Kinh Thánh của tín hữu cho nên Sự Soi Sáng của Đức Thánh Linh, việc giải nghĩa Kinh Thánh, và việc hiểu Kinh Thánh theo ý chỉ của Đức Chúa Trời để sống một đời sống vâng lời Ngài là những phạm trù hỗ tương có tính tất yếu. Mặc dầu Sự Soi Sáng được hứa cho mọi tín hữu, nhưng không chắc là sẽ luôn luôn có được sự giải nghĩa chính xác và, nếu sự giải nghĩa bị sai, sự hiểu biết đối với đoạn văn Kinh Thánh cũng trở nên đáng hồ nghi. Thế nhưng có nhiều người tiếp cận bản văn Kinh Thánh trong một quan điểm thần bí. Sự tìm kiếm duy nhất của họ đối với mỗi đoạn văn Kinh Thánh là niềm hy vọng rằng “Đức Thánh Linh sẽ bày tỏ đoạn văn này có ý nghĩa như thế nào” mà không hề có nguyên tắc và phương pháp tiếp cận. Thế rồi họ bắt đầu làm sai lạc mất ý nghĩa của bản văn và chỉ có được những ý tưởng vô căn cứ và hoàn toàn xa lạ đối với những gì Đức Thánh Linh phán qua Lời Thành Văn của Ngài là điều vốn chỉ có thể tìm ra được theo các nguyên tắc giải nghĩa Kinh Thánh vững chắc đối với sự nghiên cứu Kinh Thánh, tức phân kinh. Một từ liệu đáng nên dùng để nói về một thái độ tắc trách như vậy là “sự lạm dụng”. Trong một chương sách với tiêu đề “Xử Lý Bản Văn Kinh Thánh Một Cách Chính Xác”, Swindol viết như thế này: “Thời chúng ta đang sống là thời lạm dụng: Lạm dụng tình dục, lạm dụng tình cảm, lạm dụng lời lẽ,… Nhưng còn sự lạm dụng Kinh Thánh thì sao? Tôi muốn nói về việc sử dụng không thỏa đáng Lời Kinh Thánh. Ai trong chúng ta đây là người chưa từng phải thấy một ai đấy bóp méo Lời Kinh Thánh? Ép Lời Kinh Thánh có những ý nghĩa mà chính Kinh Thánh không nhắm đến? Những ai không am tường Kinh Thánh sẽ hết lòng tin những gì họ được nghe, để rồi về sau họ thất vọng khi nhận thấy được rằng cả sự giải nghĩa lẫn sự áp dụng đều sai trật… khiến dẫn đến những hậu quả tai hại trên sức khỏe và sự tăng trưởng thuộc linh của họ” (1). Ấy chính vì sự rắc rối này mà Sứ Đồ Phaolô, khi cảnh báo cho Timôthê trước các sự dạy dỗ sai trật khiến có thể làm hư người nghe, đã truyền rằng “Hãy chuyên tâm cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời như người làm công không chỗ trách được, lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật” (2Ti. 2:15). Sứ Đồ Phaolô truyền ra một nguyên tắc quan trọng là chúng ta phải xử lý với Lời Đức Chúa Trời một cách chính xác cả trong giai đoạn phân kinh (exegesis) lẫn trong giai đoạn trình kinh (exposition, trình bày việc thông kinh, giải kinh). Thế nhưng sự nhấn mạnh chính là ở trong việc giải nghĩa Lời Đức Chúa Trời. Việc này có liên quan đến điều gì? Có phải đây là vấn đề của tính ngay thật của người Giáo Sư hay là đến thần học của họ? "Việc này không liên quan mấy đến tính ngay thật. Nhiều người, có thể là phần đông, những người giải sai Lời Kinh Thánh đều là người rất chân thật. Và cũng chỉ liên quan đến thần học một chút nào đó mà thôi. Lắm người có một nền thần học khá ổn định cũng có thể giải sai Kinh Thánh. Cũng chẳng phải tại nhân cách. Có những Giáo Sư ướt sủng ân tứ nhưng lại là những người có tài thao túng cử tọa và trói buộc cử tọa trong tay họ vẫn cứ mắc tội giải sai Kinh Thánh. Rõ ràng là cũng chẳng mắc mớ gì với sự nổi tiếng. Có lắm nhân vật nổi đình, nổi đám trong giới Cơ Đốc có tài kéo những cử tọa đông đúc về với mình vẫn có thể giải sai (hoặc giải sai) Lời Kinh Thánh. Vì vậy, chúng ta nên dứt khoát loại bỏ cái ý tưởng cho rằng hễ cứ “yêu mến Chúa” là người ta có thể tránh khỏi việc giải sai Kinh Thánh. Không, ngay cả những người tin vào Tính Vô Ngộ của Kinh Thánh và khẳng định tầm quan trọng lớn lao của giáo lý lành mạnh như chúng ta cũng vẫn có thể mắc tội lạm dụng Kinh Thánh” (2). Các Cơ Đốc Nhân phải học cho biết các vấn đề cơ bản của việc nghiên cứu Kinh Thánh trong sáng. Việc nghiên cứu Kinh Thánh trong sáng được dựa trên các nguyên tắc chính yếu của việc giải nghĩa giúp giữ cho người nghiên cứu tránh khỏi sự lạm dụng Kinh Thánh, và giúp ngăn ngừa được sự hoang tưởng ở người nghiên cứu. Ghi Chú: (1) Charles R. Swindoll, Growing Deep In The Christian Life, Multnomah Press, Portland, 1986, p. 69. (2) Charles R. Swindoll, pp. 69-70 (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“MỘT SỐ THUẬT NGỮ KINH THÁNH VỀ KINH THÁNH” (2Phi. 1: 20-21) “Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được. Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời.” (1Ti. 6:12) Vì Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời cho nên người ta không được phép xử lý Kinh Thánh cách tùy tiện được. Các thuật ngữ về Kinh Thánh có nội hàm và ngoại diên phụ thuộc theo sự khải thị của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh. Có một số thuật ngữ về Kinh Thánh mà chúng ta cần phải nghiên cứu và nắm vững hầu cho việc hiểu Kinh Thánh của chúng ta được hợp Kinh Thánh. 1. “Kinh Thánh” (Bible) Trong Tiếng Anh, từ liệu Bible (Kinh Thánh) xuất phát từ một từ liệu Hy Lạp là Biblion, có nghĩa là “sách” hay “cuộn giấy”. Biblion xuất xứ từ byblos, tên của một loại chỉ thảo (cói) sống trong các đầm lầy hay dọc các bờ sông, nhất là sông Nile. Ngày xưa, giấy viết được làm từ chỉ thảo bằng cách cắt lấy thân thành đoạn dài chừng 30cm, đem phơi khô, cán mỏng ra. Những đoạn này được xếp một lớp dọc, bồi keo dán lên; sau đó người ta xếp trên lớp dọc ấy một lớp ngang nữa, rồi cũng bồi keo dán lên thành tấm giấy chỉ thảo (Giống với cách ngày nay làm ván ép). Mặt những cây chỉ thảo nằm ngang sẽ là bề mặt để viết, vì nó thuận với chiều viết, viết êm hơn. Người ta kết dính nhiều tấm giấy chỉ thảo như thế với nhau thành cuộn giấy, có khi dài đến chín mét. Cuối cùng, một từ liệu số nhiều là biblia được các Cơ Đốc Nhân sử dụng Tiếng La Tinh dùng để chỉ tất cả các Sách Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước. 2. “Lời Kinh Thánh” (Scripture/Scriptures) Một từ liệu khác được sử dụng cho Kinh Thánh là “Lời Kinh Thánh” (Scripture), xuất phát từ một từ liệu Hy Lạp là grafh, có nghĩa là “một văn phẩm”, “một cái gì đó đã được trước thuật, được viết ra”. Từ liệu số nhiều Scriptures được dùng để chỉ Lời Kinh Thánh như một tổng thể (Sv. Ma. 21:42; Gi. 5:39; Rô. 15:4 ám chỉ về Kinh Thánh Cựu Ước). Tuy nhiên, hình thức số ít Scripture đôi khi cũng được dùng để chỉ Lời Kinh Thánh như một tổng thể (Sv. Rô. 4:3; Gi. 7:42), hoặc một đoạn nào đó (Sv. Mác 12:10; 15:28; Lu. 4:21). Trong Kinh Thánh Tân Ước, từ liệu này được chuyên dùng để chỉ Kinh Thánh. Đối với Cựu Ước, “Lời Kinh Thánh” được xem là chứa đựng thẩm quyền lớn (Sv. 2Vua. 14:6; 2Sử 23:18; Exr. 3:2; Nê. 10:34). “Các văn phẩm” Cựu Ước cuối cùng đã được hợp tuyển thành ba nhóm gọi là Các Sách Luật Pháp, Các Sách Tiên Tri, và Các Sách Thơ Văn. Các Sách này ban đầu được chia làm 24 Sách, khởi đầu với Sách Sáng Thế Ký và kết thúc ở Sách 2Sử Ký. Sự phân chia này chứa đựng đủ nội dung của 39 Sách như hiện có ngày nay nhưng khác về cách phân bố. Các văn phẩm này đã được hợp tuyển thành Kinh Điển Cựu Ước. Tổ hợp từ “Kinh Thánh phán” hoàn toàn tương đương với “Đức Chúa Trời phán” (Sv. Rô. 4:3; 9:17; 10:11; Gal. 4:30; 1Ti. 5:18). Để nhấn mạnh cho đặc trưng của các văn phẩm này là “thánh” và “độc đáo”, các văn phẩm ấy cũng được kể là “thánh” hay “lành” (Rô. 1:2; 2Ti. 3:15), được cho biết là “Được Đức Chúa Trời soi dẫn”, với nghĩa đen là “hà hơi”. Như vậy, với Đức Chúa Trời là Tác Giả đích thực đàng sau các Trước Giả con người, Lời Kinh Thánh vừa “có ích” vừa “có thẩm quyền” (2Ti. 3:16). Hình thức danh từ của Scripture xuất hiện chừng 50 lần trong Kinh Thánh Tân Ước (Hầu hết được dùng để nói đến lời Kinh Thánh). Hình thức động từ của từ liệu này được dùng với nghĩa “được viết ra” hay “viết ra”, xuất hiện trong Kinh Thánh Tân Ước khoảng 90 lần. 3. “Lời Đức Chúa Trời” (The Word of God) “Lời Đức Chúa Trời” là một danh hiệu khác của Kinh Thánh được dùng cả trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước. Cách nói này làm nổi bật bản chất của Kinh Thánh là Sự Khải Thị thành văn của Đức Chúa Trời, đó là Sự Khải Thị của Ngài cả về hình thức và nguồn gốc. Từ liệu Hy Lạp được dùng là logos, có nghĩa là “lời biểu hiện một khái niệm hay ý tưởng được phát biểu ra”. Tuy nhiên, “Lời Đức Chúa Trời” cũng được sử dụng để chỉ về “Sự Khải Thị của Đức Chúa Trời, lời nói ra của Đức Chúa Trời, mệnh lệnh của Đức Chúa Trời”. Trong Mác 7:13, “Lời Đức Chúa Trời” được dùng để nói về lệnh truyền của Môise có liên quan đến việc phải tôn kính Cha Mẹ và được xem như tương đương với “Điều răn của Đức Chúa Trời” (C. 8). Trong Ma. 15:6, thành ngữ “Lời Đức Chúa Trời” được đặc biệt dùng để nói về Luật Pháp Môise. Trong Gi. 10:35, thành ngữ ấy lại dùng để chỉ phần Kinh Thánh Cựu Ước và còn được phát triển rộng hơn là cả Kinh Thánh nữa. Trong Hê. 4:12, thành ngữ “Lời Đức Chúa Trời” được dùng để chỉ cả Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước. 4. “Lời Phán Của Đức Chúa Trời” (The Oracles of God) Một từ liệu Hy Lạp khác được dùng cho Kinh Thánh, nhất là Kinh Thánh Cựu Ước, là logion, một biến tướng của logos với nghĩa là “một lời phán ra, một sự thốt lên hay đáp lại của Thiên Thượng”. Thành ngữ ấy được dùng trong Rô. 3:2 và Công. 7:38, được dịch với ý “lời phán”. Trong Công. 7:38, Luật Pháp Cựu Ước nhận được trên núi Sinai được kể là “Lời Sự Sống”. 5. “Ước” (Testament) Một từ liệu kém phổ biến chỉ về Kinh Thánh là “Ước”. Gốc Hy Lạp của từ liệu này là διαθήκη [diatheke] với nghĩa là “giao ước, ước, ý muốn”. Từ liệu này được sử dụng để phân biệt giữa Giao Ước Cũ với Giao Ước Mới, đó là Cựu Ước và Tân Ước. Đặc biệt, từ liệu này còn được dùng cho các giao ước cụ thể trong Kinh Thánh. Vì các giao ước này được bao gồm trong Sự Khải Thị của Đức Chúa Trời, “Ước” là một từ liệu đồng nghĩa với Kinh Thánh (Scripture). Sứ Đồ Phaolô đã viết “Khi họ đọc Cựu Ước…” (2Cô. 3:14). 6. “Luật Pháp” (The Law) Một từ liệu khác được dùng trong Kinh Thánh Tân Ước để nói về Kinh Thánh Cựu Ước là “Luật Pháp”. Theo nguyên tắc là thành phần có thẩm quyền cao nhất sẽ quyết định tên gọi cho toàn phần, đôi khi thành ngữ “Luật Pháp” nhắm đến toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước. Thể theo nguyên tắc này, và vì toàn bộ Kinh Thánh Tân Ước được xem là lời có thẩm quyền của Đức Chúa Trời trong sự dạy dỗ, Đức Chúa Jêsus đã trích Thi. 82 trong Gi. 10:34 và kể là “Luật Pháp”. Trong Gi. 12:34, đoàn dân đông thưa rằng: “Chúng tôi có đọc trong Luật Pháp rằng Đấng Christ còn đời đời, vậy sao Thầy nói Con Người phải bị treo lên? Con Người đó là ai?” Trong lời này, “Luật Pháp” được dùng nói về toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước vì các đoạn văn Kinh Thánh có trong trí những người nói bao gồm các phân đoạn Kinh Thánh như Thi. 110:4; Ês. 9:7; Êx. 37:25, và năm sách Kinh Thánh đầu tiên của Môise. 7. “Luật Pháp Và Lời Tiên Tri” (The Law and Prophets) “Luật Pháp Và Lời Tiên Tri” cũng là một thành ngữ được dùng để chỉ toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước. Thành ngữ đặc biệt này nhìn nhận Kinh Thánh Cựu Ước theo góc độ các phần của Cựu Ước: Luật Pháp, Tiên Tri, và Thơ Văn. Hãy so sánh Ma. 5:17; 7:12; Lu. 16:16; và Rô. 3:21. Cũng hãy xem Lu. 24:27 và 44. 8. Các Thuật Ngữ Khác Chỉ Về Kinh Thánh Cựu Ước (Other Terms for Old Testament) Thi. 19:7-9 đưa ra cho chúng ta thấy một số các từ đồng nghĩa trong một sự mô tả sáu phương diện của Sự Khải Thị của Đức Chúa Trời, là Lời Đức Chúa Trời. Các từ liệu ấy gọi Lời Đức Chúa Trời là: - “Luật Pháp”: Phương hướng, hay ý chỉ, của Đức Chúa Trời được khải thị. - “Sự Chứng Cớ”: Sự làm chứng về Thân Vị và mục đích của Đức Chúa Trời. - “Giềng Mối”: Một từ liệu chung để chỉ các phận sự của Dân Chúa. - “Điều Răn”: Lời có thẩm quyền tức sự giáo huấn của Đức Chúa Trời. - “Sự Kính Sợ”: Sự tin kính mà Lời Đức Chúa Trời đem lại trong tấm lòng của Dân Chúa. - “Các Mạng Lịnh”: Các sự hướng dẫn cụ thể tùy theo các hoàn cảnh của con người. Thi. 119 có luận đề bao quát là sự tôn kính đối với Lời Đức Chúa Trời còn có nhiều thuật ngữ hơn thế để chỉ về Lời Kinh Thánh. Có một số lượng lớn các từ liệu đã được Trước Giả Thi Thiên sử dụng để chuyển tải lẽ thật là Lời Đức Chúa Trời chứa đựng tất cả những gì chúng ta cần cho một đời sống mà Đức Chúa Trời muốn cho chúng ta có. Có ít nhất là chín từ liệu khác nhau được tìm thấy: ‘Luật Pháp” (Law - torah: C. 1, 18, 29, 34, 44, 51, 53, 55, 61, 70, 72, 77, 85, 92, 97, 109, 113, 126, 136, 142, 150, 153, 163, 165, 174); “Chứng cớ” (Testimonies - eduth/edoth: C. 2, 14, 22, 24, 31, 36, 46, 59, 79, 95, 99, 111, 119, 125, 129, 138, 144, 146, 152, 157, 167, 168); “Lối” (Ways - derek: C. 3, 5, 15, 26, 37, 59, 168); “Giềng Mối” (Precepts - piqqudim: C. 4, 15, 27, 40, 45, 56, 63, 69, 78, 87, 93, 94, 100, 104, 110, 128, 134, 141, 159, 168, 173); “Chứng cớ”/”Luật Lệ” (Statutes - eduth/edoth: C. 5, 8, 12, 16, 23, 26, 33, 48, 54, 64, 68, 71, 80, 83, 112, 117, 118, 121, 135, 145, 155, 171); “Điều Răn” (Commandments - mitswah/mitswoth: C. 6, 10, 19, 21, 32, 35, 47, 48, 60, 66, 73, 86, 98, 115, 127, 131, 143, 151, 166, 172, 176); “Đoán Ngữ Công Bình” (Judgments - mishpat: C. 7, 75, 120, 137); “Lời” (Word - dabar: C. 9, 11, 16, 17, 25, 28, 38, 41, 42, 43, 49, 50, 58, 65, 67, 74, 76, 81, 82, 89, 101, 105, 107, 114, 116, 123, 133, 140, 148, 154, 158, 160, 162, 169, 170, 172); “Đường”/”Đường Lối” (Path - natiyb: C. 35, 105). Quan tâm đến tám trong số chín từ liệu vừa kể, NIV Bible chú giải: 1. “Luật Pháp/Law - torah”: Xuất hiện 25 lần. Theo nghĩa rộng, từ liệu này nói về bất cứ sự dạy dỗ nào dẫn xuất từ Sự Khải Thị của Đức Chúa Trời làm căn bản cho đời sống và hành vi. Theo nghĩa hẹp, từ liệu này chỉ về Luật Pháp Môise - Ngũ Kinh hoặc Luật Tế Lễ, hoặc Luật Phục Truyền. 2. “Lời/Word - daba”: Chỉ về lời phát ra từ miệng của Chúa. Đó là một cách gọi tên cho Sự Khải Thị Thiên Thượng. 3. “Đoán Ngữ Công Bình/Giềng Mối/Mạng Lịnh…(Thi. 119:7, 13, 20, 30, 39, 43, 52, 62, 75, 91, 102, 106, 108, 120, 137, 149, 156, 160, 164, 175 [Laws#Precepts - mishpatim”]): Nói đến các hạng mục luật lệ cụ thể (luật tình huống) hợp thành nền tảng cho hệ thống phép tắc của Ysơraên. Chính Đức Chúa Trời là Thẩm Phán tối cao. 4. “Chứng Cớ/Luật Lệ [Statutes - eduth/edoth”]: Xuất phát từ một từ liệu có nghĩa là “làm chứng”, “chứng thực”. “Sự làm chứng” thường thường đồng nghĩa với sự giao ước (Sv. Thi. 25:10; 132:12). Việc tuân giữ “chứng cớ” của Chúa biểu thị cho việc trung tín với các khoản giao ước giữa Đức Chúa Trời và Ysơraên. 5. “Điều Răn/Command(s) - mitswah/mitswoth”: Đây là một sự gọi tên thường xuyên cho bất cứ điều gì mà Đức Chúa Trời đã huấn thị. 6. “Điều Ngài Đã Nhứt Định/Định Mạng (41 lần trong Cựu Ước, Ví dụ: Gióp. 23:14; Thi. 148:6;… [Decrees - “huqqim”]): Từ liệu này xuất xứ từ một từ liệu mang nghĩa “khắc ghi”, “khắc sâu”. Đức Chúa Trời khải thị vương quyền tể trị tối thượng của Ngài trong thiên nhiên và trong Dân Sự giao ước của Ngài. 7. “Giềng Mối/Precepts - piqqudim”: Chỉ xuất hiện trong Sách Thi Thiên và có vẻ như là từ đồng nghĩa của “giao ước” (Thi. 103:18) và của “Sự Khải Thị của Đức Chúa Trời” (Thi. 111:7). Ngữ căn của từ liệu này bao hàm thẩm quyền qui định mối quan hệ giữa Đấng Phán với các đối tượng. 8. “Lời Hứa (Được sử dụng khoảng 9 lần trong Cựu Ước; Ví dụ: Thi. 77:8;… [Word/Promise - “imrah”]): Dùng để biểu thị bất cứ sự gì Đức Chúa Trời đã phán ra, huấn thị, hay hứa hẹn. (Rev. Doan Nhat Tan, PhD)
“KHÁI QUÁT VỀ ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC” (1Ti. 6:12) “Hãy vì đức tin mà đánh trận tốt lành, bắt lấy sự sống đời đời, là sự mà con đã được gọi đến, và vì đó mà con đã làm chứng tốt lành trước mặt nhiều người chứng kiến” (1Ti. 6:12) 1. BẢN CHẤT CỦA ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC LÀ GÌ? Đời sống Cơ Đốc có bản chất là sự sống đời đời, đó là sự sống mới mà Cơ Đốc Nhân bắt đầu có được khi tiếp nhận sự cứu rỗi: “Ai tin Con thì được sự sống đời đời…” (Gi. 3:36a) Đời sống Cơ Đốc là sự sống đời đời thể hiện ra qua đời sống cá nhân có được bởi sự ban cho của Đức Chúa Trời thông qua Đức Chúa Jêsus Christ nhờ mối tương giao cá nhân của Cơ Đốc Nhân với chính Ngài… (1) Tất cả những ai thật lòng ăn năn tội, tiếp nhận Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và Chúa của mình đều có được sự sống đời đời: “Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống” (1Gi. 5:12) (2) Sự sống đời đời là sự sống thuộc linh được thể hiện qua mối tương giao giữa Cơ Đốc Nhân và Đức Chúa Trời: “Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến” (Gi. 17:3) (3) Cơ Đốc Nhân sẽ còn được có cùng một sự sống thuộc thể giống với sự sống thuộc thể phục sinh mà Đức Chúa Jêsus có: “Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt của chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật” (Php. 3:21) 2. LÀM THẾ NÀO CÓ THỂ CẢM NHẬN ĐƯỢC SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI? Sự sống đời đời là bằng chứng của sự cứu rỗi trên đời sống của một cá nhân: “Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống” (1Gi. 5:12) Đối với mỗi Cơ Đốc Nhân, sự sống đời đời có thể được cảm nhận qua nhiều phương diện của đời sống họ… (1) Qua mối tương giao cá nhân với Đức Chúa Trời bằng việc vâng theo các sự dạy dỗ của Ngài: “Ai có các điều răn của Ta và giữ lấy, ấy là kẻ yêu mến Ta…” (Gi. 14:21a) (2) Qua sự hiểu biết không ngừng về Đức Chúa Trời và các lẽ thật thuộc linh: “Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến” (Gi. 17:3) (3) Qua sự bảo đảm về sự tha thứ Thiên Thượng bằng các lời hứa của Đức Chúa Trời: “…Nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác” (1Gi. 1:9) (4) Qua sự chăm sóc đa dạng của Đức Thánh Linh, kết quả bằng bông trái Thánh Linh của chúng ta: “Nhưng trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ” (Gal. 5:22-23) (5) Qua tình yêu thương đối với tha nhân, kể cả đối cả đối với những người chúng ta không thích: “Kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời” (1Gi. 4:7b) (6) Qua sự đổi mới trong tâm chí, thể hiện bằng sự bất bình đối với tội lỗi và buồn bực đối với vi phạm của mình: “22Anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành, 23mà phải làm nên mới trong tâm chí mình, 24và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và thánh sạch của lẽ thật” (Êph. 4:22-24) (7) Qua phước hạnh và sự thỏa lòng của việc vâng lời Đức Chúa Trời: “1Phước cho người nào chẳng theo mưu kế của kẻ dữ,_Chẳng đứng trong đường tội nhân,_Không ngồi chỗ của kẻ nhạo báng;_2Song lấy làm vui vẻ về Luật Pháp của Đức Giêhôva,_Và suy gẫm Luật Pháp ấy ngày và đêm._3Người ấy sẽ như cây trồng gần dòng nước,_Sanh bông trái theo thì tiết,_Lá nó cũng chẳng tàn héo” (Thi. 1:1-3) (8) Qua việc được đáp lời cầu nguyện theo thời điểm và cách thế của Đức Chúa Trời khi chúng ta đáp ứng được các điều kiện đã định của Ngài: “Nầy là điều chúng ta dạn dĩ trước mặt Chúa, nếu chúng ta theo ý muốn Ngài mà cầu xin việc gì, thì Ngài nghe chúng ta” (1Gi. 5:15) (9) Qua kinh nghiệm đắc thắng sự thúc giục của sức mạnh của tội lỗi, sự cám dỗ của Satan và thế gian bằng quyền năng của Đức Chúa Trời: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phil. 4:13) (10) Qua sự sửa phạt Thiên Thượng trong tình cha con: “Hễ nhánh nào trong Ta mà không kết quả thì Ngài chặt hết; và Ngài tỉa sửa những nhánh nào kết quả, để được sai trái hơn” (Gi. 15:2) (11) Qua sự thông công Cơ Đốc với Đức Chúa Trời và với những người cùng chung đức tin: “Chúng tôi lấy điều đã thấy và nghe mà truyền cho anh em, hầu cho anh em được giao thông với chúng tôi. Vả, chúng tôi vẫn được giao thông với Đức Chúa Cha, và với Con Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ” (1Gi. 1:3) (12) Qua sự gắn bó với công việc Chúa trong Hội Thánh: “Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu” (1Cô. 15:58) 3. PHẢI DUY TRÌ ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC NHƯ THẾ NÀO? Phải duy trì đời sống Cơ Đốc là ý muốn của Đức Chúa Trời; Ngài ban cho Cơ Đốc Nhân nhiều sự dự ứng khác nhau để họ duy trì đời sống Cơ Đốc: “3Quyền phép của Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta mọi điều thuộc về sự sống và sự tin kính, khiến chúng ta biết Đấng lấy vinh hiển và nhân đức mà gọi chúng ta, 4và bởi vinh hiển nhân đức ấy, Ngài lại ban lời hứa rất quí rất lớn cho chúng ta, hầu cho nhờ đó anh em được lánh khỏi sự hư nát của thế gian bởi tư dục đến, mà trở nên người dự phần bổn tánh Đức Chúa Trời” (2Phi. 1:3-4) Ba nguồn chính để Cơ Đốc Nhân duy trì đời sống Cơ Đốc là… (1) Kinh Thánh. “16Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, 17hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (2Ti. 3:16-17) (2) Sự Cầu Nguyện. “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời” (Php. 4:6) (3) Đời Sống Thực Hành Đức Tin. “Tôi đã bị đóng đinh vào Thập Tự Giá với Đấng, Christ mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong Đức Tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi” (Gal. 2:20) 4. CƠ ĐỐC NHÂN PHẢI TÁCH LY KHỎI NHỮNG ĐIỀU GÌ? Đời sống Cơ Đốc là đời sống thánh khiết, đó là một đời sống được khởi đầu bằng sự tách ly ra khỏi mọi điều không phù hợp với Đức Chúa Trời trên phương diện đạo đức. Sự tách ly của Cơ Đốc Nhân được Kinh Thánh kể là “việc lành”: “Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời” (Ma. 5:16) Kinh Thánh Tân Ước dạy chúng ta phải tự phân rẽ mình ra khỏi… (1) Phải Tự Phân Rẽ Mình Khỏi Tội Lỗi Cá Nhân: “11Nhưng hỡi con, là người của Đức Chúa Trời, hãy tránh những sự đó đi, …14phải giữ điều răn, ở cho không vết tích và không chỗ trách được, cho đến kỳ sự hiện ra của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta” (1Ti. 6:11a, 14). (2) Phải Phân Rẽ Mình Khỏi Các Tín Hữu Đang Phạm Tội: “Nhưng tôi viết khuyên anh em đừng làm bạn với kẻ nào tự xưng là anh em, mà gian dâm, hoặc tham lam, hoặc thờ hình tượng, hoặc chửi rủa, hoặc say sưa, hoặc chắc bóp, cũng không nên ăn chung với người thể ấy” (1Cô. 5:11). (3) Phải Phân Rẽ Mình Khỏi Các Giáo Sư Giả: “Sau khi mình đã khuyên bảo kẻ theo tà giáo một hai lần rồi, thì hãy lánh họ đi” (Tít 3:10). 5. CƠ ĐỐC NHÂN PHẢI TẬN HIẾN CHO NHỮNG ĐIỀU GÌ? Tự phân rẽ mình ra khỏi sự bất khiết vẫn chưa đủ. Cùng với việc tự phân rẽ mình ra khỏi những điều không phù hợp với Đức Chúa Trời, nhất thiết chúng ta cũng phải có sự tận hiến chính mình cho Đức Chúa Trời: “12Vậy chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó. 13Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trỏ nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình” (Rô. 6:12-13). (1) Chúng ta có bổn phận tận hiến hoàn toàn cho Chúa và công việc của Chúa trong thế gian này: “Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em” (Rô. 12:1) (2) Chúng ta phải bày tỏ sự sẵn lòng tuân thủ theo sự dạy dỗ và đòi hỏi của Ngài là chấm dứt làm theo đời này và luôn luôn làm theo ý muốn của Ngài: “Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô. 12:2) 6. CHỨC PHẬN MÔN ĐỒ CỦA CƠ ĐỐC NHÂN LÀ GÌ? Môn đồ là người học trò dốc lòng chăm chú vào các sự dạy dỗ của thầy mình, áp dụng cho đời sống mình, và truyền đạt lại cho người khác để họ cũng làm như như mình. Chức phận môn đồ là điều cốt lõi của đời sống và chức vụ Cơ Đốc: “…Hãy theo Ta, Ta sẽ khiến cho các ngươi trở nên tay đánh lưới người” (Mác 1:17b). (1) Sự cứu rỗi đem lại cho người tân tín hữu các trách nhiệm mới đối với Cứu Chúa và cũng là Chúa của họ: “26Nếu có ai đến theo Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ Ta. 27Còn ai không vác Thập Tự Giá mình mà theo Ta, cũng không được làm môn đồ Ta” (Lu. 14:26-27). (2) Cơ Đốc Nhân phải quyết định dâng đời sống mình để hầu việc Đức Chúa Trời, nhận lấy chức phận môn đồ chứ không thể để cho mình dao động qua lại giữa lợi ích của Vương Quốc Đức Chúa Trời với lợi ích thế gian: “Chẳng ai được làm tôi hai chủ; vì sẽ ghét người nầy mà yêu người kia, hoặc trọng người nầy mà khinh người kia. Các ngươi không có thể làm tôi Đức Chúa Trời lại làm tôi Mamôn nữa” (Ma. 6:24). (Rev. Doan Nhat Tan, PhD)
“MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG LƯỢC TRUYỀN GIÁO” (Giu. 1:22-23) “Hãy trách phạt những kẻ nầy, là kẻ trù trừ, hãy cứu vớt những kẻ kia, rút họ ra khỏi lửa; còn đối với kẻ khác, hãy có lòng thương lẫn với sợ, ghét cả đến cái áo bị xác thịt làm ô uế.” (Giu. 1:22-23) Mỗi Hội Thánh Địa Phương đều phải đối diện với vấn đề chọn phương thức và chiến lược truyến giáo cho mình. Nhìn chung, việc chọn phương thức truyền giáo có thể dựa vào xu hướng truyền thống, điều kiện đặc thù của cộng đồng, thế mạnh của Hội Thánh,… Phương thức truyền giáo có thể chọn lựa và thay đổi với sự thay đổi “vô hại” cặp theo trong kết quả truyền giáo nhưng đối với chiến lược truyền giáo thì khác hẳn: Trong khi việc chọn chiến lược truyền giáo hợp Kinh Thánh góp phần tôn vinh hiển Đức Chúa Trời và cứu tội nhân, việc chọn chiến lược truyền giáo phi, phản Kinh Thánh sẽ dẫn đến những sự bất cập hết sức “tai hại” dầu rằng về “kết quả” (nếu có thể gọi như thế) trông có vẻ như là vĩ đại! 1. Phương Thức Truyền Giáo (1) Phân Loại Trên Phương Diện Tính Chất Về cấu trúc loại hình, truyền thống truyền giáo của Hội Thánh cho thấy có ba loại hình khác nhau: Truyền Giáo Chính Thống (Pulpit Evangelism), Truyền Giáo Tự Phát (Passive Evangelism), và Truyền Giáo Tự Giác (Aggressive Planned Evangelism). a. Truyền Giáo Chính Thống (Pulpit Evangelism) “1Ta ở trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng sẽ đoán xét kẻ sống và kẻ chết, nhân sự đến của Ngài và nước Ngài mà răn bảo con rằng: 2hãy giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi. 3Vì sẽ có một thời kia, người ta không chịu nghe đạo lành; nhưng vì họ ham nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo sư xung quanh mình, 4bịt tai không nghe lẽ thật, mà xây hướng về chuyện huyễn. 5Nhưng con, phải có tiết độ trong mọi sự, hãy chịu cực khổ, làm việc của người giảng Tin lành, mọi phận sự về chức vụ con phải làm cho đầy đủ” (2Ti. 4:1-5) Gọi là “Truyền Giáo Chính Thống” để nhấn mạnh tính chất đòi hỏi chính thức của Kinh Thánh đối với phương thức truyền giáo này, truyền giáo từ bục giảng của Hội Thánh. Timôthê vốn được phong lập làm Mục Sư, và đoạn văn Kinh Thánh này dạy một cách rõ ràng rằng một trong các phận sự của chức trách này là hoạt động truyền giáo mà việc rao giảng Tin Lành từ bục giảng là chính. Đoạn văn Kinh Thánh này phải được xem như luận điểm căn bản cho phận sự truyền giáo của người Mục Sư cũng như cho hoạt động truyền giáo của Hội Thánh. Truyền giáo từ bục giảng là rao sứ điệp truyền Tin Lành của Kinh Thánh từ bục giảng của Hội Thánh cho một nhóm người (bằng lòng nghe sứ điệp Tin Lành rao ra từ bục giảng của Hội Thánh, họ có thể là số người đông hoặc không đông lắm). Đặc điểm của phương thức này là, giữa khi phương án truyền giáo này được thực hiện, không có sự can thiệp của bất cứ hình thức chứng đạo nào khác đối với thính giả. Tại đây, sứ điệp Kinh Thánh được sứ giả của Đức Chúa Trời rao ra, phải được tác động trực tiếp và nghiêm túc trên tâm trí của từng các nhân người nghe, mỗi các nhân có phận sự đáp ứng đầy đủ với sứ điệp của Đức Chúa Trời gửi đến cho họ qua diễn giả là sứ giả của Ngài. b. Truyền Giáo Tự Phát (Passive Evangelism) “14Vì tình yêu thương của Đấng Christ cảm động chúng tôi, và chúng tôi tưởng rằng nếu có một người chết vì mọi người, thì mọi người đều chết, 15lại Ngài đã chết vì mọi người, hầu cho những kẻ còn sống không vì chính mình mà sống nữa, nhưng sống vì Đấng đã chết và sống lại cho mình” (2Cô. 5:14-15) Gọi là “Truyền Giáo Tự Phát” để nhấn mạnh tính chất thôi thúc nội tại có thật trong lòng người tin về động cơ trong sáng muốn cho người ở gần mình cũng có được sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ như mình. Cơ Đốc Nhân là người đang kinh nghiệm sự đổi mới (Sv. 2Cô. 5:17), họ không thể cầm giữ Tin Lành cho riêng mình được mà cần phải chia sẻ ra (Sv. 1Cô. 9:16) trong động cơ yêu thương tội nhân và tận hiến cho Đức Chúa Trời (Sv. Côl. 1:28; Gal. 2:20). Đặc điểm của phương thức này là sự nổ lực tích cực của một cá nhân dành cho người thuộc trong phạm vi tương tác cố hữu hoặc khả hữu, có phương tiện, tác nhân hỗ trợ hoặc không có phương tiện, tác nhân hỗ trợ. Trong thực tiễn, phương thức này được gọi là “Cá Nhân Chứng Đạo” (chỉ về nổ lực truyền giáo của một cá nhân dành cho một hay nhiều cá nhân khác; dầu vậy, “cá nhân chứng đạo” vừa có thể mang tính chất tự phát như đang đề cập, vừa có thể mang tính chất tự giác như sẽ được đề cập trong phần sau đây). c. Truyền Giáo Tự Giác (Aggressive Planned Evangelism) “34Đoạn, Ngài kêu dân chúng và môn đồ, mà phán rằng: Nếu ai muốn theo Ta, phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. 35Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất; còn ai vì cớ Ta và đạo Tin lành mà mất sự sống, thì sẽ cứu. 36Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? 37Hay là có người nào lấy chi mà đổi linh hồn mình ư? 38Vì giữa dòng dõi gian dâm tội lỗi nầy, hễ ai hổ thẹn về ta và đạo Ta, thì Con Người sẽ hổ thẹn về kẻ ấy, khi ngự trong sự vinh hiển của Cha Ngài mà đến với các thiên sứ thánh” (Mác 8:34-38) Gọi là “Truyền Giáo Tự Giác” để nhấn mạnh tính chất kế hoạch hóa của phương thức truyền giáo này, cho dầu đó là nổ lực của một cá nhân, nhiều cá nhân, hay của cả cộng đồng Hội Thánh, Cơ Quan,… “Truyền Giáo Tự Giác” có thể có qui mô từ rất nhỏ (một cá nhân dành cho một cá nhân, “one on one”) cho đến rất lớn (nổ lực truyền giáo của nhà truyền giáo dành cho một quốc gia, một lục địa,…). Đặc điểm của phương thức này ở chỗ phận sự truyền giáo, nhu cần truyền giáo, và phương thức truyền giáo được nhận thức và lên kế hoạch minh bạch. Theo bản chất, “Truyền Giáo Tự Giác” không những mang tính chất “tổ chức” như vừa kể mà còn mang tính chất “tấn công” và “cách mạng” nữa. “Truyền Giáo Tự Giác” chấp nhận giá phải trả cho việc tranh đoạt linh hồn tội nhân về cho Đức Chúa Trời, và trong suốt trong sứ điệp Tin Lành của mình là điều vốn mang tính chất thay đổi toàn bộ hệ thống thế gian (world system, Sv. Êph. 6:12) (2) Phân Loại Trên Phương Diện Hình Thức Về hình thức của các phương thức truyền giáo, có một sự đa dạng phong phú (mà cũng có thể là phức tạp) trong xã hội ngày nay. Hiệu quả phổ biến và phi thường của các phương tiện truyền thông đại chúng giúp cho người ta dễ dàng đến gần với nhau và cũng từ đó mà dễ dàng thỏa hiệp. Khi không giữ được thái độ hợp Kinh Thánh của tấm lòng (Sv. 1Cô. 7:31) để theo đuổi kỹ thuật, dầu là kỹ thuật truyền giáo, nguy cơ về việc Hội Thánh thỏa hiệp với thế gian là có thật. Mỗi hình thức của các phương thức truyền giáo đều có những điểm mạnh và yếu riêng. Tùy trên đặc điểm của mỗi Hội Thánh, một phương thức đắc dụng ở Hội Thánh này có thể không thể được chọn lựa tại một Hội Thánh kế cận. Những vấn đề như “phương thức nào”, “lúc nào”, “như thế nào”,… luôn luôn phải là những tiêu chí để tra xét để chọn lựa các phương thức truyền giáo. Một số phương thức truyền giáo phổ biến (cũng còn được gọi là “truyền giảng”) có thể được kể đến như sau. 1. Truyền Giảng Thường Kỳ (Evangelistic Preaching) Cũng còn được gọi là “Truyền Giảng Định Kỳ”, nói về những buổi truyền giảng đã được lên kế hoạch theo lịch trình sinh hoạt hàng tháng của Hội Thánh. Đây là những buổi truyền giảng từ bục giảng của Hội Thánh, thuộc loại hình “Truyền Giáo Chính Thống” đã được đề cập ở trên. 2. Truyền Giảng Cập Kỳ (Mass Evangelism) Cũng còn được gọi là “Truyền Giảng Bất Thường”. Khi gặp điều kiện thuận lợi, một hoặc nhiều Hội Thánh có thể liên kết để tổ chức các buổi truyền giảng bất thường được tổ chức ngoài trời, có số đông người tham dự. “Truyền Giảng Bất Thường” thường được tổ chức như những cơ hội truyền giáo đặc biệt theo các sự kiện đặc biệt hàng năm. Phương thức truyền giảng này thuộc loại hình “Truyền Giáo Tự Giác” và có thể diễn ra theo cách đơn lập, liên kết, hay hợp tác, hỗ trợ,… 3. Truyền Giảng Chiến Dịch (Church Evangelistic Crusades) Phương thức truyền giáo này cũng là một biến tướng của loại hình “Truyền Giáo Tự Giác” để đáp ứng với một nhu cần thực tiễn nào đó. “Truyền Giảng Chiến Dịch” có thể vừa diễn ra bên trong Hội Thánh vừa diễn ra bên ngoài cộng đồng dân cư, bằng nhiều buổi truyền giảng liên tiếp nhau trong một khoảng thời gian nhất định. 4. Cá Nhân Chứng Đạo (Personal Evangelism) Phương thức “Cá Nhân Chứng Đạo” có thể thuộc loại hình “Truyền Giáo Tự Phát” mà cũng có thể thuộc loại hình “Truyền Giáo Tự Giác”; là như thế nào thì còn tùy ở tính chất tổ chức cụ thể. Hội Thánh không thể để thiếu phương thức truyền giáo này được. Cuộc tranh đoạt linh hồn tội nhân về cho Đức Chúa Trời là một bộ phận của trận chiến thuộc linh trên qui mô toàn cầu với tầm nhìn mạt thế mà mọi thực thể thuộc linh Cơ Đốc phải dự phần (Sv. Ma. 24:11; 28:18-20). “Cá Nhân Chứng Đạo” phải trở thành nếp sống của mọi Cơ Đốc Nhân bất kể mức sống của họ ra sao (Sv. 1Cô. 9:16). 5. Khuyến Giáo (Evangelistic Counseling) “Khuyến Giáo” nói về mọi hình thức khuyên bảo theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh đối với người chưa tin. Phương thức truyền giáo này thuộc loại hình “Truyền Giáo Tự Phát” hay “Truyền Giáo Tự Giác” là tùy vào việc nó đã được diễn ra như thế nào. “Khuyến Giáo” là một phương thức hoạt động đắc dụng cho việc truyền giáo và giúp thấy được các Cơ Đốc Nhân sống yêu thương ra sao (Mác 12:30-31). 6. Truyền Giảng Trong Trường Chúa Nhật (Sunday School Evangelism) “Truyền Giảng Trong Trường Chúa Nhật” là phương thức truyền giáo với các lớp Kinh Thánh thuộc hệ thống Trường Chúa Nhật của Hội Thánh. Việc dạy Kinh Thánh theo phương hướng truyền giáo trong các lớp học này tỏ ra rất hiệu quả trong việc giúp cho các học viên trước tuổi thanh niên, và ngay cả các thân hữu chưa tiếp nhận Chúa của họ, nhận thức được nhu cần cá nhân về sự cứu rỗi, ăn năn tội và tiếp nhận Đức Chúa Jêsus làm Chúa và Cứu Chúa của đời sống mình. Phương thức truyền giáo này thuộc hình thái “Truyền Giáo Tự Giác”. 7. Truyền Giảng Trong Các Nhóm Học Kinh Thánh (Evangelistic Bible Study) “Truyền Giảng Trong Các Nhóm Học Kinh Thánh” cũng là một hình thái “Truyền Giáo Tự Giác”. Với phương thức này học viên trước tuổi thanh niên cùng với các thân hữu của họ sẽ được giới thiệu về Tin Lành cứu rỗi trong Đức Chúa Jêsus Christ và sẽ tiếp nhận Ngài làm Chúa và Cứu Chúa của đời sống mình. 8. Truyền Giảng Bằng Sinh Hoạt Đề Tài (Inquirers Study Groups) Đây cũng là một phương thức thuộc hình thái “Truyền Giáo Tự Giác” qua sinh hoạt thảo luận về các đề tài được các đối tượng quan tâm. Phương thức “Truyền Giảng Bằng Sinh Hoạt Đề Tài” sẽ không chú trọng vào việc rao ra sứ điệp Tin Lành cách tỏ tường mà chú trọng vào việc thể hiện phong cách Tin Lành ưu việt của thế giới Cơ Đốc khiến tạo ấn tượng sâu sắc trên các đối tượng tham dự, mở ra cơ hội để có thể tiếp tục chinh phục họ cho Đức Chúa Trời bằng các phương thức truyền giáo thích hợp và thỏa đáng khác. 9. Truyền Giảng Bằng Sinh Hoạt Giao Lưu (Entertainment) “Truyền Giảng Bằng Sinh Hoạt Giao Lưu” mà chủ yếu là các hình thức giao lưu văn hóa với các đối tượng trong cộng đồng là một hình thái “Truyền Giáo Tự Giác” để qua đó các đối tượng tham dự, và cả cộng đồng nữa, có được ấn tượng tốt đối với Tin Lành và Cơ Đốc Nhân, mở ra cơ hội để có thể tiếp tục chinh phục họ cho Đức Chúa Trời bằng các phương thức truyền giáo thích hợp và thỏa đáng khác. 10. Truyền Giáo Bằng Văn Hóa Phẩm Cơ Đốc (Literature Evangelism) “Truyền Giáo Bằng Văn Hóa Phẩm Cơ Đốc” thuộc hình thái “Truyền Giáo Tự Giác”, là một nổ lực giới thiệu Tin Lành cho người chưa tin bằng văn phẩm mà chủ yếu là ấn phẩm. Phương thức truyền giáo này cần được thực hiện phối hợp với phương thức “Cá Nhân Chứng Đạo” và các phương thức khác nữa mới có hiệu quả cao được. 2. Chiến Lược Truyền Giáo Trong thực tiễn Hội Thánh, khái niệm “chiến lược truyền giáo” (evangelism strategy) ít khi được đề cập đến một cách có cân nhắc, và điều đó đã trở nên bất lợi cho sự lành mạnh của Hội Thánh. Một chiến lược truyền giáo giúp trình bày sứ điệp Tin Lành hợp Kinh Thánh hoàn toàn khác với một chiến lược truyền giáo không giúp trình bày sứ điệp Tin Lành hợp Kinh Thánh khiến vẽ ra “một Jêsus khác”, tạo nên “một Thánh Linh khác”, đem lại “một Tin Lành khác” (Sv. 2Cô. 11:4). Chiến lược truyền giáo nói về cách nhận thức Tin Lành của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ theo sự khải thị của Kinh Thánh. Xuất phát từ cùng một Kinh Thánh, cùng một Tin Lành cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ, cùng một Đức Chúa Trời nhưng không phải tất cả mọi người đều nhìn nhận các phạm trù ấy cùng một cách giống nhau. Có thể nêu ra hai cách nhìn nhận khác nhau như hiện có trong thực tiễn truyền giáo của Hội Thánh: (1) Chiến Lược Truyền Giáo Theo Truyền Thống: “Truyền Giáo Theo Chương Trình” (Programmatic Evangelism) Cách nhìn nhận truyền thống về Tin Lành cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ về đại thể nhấn mạnh trên các vấn đề giáo lý thuộc các phạm trù giáo lý Kinh Thánh sau đây trong hoạt động truyền giáo của Hội Thánh: (i) Giáo lý Kinh Thánh về Kinh Thánh (“Thánh Kinh Luận”, Bibliology) (ii) Giáo lý Kinh Thánh về Đức Chúa Trời (“Thượng Đế Luận”, Theology Proper) (iii) Giáo lý Kinh Thánh về nhân loại và về tội lỗi của con người (“Tội Luận”, Hamartiology) (iv) Giáo lý Kinh Thánh về sự cứu rỗi trong Đức Chúa Jêsus Christ (“Cứu Thục Luận”, Soteriology) (v) Giáo lý Kinh Thánh về Chúa Cứu Thế Jêsus (“Cứu Thế Luận”, Christology) (vi) Giáo lý Kinh Thánh về đời sống tăng trưởng (“Tăng Trưởng Luận”, Zoeology) (vii) Giáo lý Kinh Thánh về Đức Thánh Linh (“Thánh Linh Luận”, Pneumatology) (viii) Giáo lý Kinh Thánh về Hội Thánh (“Hội Thánh Luận”, Ecclesiology) (ix) Giáo lý về các việc đời sau (“Lai thế Luận”, Eschatology) Tất nhiên, chiến lược truyền giáo truyền thống đề cập và tôn trọng một cách nghiêm túc đến mọi giáo lý Kinh Thánh có liên quan trong hoạt động truyền giáo của mình và các giáo lý Kinh Thánh nêu trên chỉ là những phạm vi giáo lý thường được đề cập nhất để giúp rao ra sứ điệp Tin Lành hợp Kinh Thánh. (2) Chiến Lược Truyền Giáo Theo John Wimber: “Truyền Giáo Quyền năng” (Power Evangelism). Trong hoạt động truyền giáo của mình, John Wimber và những người theo John Wimber từ trước đến nay đều nhấn mạnh trên một số điểm “giáo lý” nhất định để rao giảng “tin lành”: (i) Hết sức nhấn mạnh tính đối kháng giữa Đức Chúa Jêsus Christ và Satan trong khi Ngài thi hành chức vụ mình trên thế gian. (ii) Đòi hỏi người ta ngày nay phải cố công, gắng sức bắt chước Đức Chúa Jêsus và các vị Sứ Đồ dưới thời của Ngài (trong những việc mà John Wimber muốn người ta phải bắt chước). (iii) Sử dụng Ma. 10 như cơ sở lý luận bao quát cho giáo lý sai phái trên tất cả những người hầu việc Đức Chúa Trời ngày nay (và lấy Ma 28:18-20 làm chứng văn cho lập luận này). (iv) Lấy các ân tứ mang tính chất dấu hiệu (sign gifts) dưới thời Công Vụ Các Sứ Đồ làm thước đo và mục đích theo đuổi cho sự “tăng trưởng thuộc linh”. (v) Dạy rằng Đức Chúa Trời ban ân tứ chữa lành “để các thánh đồ được trọn vẹn về công việc của chức dịch và sự gây dựng thân thể Đấng Christ” (Êph. 4:12). (vi) Dạy rằng việc mắc bệnh tật, gặp hoạn nạn,… là bằng chứng của đời sống bị rủa sả. (vii) Dạy rằng Đức Chúa Trời hứa phước hạnh, lành mạnh, thịnh vượng cho người được cứu. Nhìn chung, cách mà John Wimber nhìn nhận về truyền giáo, chữa lành, Hội Thánh, trận chiến thuộc linh (và hầu như tất cả mọi sự khác trong Kinh Thánh) đều xoay quanh trên cách mà Wimber hiểu về Vương Quốc Đức Chúa Trời, và (rủi thay) có không ít người Tin Lành vốn có lập trường chính thống cũng vui vẻ chấp nhận. Chịu ảnh hưởng của George Eldon Ladd, Wimber tin tưởng rằng Vương Quốc Đức Chúa Trời đang ló dạng ở phía chân trời và đang tranh chiến với Quỉ quốc của Satan. Chúng ta sẽ được ở trong sự đắc thắng khải hoàn của Vương Quốc nhờ vào công nghiệp then chốt mà Đức Chúa Jêsus Christ đã hoàn thành tại thập tự giá. Tuy nhiên, trong thời gian từ nay cho đến ngày ấy, mọi tín hữu đều có phận sự phải tích cực dự phần vào cuộc tranh chiến để dẫn đến sự đắc thắng của Vương Quốc, phải luôn nhận thức được rằng mình đang ở trong thế trận sinh tử (hoặc mất, hoặc còn) với quỉ quốc của Satan. Theo Wimber, chính vì cuộc chiến với Satan là một phần thiết yếu để Vương Quốc Đức Chúa Trời được đến mà “dấu kỳ, phép lạ” phải hiện diện. Ngày xưa, “dấu kỳ, phép lạ” chứng thực cho Đức Chúa Jêsus và các Sứ Đồ của Ngài, ngày nay “dấu kỳ, phép lạ” vẫn còn cần thiết cho sự bày tỏ Vương Quốc và quyền năng trong Vương Quốc. Cũng chính vì một tính chất tương tự như vậy mà “dấu kỳ, phép lạ” đảm nhiệm luôn vai trò biện giáo (apologetic function) cho “tin lành”, và việc tạo ra sự biến cải niềm tin (conversion) của người chưa tin trong hoạt động truyền giáo của Hội Thánh hiện nay phải được “dấu kỳ, phép lạ” cặp theo (bao gồm cả việc đuổi quỉ, chữa lành, và nói tiên tri). Theo Wimber, “dấu kỳ, phép lạ” là tất yếu trong truyền giáo hiện nay để đáp ứng yêu cầu của cuộc tranh chiến giữa Vương Quốc của Đức Chúa Trời và quỉ quốc của Satan, “dấu kỳ, phép lạ” phải là qui chuẩn cho hoạt động truyền giáo. Luận đề trung tâm trong tư tưởng của John Wimber là: Nếu chúng ta muốn Hội Thánh có được sự tăng trưởng triệt để, chúng ta phải làm y như Đức Chúa Jêsus đã từng làm (và Đức Chúa Jêsus đã trao quyền ấy cho Hội Thánh qua sự trung gian của các Sứ Đồ Ngài, với quyền phép của Đức Thánh Linh cặp theo). Chính đây là luận đề xuyên suốt của “Power Evangelism” (“Truyền Giáo Quyền Năng”) của John Wimber mà ngày nay đã trở thành tư tưởng truyền giáo chiến lược của nhiều phong trào “long trời, lở đất” rất đáng cho chúng ta cẩn thận tìm hiểu, nhận xét, và phân biệt (Sv. 1Tê. 5:22; Ma. 7:13-14; 1Vua. 19:1-2; 2Cô. 11:14). Mặc dầu chúng ta có phận sự giữ mình (2Ti. 2:23-26) nhưng phận sự giữ Đạo của chúng ta là một phận sự nghiêm túc được qui định bởi thẩm quyền Thiên Thượng (Giu. 1:3b, 22-23; Tít 2:1; 2Ti. 2:15). Vì vậy, chúng ta không được phép làm ngơ một sự thật là tại trung tâm của sự giảng dạy của John Wimber nổi lên một sự khác biệt đối với các lẽ thật Cơ Đốc căn bản. Nói một cách vắn tắt, sự giảng dạy của Wimber làm tổn hại đến các chủ đề giáo lý Kinh Thánh quan trọng như sự khải thị và sự thần cảm Thiên Thượng, sự tể trị Thiên Thượng tối cao, vai trò và chức năng thật sự của hoạt động chứng đạo Cơ Đốc,… John Wimber thật sự là một nhà cải cách, nhưng điều đó không bảo đảm rằng Wimber là một nhà cải cách thực sự. Các nhà cải cách thực sự tạo ra các chuyển biến tích cực đích thực (Vd., John Wesley, Martin Luther, John Calvin,…) nhưng các nhà ngụy cải cách, giả giáo sư phải được xem là sự thách thức để hoàn thiện nổ lực biện giáo của Hội Thánh. John Wimber công khai đòi hỏi Hội Thánh phải từ bỏ lập trường truyền thống về chiến lược truyền giáo (“Truyền Giáo Theo Chương Trình”) để theo chiến lược “Truyền Giáo Quyền Năng”. Người ta có thể khâm phục sự nhiệt tình và liều lĩnh của Wimber trong việc theo đuổi “sứ mệnh” của mình, nhưng những điều phi, phản Kinh Thánh trong sự giảng dạy của John Wimber là rành rành, và các giá trị Kinh Thánh chân chính bị xâm hại một cách nguy hiểm và nghiêm trọng khiến cho mọi Cơ Đốc Nhân chân chính không thể nào giữ thái độ làm ngơ, hoặc thỏa hiệp, hoặc đầu hàng được! Thái độ chân chính của mọi Cơ Đốc Nhân chân chính là phải chấp nhận giáo lý Kinh Thánh chân chính không thể khước từ được, đồng thời cũng phải khước từ mọi giáo lý phi, phản Kinh Thánh không thể chấp nhận được. “3Hỡi kẻ rất yêu dấu, vì tôi đã ân cần viết cho anh em về sự cứu rỗi chung của chúng ta, tôi tưởng phải làm điều đó, để khuyên anh em vì đạo mà tranh chiến, là đạo đã truyền cho các thánh một lần đủ rồi. 4Vì có mấy kẻ kia lẻn vào trong vòng chúng ta, là những kẻ bị định đoán phạt từ lâu rồi, kẻ chẳng tin kính đổi ơn Đức Chúa Trời chúng ta ra việc tà ác, chối Đấng Chủ Tể và Chúa Có Một của chúng ta, là Đức Chúa Jêsus Christ… 22Hãy trách phạt những kẻ nầy, là kẻ trù trừ, 23hãy cứu vớt những kẻ kia, rút họ ra khỏi lửa; còn đối với kẻ khác, hãy có lòng thương lẫn với sợ, ghét cả đến cái áo bị xác thịt làm ô uế” (Giu. 1:3-4, 22-23) (Rev. Doan Nhat Tan, PhD)
|
Author“Side-By-Side Support Archives
December 2022
Categories |