“ĐỨC CHÚA JÊSUS CHRIST LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI!” (Ma. 16:13-17) “Vậy Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha.” (Gi. 14:6) Có rất ít người nghi vấn về sự thực hữu của Đức Chúa Jêsus. Thường thường người ta đều kể Đức Chúa Jêsus như là một nhân vật có thật ở đất nước Do Thái cách nay khoảng hai ngàn năm. Tuy nhiên, khi bàn sâu vào vấn đề Bản Thể của Đức Chúa Jêsus thì các sự dị biệt về quan điểm mới bắt đầu nổi lên. Hầu hết các tôn giáo đều dạy cho người của họ tin rằng Đức Chúa Jêsus chỉ là một nhà tiên tri, một nhà giáo dục, một con người tốt,… Tuy nhiên, Kinh Thánh dạy cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Jêsus Christ là siêu việt hơn hẳn một nhà tiên tri, một nhà giáo dục, một con người tốt,… “13Khi Đức Chúa Jêsus đã vào địa phận thành Sêsarê Philíp, bèn hỏi môn đồ, mà rằng: Theo lời người ta nói thì Con người là ai? 14Môn đồ thưa rằng: Người nói là Giăng Báptít; kẻ nói là Êli; kẻ khác lại nói là Giêrêmi, hay là một Đấng Tiên Tri nào đó. 15Ngài phán rằng: Còn các ngươi thì xưng ta là ai? 16Simôn Phierơ thưa rằng: Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống. 17Bấy giờ, Đức Chúa Jêsus phán cùng người rằng: Hỡi Simôn, con Giôna, ngươi có phước đó; vì chẳng phải thịt và huyết tỏ cho ngươi biết điều nầy đâu, bèn là Cha Ta ở trên trời vậy” (Ma. 16:13-17) Trong tác phẩm “Mere Christianity” C.S. Lewis đã viết như thế này: “Tất cả những gì tôi phải làm ở đây là ngăn chận cho được mọi sự phát biểu xuẩn ngốc cho rằng chỉ có thể xem Đức Chúa Jêsus là một nhà tiên tri, một nhà giáo dục, một con người tốt,… chứ không thể nào tin rằng Ngài là Đức Chúa Trời. Chúng ta không thể nào chấp nhận một cách nói như thế! Nếu có một người nào vốn chỉ là người mà lại nói được những gì Đức Chúa Jêsus đã nói và làm được những gì Đức Chúa Jêsus đã làm thì người ấy không phải là một nhà tiên tri, một nhà giáo dục, một con người tốt,… mà phải là một kẻ mất trí, hay là một loại ma quỉ, hay là một cái gì đó còn xấu hơn thế”. Vì sao? Ngay trong thời của Đức Chúa Jêsus những người không tin Ngài là hiện thân của Đức Chúa Trời trong nhân trạng đã từng kết luận như vậy: “20Đức Chúa Jêsus cùng môn đồ vào trong một cái nhà; đoàn dân lại nhóm họp tại đó, đến nỗi Ngài và môn đồ không ăn được. 21Những bạn hữu Ngài nghe vậy, bèn đến để cầm giữ Ngài; vì người ta nói Ngài đã mất trí khôn. 22Có các Thầy Thông Giáo ở thành Giêrusalem xuống, nói rằng: Người bị quỉ Bêênxêbun ám, và nhờ phép chúa quỉ mà trừ quỉ. 23Song Đức Chúa Jêsus kêu họ đến, dùng lời thí dụ mà phán rằng: Sao quỉ Satan đuổi được quỉ Satan? 24Nếu một nước tự chia nhau, thì nước ấy không thể còn được; 25Lại nếu một nhà tự chia nhau, thì nhà ấy không thể còn được. 26Vậy, nếu quỉ Satan tự dấy lên nghịch cùng mình, tất nó bị chia xé ra, không thể còn được; song nó đã gần đến cùng rồi. 27Chẳng ai có thể vào nhà một người mạnh sức cướp lấy của người, mà trước hết không trói người lại; phải trói người lại, rồi mới cướp nhà người được. 28Quả thật, ta nói cùng các ngươi, mọi tội lỗi sẽ tha cho con cái loài người, và hết thảy những lời phạm thượng họ sẽ nói ra cũng vậy; 29nhưng ai nói phạm đến Đức Thánh Linh thì chẳng hề được tha, phải mắc tội đời đời. 30Ngài phán như vậy, vì họ nói rằng: Người bị tà ma ám” (Mác 3:20-30) Chuyện tưởng chừng như nhỏ nhưng không phải thế. Ai không chịu tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời thì người ấy mắc tội phạm thượng với Đức Chúa Trời qua việc phạm tội đối với Đức Thánh Linh bằng sự phủ nhận công việc của Ngài (Sv. Ma. 1:18-21; Lu. 1:35; 2:10-11); và chính sự không tin của họ sẽ trở thành rào cản khiến họ không đến được với sự tha tội, không vào được trong sự cứu rỗi, và sẽ cứ mắc kẹt trong án tội đời đời (Sv. Mác 3:29)! Trên vấn đề về Bản Thể của Đức Chúa Jêsus Christ tất cả mọi người trong thế gian chỉ có một chọn lựa đúng là tin rằng Ngài là Đức Chúa Trời để được đến với sự cứu rỗi trong Ngài và qua Ngài. Nếu không tin như thế thì nợ tội, án tội, và ách tội vẫn cứ đeo đẳng trên người ấy cách vĩnh viễn. Tính hệ trọng của sự nhận thức ấy được thấy rõ qua việc Đức Chúa Jêsus Christ đã phải đích thân đặt vấn đề và xác nhậnvới các môn đồ Ngài: “13Khi Đức Chúa Jêsus đã vào địa phận thành Sêsarê Philíp, bèn hỏi môn đồ, mà rằng: Theo lời người ta nói thì Con người là ai? 14Môn đồ thưa rằng: Người nói là Giăng Báptít; kẻ nói là Êli; kẻ khác lại nói là Giêrêmi, hay là một Đấng Tiên Tri nào đó. 15Ngài phán rằng: Còn các ngươi thì xưng ta là ai? 16Simôn Phierơ thưa rằng: Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống. 17Bấy giờ, Đức Chúa Jêsus phán cùng người rằng: Hỡi Simôn, con Giôna, ngươi có phước đó; vì chẳng phải thịt và huyết tỏ cho ngươi biết điều nầy đâu, bèn là Cha Ta ở trên trời vậy” (Ma. 16:13-17; Sv. Mác 8:27-29; Lu. 9:18-20) Đức Chúa Jêsus đã không chỉ khẳng định Ngài cách gián tiếp như vậy, Ngài còn xác nhận trực tiếp hơn khi Ngài phán với những người theo Do Thái Giáo rằng “Ta với Cha là một” (Gi. 10:30). Dầu không phán tỏ tường rằng Ngài chính là Đức Chúa Trời nhưng một sự hàm ý như vậy là hiển nhiên. Những người theo Do Thái Giáo tỏ ra là đã hiểu Ngài… “31Người Giuđa lại lượm đá đặng ném Ngài. 32Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta đã làm trước mắt các ngươi lắm việc lành bởi Cha đến; vì việc chi mà các ngươi ném đá Ta? 33Người Giuđa trả lời rằng: Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá ngươi, nhưng vì lỗi lộng ngôn: Ngươi là người, mà tự xưng là Đức Chúa Trời” (Gi. 10:31-33) Kinh Thánh cho chúng ta thấy đó chẳng phải là lần duy nhất mà những người theo Do Thái Giáo đã giận hoảng khi họ nghe Đức Chúa Jêsus Christ xưng mình là Đức Chúa Trời: “58Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, trước khi chưa có Ápraham, đã có Ta. 59Bấy giờ chúng lấy đá đặng quăng vào Ngài; nhưng Đức Chúa Jêsus đi lén trong chúng, ra khỏi Đền Thờ” (Gi. 8:58-59) Tổ hợp từ “đã có Ta” (Sv. Gi. 8:58, Gr. γίνομαι ἐγώ εἰμί [ginomai ego eimi]) là một tổ hợp từ tương đương của tổ hợp từ “Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu” (Sv. Xuất. 3:14; Hb. היה היה [hayah hayah]) đã được Đức Chúa Jêsus Christ sử dụng ở đây (Gi. 8:58) để bày tỏ về Thần Tính của Ngài vì chính Ngài là Đức Chúa Trời. Kinh Thánh khẳng định Bản Thể Đức Chúa Trời của Đức Chúa Jêsus Christ bằng một giai điệu tuyệt vời về tính tiền tại đời đời của Ngài: “1Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. 2Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời. 3Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài. 4Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người. 5Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng… 14Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con Một đến từ nơi Cha. 15Giăng làm chứng về Ngài khi kêu lên rằng: Ấy là về Ngài mà ta đã nói Đấng đến sau ta trổi hơn ta, vì Ngài vốn trước ta. 16Vả, bởi sự đầy dẫy của Ngài mà chúng ta đều có nhận được, và ơn càng thêm ơn. 17Vì Luật Pháp đã ban cho bởi Môise, còn ơn và lẽ thật bởi Đức Chúa Jêsus Christ mà đến. 18Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày Cha cho chúng ta biết” (Gi. 1:1-5, 14-18) Bản Thể Thiên Thượng của Đức Chúa Jêsus Christ cũng còn được thấy qua sự suy luận cách tự động của Sứ Đồ Thôma khi ông phải thảng thốt rằng “Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi!” (Sv. Gi. 20:28). Bản Thể Thiên Thượng của Đức Chúa Jêsus Christ cũng còn được thấy qua sự xác định của Sứ Đồ PhaoLô khi nói về Ân Điển của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus rằng “12Ân ấy dạy chúng ta chừa bỏ sự không tin kính và tình dục thế gian, phải sống ở đời nầy theo tiết độ, công bình, nhân đức, 13đương chờ đợi sự trông cậy hạnh phước của chúng ta, và sự hiện ra của sự vinh hiển Đức Chúa Trời Lớn và Cứu Chúa chúng ta, là Đức Chúa Jêsus Christ” (Tít 2:12-13). Bản Thể Thiên Thượng của Đức Chúa Jêsus Christ cũng còn được thấy qua sự khẳng định về chức phận mình của Sứ Đồ Phierơ cách long trọng rằng “Simôn Phierơ, làm tôi tớ và Sứ Đồ của Đức Chúa Jêsus Christ, gởi cho những kẻ cậy sự công bình của Đức Chúa Trời chúng ta và của Cứu Chúa là Đức Chúa Jêsus Christ” (2Phi. 1:1). Tất cả những điều ấy đã được chính Tiên Tri Êsai nói tiên tri nhiều trăm năm trước kỳ nhập thể của Đức Chúa Jêsus: “5Vì có một Con Trẻ sanh cho chúng ta, tức là một Con Trai ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài. Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ Lùng, là Đấng Mưu Luận, là Đức Chúa Trời Quyền Năng, là Cha Đời Đời, là Chúa Bình An. 6Quyền cai trị và sự bình an của Ngài cứ thêm mãi không thôi, ở trên ngôi Đavít và trên nước Ngài, đặng làm cho nước bền vững, và lập lên trong sự chánh trực công bình, từ nay cho đến đời đời. Thật, lòng sốt sắng của Đức Giêhôva vạn quân sẽ làm nên sự ấy!” (Ês. 9:5-6) Vì sao vấn đề về vấn đề Bản Thể của Đức Chúa Jêsus lại là một vấn đề quan trọng? Lý do hàng đầu là nếu Ngài chẳng phải là Đức Chúa Trời thì việc chịu chết của Ngài trên Thập Tự Giá không có tác dụng đền tội thay (Sv. 1Gi. 2:2) vì chỉ duy nhất Đức Chúa Trời mới là Đấng có thể hoàn thành một công trình như thế (Sv. Rô. 5:8; 2Cô. 5:21). Đức Chúa Jêsus phải là Đức Chúa Trời chúng ta mới được cứu ra khỏi tội, mới được đem vào sự sống đời đời và vào cuộc hạnh ngộ với Đức Chúa Trời… “Vậy Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha” (Gi. 14:6) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“HÃY CHUẨN BỊ CHO THIÊN ĐÀNG!” (Gi. 14:1-3) “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa.” (Gi. 14:1) Cuộc sống trên thế gian luôn khiến chúng ta phải lo toan và lắm khi phải bối rối vì hầu như mọi sự đều khó khăn và bất định. Chính từ một sự kinh nghiệm cuộc sống như thế mà nhận thức và thái độ của người tín hữu đã bị sai lệch khá nhiều so với ý định và chương trình hoàn hảo của Đức Chúa Trời dành cho họ. Đức Chúa Trời không muốn chúng ta bối rối mà hãy cứ nương cậy Ngài. Nếu chúng ta thực sự đặt niềm tin Đức Chúa Jêsus, chúng ta phải biết rằng Thiên Đàng là có thật và dành sẵn cho chúng ta, đồng thời cũng phải biết chuẩn bị cho mình những gì tương thích với sự chuẩn bị của Ngài ở Thiên Đàng cho chúng ta. I. THIÊN ĐÀNG CÓ THẬT VÀ DÀNH SẴN CHO CHÚNG TA Thiên Đàng là có thật vì từ muôn thuở, linh hồn con người luôn luôn biết hoài vọng về một nơi như thế. Bất cứ nền văn hóa nào trên thế gian này, bất cứ thời điểm lịch sử nào của xã hội chúng ta cũng đều có thể tìm thấy được niềm tin của con người vào một cuộc sống phước hạnh cho đời sau. Chúng ta không thể nào tin được rằng Đức Chúa Trời đã gieo vào linh hồn con người một hoài vọng phổ quát như thế mà Ngài lại không sắm sẵn cho họ thực tại ấy. Thật vậy, Đức Chúa Trời phán qua Lời Kinh Thánh cho biết rằng có một nơi như thế: “2Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở; bằng chẳng vậy, Ta đã nói cho các ngươi rồi. Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. 3Khi Ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó” (Gi. 14:2-3) Đức Chúa Jêsus đã có lời hứa về Thiên Đàng cho những kẻ tin Ngài. Nếu là Cơ Đốc Nhân chân thực, chúng ta phải vui mừng về việc tên mình đã được ghi trên Thiên Đàng: “…Hãy mừng vì tên các ngươi đã ghi trên Thiên Đàng” (Lu. 10:20b) Theo Sứ Đồ Phaolô, Đức Chúa Jêsus đang ngự Ngôi oai nghiêm trên Thiên Đàng cùng với Đức Chúa Cha: “Ngài…khiến Đấng Christ từ kẻ chết sống lại và làm cho ngồi bên hữu mình tại các nơi trên trời” (Êph. 1:20) Và Sứ Đồ Phaolô cho biết rằng Thiên Đàng chính là nhà ở trong tương lai của các tín hữu: “1Vả, chúng ta biết rằng nếu nhà tạm của chúng ta dưới đất đổ nát, thì chúng ta lại có nhà đời đời tại trên trời, bởi Đức Chúa Trời, không phải bởi tay người làm ra. 2Vì chúng ta thật than thở trong nhà tạm nầy, mà hết sức mong được mặc lấy nhà chúng ta từ trên trời” (2Cô. 5:1-2) Thiên Đàng là chắc chắn, đó là nơi cho tương lai vinh hiển của người tín hữu (Côl. 1:27). Phaolô cũng cho chúng ta biết rằng việc Đức Thánh Linh đang ở cùng trong đời sống người tín hữu, trên một phương diện, là một sự bảo đảm cho tương lai vinh hiển ấy: “Đấng đã gây dựng cho chúng ta được sự ấy, ấy là Đức Chúa Trời, đã ban của tin của Đức Thánh Linh cho chúng ta” (2Cô. 5:5) Sứ Đồ Phierơ khẳng định rằng Thiên Đàng “1Là cơ nghiệp không hư đi, không ô uế, không suy tàn, để dành trong các từng trời cho anh em, 2là kẻ bởi đức tin nhờ quyền phép của Đức Chúa Trời giữ cho, để được sự cứu rỗi gần hiện ra trong kỳ sau rốt” (1Phi. 1:4-5) Từ liệu Thiên Đàng (Hb. shamayim; Gk. ouranos) xuất hiện trong Sách Khải Huyền nhiều hơn bất cứ Sách nào khác trong Kinh Thánh. Phân đoạn Kinh Thánh đề cập đến Thiên Đàng rõ nét hơn hết là Khải. 21:1-22:5. Theo đoạn văn Kinh Thánh này, Thiên Đàng được tả vẽ qua ba hình ảnh: [1] Đền Tạm (Khải. 21:1-8); [2] Thành Thánh (Khải. 21:9-27); và là [3] Vườn (Khải. 22:1-5). “Đền Tạm” là hình ảnh mô tả Thiên Đàng theo góc độ mối tương giao hoàn hảo giữa người tín hữu với Đức Chúa Trời. Biểu trưng “Thành Thánh” nhằm cho biết đời sống trên Thiên Đàng là một sự bảo an hoàn toàn. Hình ảnh “Vườn” chỉ cho thấy đời sống trên Thiên Đàng là một sự cung ứng trọn vẹn cho những ai đã từng hết lòng sống nương cậy Đức Chúa Trời. Có một người kia, khi biết không thể sống lâu hơn nữa được, đã cầu xin Đức Chúa Trời ban cho mình một đặc ân là được đem về Thiên Đàng một ít trong số những gì ông có được và quí nhất. Được Đức Chúa Trời cho phép, ông đã suy nghĩ và cuối cùng quyết định đến khi qua đời sẽ mang theo về Thiên Đàng chỉ một vali nhỏ vàng thỏi mà thôi. Đến ngày qua đời, người này đã hết sức vất vả trên đường về Thiên Đàng vì chiếc vali vàng dầu nhỏ là thế nhưng cũng vẫn quá nặng. Đã thế, đến cổng Thiên Đàng, Thiên Sứ giữ cửa ngăn ông lại, không cho đem chiếc vali đựng vàng vào bên trong. Người này đã phải nói cho Thiên Sứ biết rằng ông đã được phép đặc biệt của Đức Chúa Trời để mang theo chiếc vali này; vì thế, Thiên Sứ thôi không ngăn lại nữa mà để cho người ấy kéo lê chiếc vali đầy vàng thỏi của mình vào Thiên Đàng… Qua khỏi cổng Thiên Đàng, người này thật hết sức bất ngờ và ngỡ ngàng: Vật liệu kiến trúc trong Thiên Đàng chỉ toàn bằng ngọc quí và vàng khối! Ngay cả trên con đường dẫn vào Thành Thánh mà ông đang đi, những khối vàng lát mặt đường còn tinh ròng và đẹp hơn những thỏi vàng trong chiếc vali mà ông đã vất vả lắm mới mang lên được đến đây! Thiên Đàng có một cấu hình như thế thì người tín hữu cần phải chuẩn bị những gì cho tương thích với Thiên Đàng? Chúng ta cần phải sống như thế nào để rồi Thiên Đàng sẽ là chỗ ở tiếp theo của chúng ta? II. PHẢI CHUẨN BỊ CHO THIÊN ĐÀNG “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa” (Gi. 14:1) Đây là lời Đức Chúa Jêsus kêu gọi các môn đồ của Ngài hãy tin cậy Đức Chúa Trời trong mọi cảnh ngộ của cuộc đời này. Đức Chúa Jêsus biết Ngài sắp sửa chịu đóng đinh trên Thập Tự Giá và họ sẽ bị tản lạc. Đức Chúa Jêsus truyền cho họ hãy cứ giữ vững lòng tin vì Đức Chúa Trời đã có chương trình hoàn hảo cho những ai nương cậy Ngài. Tin cậy Đức Chúa Trời có nghĩa là vẫn cứ nương cậy nơi thuộc tính của Ngài bất chấp việc xảy ra là gì và xảy ra như thế nào: “Vả, đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đương trông mong, là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy” (Hê. 11:1) Tin cậy Đức Chúa Trời một cách đúng nghĩa vốn đi ngược lại với bản chất tự nhiên của chúng ta. Tin cậy Đức Chúa Trời có nghĩa là chúng ta thừa nhận rằng mình sẽ thôi không còn là chủ nhân ông của đời sống mình nữa, mà là nhường địa vị ấy lại cho Ngài. Trong cuộc sống đời thường, chúng ta vẫn thường phải đặt niềm tin vào một việc gì hoặc một ai đó. Chúng ta tin rằng chiếc xe máy mà chúng ta đi sẽ an toàn chứ không phải ở trong tâm trạng hồi hộp, lo rằng nó có thể đổ sập xuống, rã rời ra từng mảnh vào bất cứ lúc nào. Chúng ta làm việc và tin rằng sẽ được trả lương chứ không ai có thể làm việc bình thường trong tâm trạng nơm nớp lo rằng mình sẽ không được trả lương. Chúng ta đi khám Bác Sĩ và uống thuốc theo đơn Bác Sĩ cho vì tin rằng sẽ được lành bệnh; chẳng ai chịu mất công đi khám, chịu tốn tiền, và uống thuốc mà lại không tin rằng sẽ có được kết quả mong muốn. Người đặt niềm tin nơi Đức Chúa Trời phải tin rằng cuối cùng mình sẽ có một cuộc sống phước hạnh đời đời trong Thiên Đàng. Tin Chúa mà không hề có sự hy vọng về Thiên Đàng, ngược lại chỉ có được một số trông cậy nào đó trong đời này mà thôi thì thật là “vô phước”: “Nếu chúng ta chỉ có sự trông cậy trong Đấng Christ về đời nầy mà thôi, thì trong cả mọi người, chúng ta là kẻ khốn nạn hơn hết” (1Cô. 15:19) Để có thể trải qua cuộc hành hương trên đời tạm này mà không lạc mất phương hướng, người tín hữu phải hoàn toàn tin cậy nơi Đức Chúa Trời. Khi chúng ta cảm thấy yếu mỏn, Đức Chúa Trời là sức lực của chúng ta. Khi chúng ta bị đặt dưới sức ép của cuộc sống, Đức Chúa Trời là sự vơi nhẹ cho chúng ta. Khi chúng ta cần có sự bảo an, Đức Chúa Trời là nơi trú ẩn của chúng ta. Mọi nguồn lực của Đức Chúa Trời sẽ sẵn sàng cho chúng ta sử dụng nếu chúng ta biết đặt niềm tin của mình nơi chính Ngài: “Hãy hết lòng tin cậy Đức Giêhôva,_Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con;_Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài,_Thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con” (Châm. 3:5-6) Không thể nói được rằng mình là người tin cậy Đức Chúa Trời mà lại chưa có Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình, vì không hề có bất cứ phương tiện nào để đến với Đức Chúa Trời mà lại ở ngoài Đức Chúa Jêsus: “5Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người; 6Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người…” (1Ti. 2:5-6a) Nếu không đặt niềm tin của mình nơi Đức Chúa Trời, chúng ta không thể có con đường để tiếp nhận quyền năng, sự thương xót, và tình yêu thương của Ngài. Nếu không đặt niềm tin của mình nơi Đức Chúa Trời, khi sự thử thách đến, chúng ta sẽ thấy quá khó khăn. Thế nên, chúng ta phải biết đặt niềm tin của mình nơi Đức Chúa Trời. Vấn đề cơ bản, và là xuất phát điểm, của tiến trình về Thiên Đàng là việc đặt niềm tin nơi Đức Chúa Trời qua và trong Chúa Cứu Thế Jêsus, Ngài phán: “Ta là Đường Đi, Lẽ Thật, và Sự Sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha” (Gi. 14:6) Thật ra, khi phán rằng “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa” (C. 1), Đức Chúa Jêsus Christ muốn đặt ra một câu hỏi chung cho tất cả mọi người… Đối với những ai chưa nhận được Sự Cứu Rỗi trong Ngài, vẫn còn quằn quại dưới gánh nặng của tội lỗi, Ngài mời gọi: “28Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. 29Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của Ta, và học theo Ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. 30Vì ách Ta dễ chịu và gánh Ta nhẹ nhàng” (Ma. 11:28-30) Đối với những ai đã nhận rằng mình là người tin Chúa, Ngài muốn họ bày tỏ đức tin ấy ra cho mọi người thấy qua đời sống, vì “…Theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở” (2Phi. 3:13). Đời sống Cơ Đốc thực hành của Cơ Đốc Nhân phải được bày tỏ: “Sự tin đạo thanh sạch không vết, trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, là: Thăm viếng kẻ mồ côi, người góa bụa trong cơn khốn khó của họ, và giữ lấy mình cho khỏi sự ô uế của thế gian” (Gia. 1:27) Đức Chúa Jêsus phán rằng “Khi Ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó” (Gi. 14:3). Một khi Đức Chúa Jêsus đã phán như thế thì có nghĩa là của cải của chúng ta là tình yêu thương của Đức Chúa Trời là Đấng Yêu Thương. Của cải của chúng ta là Ân Điển và sự bình an từ nơi Đức Chúa Trời của Sự Yên Ủi. Của cải của chúng ta là sự bảo an từ nơi Đức Chúa Trời là Đấng đời đời bất biến. Của cải của chúng ta là sự gìn giữ và cung ứng từ nơi Đức Chúa Trời là Đấng quyền năng. Của cải của chúng ta là sự tán thưởng từ nơi Đức Chúa Trời là Đấng toàn tri. Của cải của chúng ta là sự sống đời đời từ nơi Đức Chúa Trời là Đấng đã phó Con Một của Ngài cho chúng ta có được tất cả mọi sự. Đức Chúa Trời đang đợi chúng ta đáp ứng thuận theo sự dạy dỗ và kêu gọi này của Ngài, sống tin quyết và nương cậy Ngài trong mọi sự, biết chắc Thiên Đàng dành sẵn cho chúng ta và chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho Thiên Đàng. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“NGÀY SABÁT BUỒN QUA RỒI!” (Mác 16:1-8) “Là Đấng Sống, Ta đã chết, kìa nay Ta sống đời đời, cầm chìa khóa của sự chết và Âm Phủ.” (Khải. 1:18) Kể từ ngày Sabát được thiết lập (Sv. Sáng. 2:2-3), chưa hề có ngày Sabát nào u buồn cho bằng ngày Sabát được nhắc đến ở Mác 15:42-47. Nhưng ngay từ lời đầu tiên của đoạn Kinh Thánh này chúng ta đã biết rằng “ngày Sabát đã qua!” (“Khi đã chiều tối…”). Ngày Sabát ấy - ngày mà Ðức Chúa Jêsus kính yêu của chúng ta bị những kẻ chống đối Ngài toan tính giam hãm Ngài vĩnh viễn trong thạch mộ (Sv. Ma. 27:62-66) - đã vĩnh viễn qua rồi! Đối với Ðức Chúa Jêsus Christ, ngày Sabát ấy là một ngày Sabát mà Ngài được nghỉ ngơi; còn đối với các môn đồ Ngài, đó là một ngày Sabát hoang mang, u buồn đáng sợ - đầy nước mắt và âu lo… Sự thờ phượng trong Đền Thờ ngày Sabát - đối với Ðức Chúa Trời - chưa hề có khi nào đáng gớm ghiếc cho bằng ngày Sabát ấy: Người ta thờ phượng trong Đền Thờ với bàn tay vấy máu mà Thầy Cả Thượng Phẩm đã khiến họ nhúng vào trong việc xử đóng đinh Ðức Chúa Jêsus (Sv. Mác 14:63-64). Dầu vậy, ngày Sabát ấy giờ đây đã qua rồi, và ngày đầu của tuần lễ mới này cũng chính là ngày bắt đầu của một thế giới mới! I. MỘT TÂM TÌNH (C. 1-2) Cuộc viếng mộ của những người nữ (Sv. Lu. 24:10) đã từng chăm chút cho Ðức Chúa Jêsus không phải là một sự mê tín như ngày nay chúng ta thường thấy, đây chính là một cuộc viếng mộ với lòng ái mộ không gì ngăn cản được. Từ nơi nghỉ trọ, họ đã thức dậy rất sớm, có lẽ từ khi mọi người còn đang ngon giấc - để có thể đến nơi sớm và tránh được những ngăn trở có thể có - nên chi họ đã đến được bên thạch mộ từ khi bình minh vừa ló dạng (C. 2). Họ đã mua theo thật nhiều thuốc thơm để có thể không chỉ ướp xác Chúa bằng nước mắt mình mà còn bằng thuốc thơm nữa ( C. 1) - nhất định là thế vì chẳng còn gì khơi dậy cho họ nỗi tiếc thương hơn là khi bước đến bên xác Chúa. Nicôđem đã từng cho mua một số lượng lớn thuốc thơm, một dược, lư hội để ướp cho ráo các vết thương đầm đìa máu trên xác Chúa (Gi. 19:39); thế nhưng những người đàn bà kính yêu Chúa này vẫn thấy như thế là chưa đủ đối với Ngài (Lu. 23:55). Quả thật, sự ngưỡng mộ mà người khác dành cho Ðức Chúa Jêsus dầu có là như thế nào đi nữa thì cũng không thể làm giảm thiểu được lòng ngưỡng mộ của chúng ta (1Cô 15:58). II. MỘT SỰ GIẢI QUYẾT (C. 3-4) Sự lo lắng về việc làm sao mở được cửa mộ quả thật là một mối bận tâm lớn đối với họ. Trong lúc đi đường, họ đã bàn với nhau về điều ấy, và giờ đây, khi đến được trước ngôi thạch mộ, họ lại hỏi nhau một lần nữa: “Ai sẽ lăn hòn đá lấp cửa mộ ra cho chúng ta?” (C. 3). Hòn đá lấp cửa mộ là một hòn đá thực sự lớn, lớn hơn gấp nhiều lần sự hợp lực của họ lại với nhau để lăn đi. Nhất định là họ đã biết chắc về điều ấy (Sv. Ma. 27:59-61), và đã phải suy tính với nhau về những giải pháp khả thi trước khi khởi hành; và việc thấy trước về sự khó khăn không giải quyết nỗi ấy hoàn toàn có thể khiến họ đổi ý thôi đừng đi. Họ cũng còn một khó khăn khác lớn hơn - vì nếu không vì sự khó khăn thứ hai này thì sự khó khăn trước có thể giải quyết được. Đó là làm thế nào để họ có thể qua mặt được tốp lính hung dữ đang canh giữ ngôi thạch mộ hết sức nghiêm nhặt (Sv. Ma. 27:64) mà chỉ cần nhớ đến cung cách bạo tàn của họ trước đấy hai ngày (Sv. Ma. 27:27-31) cũng đủ thấy nản lòng. Thế nhưng với lòng kính yêu dạt dào đối với Chúa, họ đã mạnh dạn tiến bước về hướng thạch mộ bất chấp các khó khăn vốn biết. Diễn tiến của sự việc thật bất ngờ, họ đã không vấp phải cả hai nỗi khó khăn là hòn đá lấp cửa mộ và tốp lính canh mộ. Chẳng những lính canh đã không phát hiện ra và ngăn trở họ, mà hòn đá lớn lấp cửa mộ cũng đã được dời đi (C. 4). Những ai được thúc đẩy bởi một mối nhiệt tâm thánh thiện để tìm kiếm Chúa một cách hết lòng sẽ kinh nghiệm được sự giải quyết một cách lạ thường các trở lực tưởng chừng không vượt qua nỗi, sẽ kinh nghiệm được rằng họ sẽ được phù trợ một cách đặc biệt vượt quá sự mong đợi của mình (Sv. Phil. 4:7). III. MỘT SỰ QUẢ QUYẾT (C. 5-7) Sự quả quyết của thiên sứ rằng Ðức Chúa Jêsus đã phục sinh, đã rời khỏi thạch mộ (C. 6), là một sứ điệp muôn đời để thông báo cho muôn dân được biết về một Cứu Chúa Hằng Sống chứ không phải chỉ dành riêng cho những người nữ tin kính này mà thôi. 1. Sự Chứng Kiến Họ bước vào thạch mộ, và nhận ra rằng xác Chúa đã được đặt ở đây hai đêm trước giờ không còn nữa (C. 6). Ðức Chúa Jêsus Christ, Ðấng bởi sự chết của Ngài mà nợ tội của chúng ta đã được đảm nhận trả thay, giờ đây đã phục sinh. Với sự phục sinh, Ðức Chúa Jêsus đã trang trải xong một sự thanh toán hợp pháp khiến cho một vấn đề từ bao nhiêu đời không giải quyết nỗi giờ đây được đặt một dấu chấm hết nhờ bằng cớ không thể chối cãi được rằng Ngài là Con Ðức Chúa Trời, vì Ngài đã phục sinh. 2. Sự Xác Nhận Họ trông thấy một người nam trẻ tuổi ngồi bên phải thạch mộ (C. 5). Thiên sứ đã xuất hiện trong hình thể của một người nam còn trẻ. Ấy là vì, dầu được tạo dựng từ buổi ban đầu, nhưng các thiên sứ không phải chịu lão hóa mà cứ giữ nguyên trạng thái tốt đẹp, mạnh mẽ hoàn chỉnh vốn có. Đó cũng là trạng thái vinh hiển mà các thánh đồ cũng sẽ có được khi thân thể họ được biến hóa theo thân thể phục sinh vinh hiển của Ðức Chúa Jêsus. Vị thiên sứ này ngồi bên phải thạch mộ khi họ bước vào và “mặc áo dài trắng” là cách phục sức của những người có danh phận cao trọng. Ánh nhìn của vị thiên sứ có thể là một ánh nhìn đầy khích lệ - vì cung cách của họ ở đây là cung cách khích lệ - thế nhưng họ đã khiếp sợ (C. 5). Lắm khi chúng ta cũng rơi vào tình trạng tương tự: Có khi sự an ủi đến, nhưng vì lỗi lầm riêng của mình, chúng ta không vui mừng mà lại khiếp sợ. 3. Sự Trấn An Vị thiên sứ đã trấn an nỗi sợ của những người nữ này rằng đây là điều đáng nên mừng vui chứ không nên khiếp sợ (C. 6). Thiên sứ bảo họ: “Đừng sợ chi!”. Các thiên sứ chẳng những biết vui mừng trong cuộc giao hội với các tội nhân mà còn biết an ủi, khích lệ họ nữa. “Đừng sợ chi” vì: (1) Chúa Cứu Thế Jêsus Đã Chịu Đóng Đinh Để Đem Kẻ Có Tội Về Với Ngài. “Các ngươi tìm Ðức Chúa Jêsus Naxarét, là Ðấng đã chịu đóng đinh…”. Sự tìm cầu của những linh hồn tin nhận là sự tìm cầu về một Cứu Chúa “đã bị đóng đinh” (Sv. 1Cô. 2:2) hầu cho có thể biết được Ngài và thông công với Ngài nhiều hơn. Việc Ngài được treo lên có mục đích là để đem mọi người đến với Ngài (Sv. Gi. 12:32). Thập tự giá của Ðức Chúa Jêsus chính là ngọn cờ hiệu triệu Dân Ngoại đến với Ngài. Cách nói của vị thiên sứ về Ðức Chúa Jêsus là Ðấng chịu đóng đinh với nội dung rằng “Việc ấy giờ đã qua rồi! Mọi người không còn cần phải cứ ấp ủ mãi nỗi buồn bất lực chứng kiến Ngài chịu đóng đinh mà hãy tiếp nhận lấy niềm vui phục sinh của Ngài! Ngài đã chịu đóng đinh trông bộ yếu đuối nhưng Ngài cũng đã phục sinh trong quyền phép vinh hiển, nên chi những ai có lòng tìm kiếm Ngài hãy vui mừng lên!”. Ðức Chúa Jêsus Christ “đã chịu đóng đinh”, nhưng Ngài đang được làm cho vinh hiển. Sự tủi nhục vì cớ Ðức Chúa Jêsus phải chịu đóng đinh giờ đây không còn thích hợp vì như thế sẽ làm giảm sút sự vinh hiển của sự tôn ngôi của Ngài: Sự tôn ngôi của Ðức Chúa Jêsus Christ có tác dụng cất bỏ mọi sỉ nhục đã trải qua. Như vậy, kể từ khi bước vào lại trong sự vinh hiển, không hề còn điều gì là đáng hổ thẹn về thập tự giá cả (Sv. 1Cô. 1:18; Rô. 1:16). Vị thiên sứ phụ trách việc công bố sự phục sinh của Ðức Chúa Jêsus ở đây gọi Ðức Chúa Jêsus là “Ðấng đã chịu đóng đinh”. Chính Ðức Chúa Jêsus đã tự nhận Ngài “Là Ðấng Sống, Ta đã chết, kìa nay Ta sống đời đời, cầm chìa khóa của sự chết và Âm Phủ” và Ngài được tôn vinh giữa các thiên sứ trên Thiên Đàng như là “Chiên Con… đã bị giết” (Khải. 5:6). (2) Chúa Cứu Thế Jêsus Đã Phục Sinh Vinh Hiển. “Ngài sống lại rồi; chẳng còn ở đây…”. Sự công bố này của vị thiên sứ phải là một tin mừng đối với những người nữ đến tìm Chúa, vì thay vì phải xức xác cho Chúa họ có thể đổi buồn làm vui về việc Ngài hiện đang sống (Sv. Ma. 28:8). Ðức Chúa Jêsus không còn ở đây nữa tức Ngài không chỉ là một xác chết bị cố định ở đây, tức là Ngài không còn chết nữa mà đã sống lại (Sv. Lu. 24:5). Dầu rằng bây giờ không thể thấy được Ngài tại ngôi thạch mộ này, thế nhưng sắp tới đây họ sẽ tái ngộ với Ngài (C. 7). Để có thể yên tâm về điều ấy, hãy bước vào xem chỗ đã đặt xác Ngài: Xác Ngài không còn ở đó, Ngài đã phục sinh chứ không phải có ai đã dấu mất xác Ngài như bọn người Pharisi sau đó đã bày đặt ra (Sv. Ma. 28:11-15). 4. Sự Hành Động Vị thiên sứ dặn họ chớ nên chậm trễ trong việc báo tin này cho các môn đồ của Chúa được biết (C. 7). Những người nữ này, vô hình trung, đã đi trước cả các vị Sứ Đồ một bước trong việc chứng kiến từ sự thương khó của Chúa trên thập tự giá (Sv. Gi. 19:25), theo Ngài đến thạch mộ (Sv. Ma. 27:61), và vào cả trong thạch mộ (C. 5) để nhận tin mừng phục sinh của Chúa (C. 6). Thật là một sự đền bù xứng đáng cho lòng kính yêu và trung thành đối với Chúa của họ. Không hề có một môn đồ nào khác dám đến gần nơi này để tìm hiểu về Chúa. Những người tưởng chừng can trường đến nỗi trong đêm có thể dám trộm cả xác Chúa đem đi (Sv. Ma. 27:64) đã không hề có ai dám đến gần Ngài! Chỉ một số ít những người nữ này - ít đến độ không đủ sức lăn được hòn đá lấp cửa mộ - là những người đầu tiên đến nơi nguy hiểm ấy, vì thế họ là những người đầu tiên được đáp ứng. (1) Các Môn Đồ Của Ðức Chúa Jêsus Cần Phải Được Biết Về Tin Mừng Phục Sinh. Họ phải báo cho các môn đồ của Chúa biết rằng Ngài đã phục sinh. Đối với các môn đồ của Chúa, lúc ấy là một thời điểm hết sức buồn thảm (Sv. Lu. 24:17). Người thầy kính yêu của họ đã chết, được đem đặt vào trong thạch mộ khiến cho mọi hy vọng và niềm vui của họ chừng như cũng bị chôn vùi theo đó. Ai nấy tưởng chừng như đại cuộc giờ đây sụp đổ (Sv. Lu. 24:21), họ hầu như trở nên miếng mồi ngon sắp rơi vào tay kẻ thù. Họ không còn chút hy vọng gì, họ hoàn toàn rơi vào thế bí, và buộc thế họ đang phải mạnh ai nấy xoay xở để được sinh tồn (Sv. Ma. 26:31; Mác 14:27). Chính tất cả những điều ấy là lý do cho sự thúc giục “Hãy đi nói…” mà vị thiên sứ truyền ra (Câu 7). Mệnh lệnh gấp rút này cho thấy rằng… [1] Chúa Cứu Thế Jêsus đã không hề hổ thẹn về các môn đồ đáng tội nghiệp của mình. Ngay cả trong trạng thái được tôn cao hậu phục sinh thì mối bận tâm hàng đầu của Ðức Chúa Jêsus vẫn là đem lại sự bình an cho các môn đồ của Ngài. [2] Chúa Cứu Thế Jêsus không hề ghim gút về những sự bất xứng của các môn đồ Ngài. Các môn đồ đã bỏ rơi Chúa một cách tàn nhẫn vì cớ sự yếu đuối của họ, thế nhưng Ngài biết tấm lòng họ vẫn còn trung thực với Ngài, và Ngài đã bày tỏ mối quan tâm đối với họ. [3] Những ai có lòng thương tiếc, ngưỡng vọng Chúa đều sẽ nhận được sự an ủi kịp lúc. Chúa Cứu Thế Jêsus không để cho ai phải vì Ngài mà quằn quại trong quay quắt, sẽ có lúc Ngài tỏ mình cho họ được biết. (2) Báo Cho Phierơ Biết Là Một Điều Cần Thiết (C. 7). Trong trường hợp bình thường, nếu phải đi báo cho các môn đồ biết tin, tất Phierơ cũng sẽ được báo. Thế nhưng vì Phierơ đã chối Chúa, việc nhấn mạnh đích danh đến Phierơ ở đây là một dấu hiệu cho chúng ta thấy rằng Chúa biết Phierơ đã thực sự ăn năn; ông vẫn còn được kể là thuộc trong vòng các môn đồ của Ngài; ông vẫn còn liên kết với các môn đồ khác của Chúa. Phải báo cho Phierơ biết vì… [1] Điều này đối với Phierơ có một ý nghĩa hết sức đặc biệt: Đối với Phierơ, đây thực sự là một tin mừng được đón nhận một cách hết sức hân hoan. Phierơ đang trong tâm trạng buồn khổ của một người biết mình phạm tội và đã ăn năn; đang hoang mang cao độ và đang cần được biết về tin mừng phục sinh của Chúa (Sv. Lu. 24:12) là điều bảo đảm cho sự xưng công bình cho mọi môn đồ Ngài. [2] Nếu không được báo cho biết, Phierơ sẽ rất lo sợ. Phierơ tất sẽ nghĩ rằng mình không có phần gì trong sự vui mừng này. Nếu không có ai đến báo tin cho mình trong khi những người khác đều được thông báo, nhất định Phierơ sẽ phải nghĩ rằng “Thôi, mình không còn được Chúa kể là môn đồ của Ngài nữa rồi. Vì mình đã chối Chúa nên chi giờ đây Ngài cũng đã chẳng nhìn nhận mình, dẫu ăn năn cũng chẳng ích chi…”. Việc thiên sứ truyền đích danh Phierơ nói lên rằng Phierơ cũng được Chúa hoan nghênh trong cuộc hẹn đã định tại Galilê như mọi môn đồ khác vậy (Sv. Gi. 21:15-19). (3) Hội Ngộ Tại Galilê Là Điều Đã Được Hứa. Lời Ðức Chúa Jêsus đã hứa với các môn đồ Ngài trong cuộc trò chuyện với Phierơ (Sv. Ma. 26:32) sắp được Ngài hoàn thành tại Galilê. Tại sao lại là Galilê mà không là Giêrusalem? Trên đường hội tụ về Galilê ai nấy sẽ có cơ hội để hồi tưởng lại những gì Chúa đã từng phán với họ: Ngài sẽ phải chịu khổ và chịu chết, đến ngày thứ ba Ngài sẽ phục sinh (Sv. Ma. 20:17-19; Mác 10:32-34; Lu. 18:31-34). Họ cũng có đủ thời gian để gom nhau lại cho đông đủ và ai nấy sẽ được trấn tĩnh. Tại Giêrusalem, giữa vòng những người xa lạ và các kẻ thù, các môn đồ của Ðức Chúa Jêsus không sao tránh khỏi lo sợ và phân tâm. Quả thật… [1] Mọi cuộc hội ngộ giữa Chúa Cứu Thế Jêsus với những người theo Ngài đều được Ngài quyết định. [2] Chúa Cứu Thế Jêsus không bao giờ lỗi hẹn mà sẽ giao hội cùng những người biết kêu cầu danh Ngài với những phước hạnh đã được hứa. [3] Chúa Cứu Thế Jêsus luôn luôn là người sốt sắng nhất trong những cuộc hội ngộ với các môn đồ của Ngài. Chúa luôn đi trước một bước trong việc giữ lời hứa. IV. MỘT SỰ KHIẾM KHUYẾT (C. 8) Cách thế những người nữ này đem sự tường thuật về tin mừng phục sinh đến với các môn đồ của Ðức Chúa Jêsus thật đặc biệt. Họ đã gấp rút đi tìm gặp các môn đồ của Chúa trong một tâm trạng vừa lạ lùng, vừa run sợ (Sv. Ma. 28:8; Mác 16:8). Nhiều khi chúng ta bỗng trở nên trở ngại cho chính mình và làm hỏng mất sự thư thái của chúng ta do không biết để ý đến những gì Chúa đã phán, không biết liên hệ làm một giữa đức tin của chúng ta với những gì Ðức Chúa Jêsus đã hứa với chúng ta. Ðức Chúa Jêsus đã từng phán với họ rằng đến ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại (Sv. Ma. 20:17-19; Mác 10:32-34; Lu. 18:31-34), đã dặn họ hãy chú tâm một cách đầy đủ đến điều đó (Sv. Ma. 26:31; Mác 14:27). Nếu họ biết chú tâm đến điều ấy, ắt họ đã đi viếng mộ Ngài với một tâm trạng khác: Có một hoài vọng về sự phục sinh của Ngài, để rồi tiếp nhận tin mừng phục sinh trong sự vui mừng và tin chắc chứ không phải là với sự kinh khiếp và lạ lùng. “Vì run sợ sửng sốt” (Câu 8), họ đã một mạch đi tìm các môn đồ để báo tin đến đỗi không dám dừng lại để nói với bất kỳ ai về tin mừng này cả! Tất nhiên, thể theo sự truyền dặn của vị thiên sứ, họ phải báo cho các môn đồ của Ðức Chúa Jêsus biết để rồi các môn đồ này sẽ báo cho cả thế gian này biết về tin mừng phục sinh. Thế nhưng việc không dám cho ai khác biết cả chỉ cho thấy rằng họ sợ nói ra cũng chẳng ai tin - ngay cả đến các vị Sứ Đồ cũng thế (Sv. Lu. 24:11) - vì chính họ cũng chưa hiểu hết được sự việc! Một khi đức tin và sự vui mừng có được nhờ đức tin không đủ mạnh mẽ, sự lo lắng bồn chồn trong lòng chúng ta vốn vẫn thường hạn chế sự phục vụ Chúa và sự làm chứng của chúng ta cho những linh hồn hư mất theo một cách tương tự như thế. Sự phục sinh của Ðức Chúa Jêsus Christ là một sự thật hiển nhiên. Các Cơ Ðốc Nhân luôn biết tự hào về ngôi thạch mộ đã trống không từ sau ngày Sabát buồn thuở ấy: “Ngày Sabát qua rồi” (Mác 16:1), “Ðức Chúa Jêsus Naxarét, là Ðấng đã chịu đóng đinh; Ngài sống lại rồi…” (Mác 16:6). Ðức Chúa Jêsus phán: “Là Ðấng Sống, Ta đã chết, kìa nay Ta sống đời đời, cầm chìa khóa của sự chết và Âm Phủ” (Khải. 1:18). Mỗi Cơ Ðốc Nhân cần phải xem xét lại tâm tình của mình, hãy đếm lại biết bao ơn phước tuôn tràn trên đời sống theo Chúa của mình, phải có cho mình một sự xác quyết trong niềm tin, và nhờ đó mà loại trừ được các khiếm khuyết trong đức tin để thực sự có một đức tin sự sống tương xứng với Cứu Chúa Hằng Sống của chúng ta. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“SỰ CHIẾU CỐ CỦA THẬP TỰ GIÁ” (Lu. 23:26-49) “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì” (Lu. 23:34) Theo như những điều đã được Đức Chúa Trời định đoạt (Sv. Công. 4:27-28), việc xử đóng đinh Đức Chúa Jêsus là một sự hoàn thành lời tiên tri (Sv. Xa. 12:10; 13:6; Thi. 22:16-17; Ma. 20:19; 26:2). Tránh không để cho chúng ta biết về các chi tiết đau thương, sự trước thuật trong Kinh Thánh chỉ viết rằng “Họ đóng đinh Ngài…” (Lu. 23:33). Những gì Đức Chúa Jêsus đã nếm trải do bàn tay kẻ ác trong việc cáo kiện và đóng đinh Ngài không hề có chút đóng góp nào vào công trình đền tội thay của Ngài cả mà chỉ tỏ rõ trạng thái thuộc linh và sự kết án công bình đối với những kẻ có liên quan đến tội ác tàn khốc này (Sv. Công. 4:27; Lu. 2:35). Khi Đức Chúa Trời thực hiện công trình vĩ đại nhất của Ngài qua việc để cho Con Ngài làm sinh tế trên thập tự giá tại đồi Gôgôtha, Ngài có một mối quan tâm tối hậu cần phải hoàn thành, vừa thỏa mãn được đức công nghĩa, vừa thực hiện được tình yêu thương đối với nhân loại của Ngài. I. THẬP TỰ GIÁ “Cây thập tự”, hay “thập tự giá”, trong Tiếng Hylạp là σταυρός [stauros] và hình thức xử tử hình bằng cách đóng đinh trên cây thập tự được gọi là σταυρόω [stauroo]; tức là người bị xử sẽ bị đóng đinh ở tay và chân vào các phần tương ứng của hai thanh gỗ ghép lại với nhau thành hình chữ thập, sau đó được dựng lên tại nơi hành hình cho đến chết. Từ liệu “thập tự giá” được sử dụng trong Kinh Thánh theo ba nghĩa: (1) Nói về một công cụ bằng gỗ hình chữ thập dùng trong việc hành hình: “Khi chúng điệu Đức Chúa Jêsus đi, bắt một người xứ Syren, tên là Simôn, từ ngoài đồng về, buộc phải vác cây thập tự theo sau Ngài” (Lu. 23:26); (2) Nói hình bóng về sự cứu chuộc nhờ công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ trên cây thập tự theo nghĩa (1) nói trên: “Bởi vì lời giảng về thập tự giá, thì những người hư mất cho là điên dại; song về phần chúng ta, là kẻ được cứu chuộc, thì cho là quyền phép của Đức Chúa Trời” (1Cô. 1:18); (3) Nói về sự chết trên cây thập tự theo nghĩa (1) nói trên: “Còn như tôi, tôi hẳn chẳng khoe mình, trừ ra khoe về thập tự giá của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, bởi thập tự giá ấy, thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh, và tôi đối với thế gian cũng vậy” (Gal. 6:12). Trong câu Kinh Thánh này, từ liệu “thập tự giá” đi trước mang nghĩa (2), trong khi từ liệu “thập tự giá” sau đó mang nghĩa (3). “Ai không vác cây thập tự mình mà theo Ta, thì cũng chẳng đáng cho Ta.” (Ma. 10:38); “Nếu ai muốn theo Ta, phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta.” (Mác 8:34)… Từ liệu “cây thập tự”, “thập tự giá” trong các câu Kinh Thánh này trông có vẻ như mang một ý nghĩa khác; thật ra chỉ là ý nghĩa (2) mà thôi: Đã tin theo Chúa, phải biết sống đời sống xứng hiệp với sự cứu chuộc mà Đức Chúa Jêsus Christ đã thực hiện cho mình; phải luôn luôn biết làm trọn sự kêu gọi của Đức Chúa Trời trên đời sống mình. “Cây thập tự”, hay “thập tự giá”, trong Tiếng La Tinh là crux. Có bốn kiểu dáng cơ bản của “thập tự giá” bằng gỗ: (1) “Thập tự giá immissa”: Hai thanh gỗ ghép lại với nhau theo góc vuông, phần trên đầu ngắn nhất, phần thân đứng dài nhất. (2) “Thập tự giá commissa”: Có hình chữ “T”, tức không có đầu nhô lên trên thanh ngang, còn được gọi là “Thập tự giá của thánh Anthony”. (3) “Thập tự giá Hy Lạp”: Hai thanh gỗ ghép chéo góc vuông với nhau và có các phần dài bằng nhau. (4) “Thập tự giá decussata”: Có hình chữ “X”, còn được gọi là “Thập tự giá của thánh Andrew”. II. NỖI THỐNG KHỔ TRÊN THẬP TỰ GIÁ VÀ SỰ CHIẾU CỐ TỪ THẬP TỰ GIÁ Xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá là một hình thức hành hình dã man nhất từ xưa đến nay. Hình thức hành hình này đã từng được thi hành, nhất là trong các giai đoạn chiến tranh, bởi người Phoenix, Carthage, Ai Cập, và sau đó là người La Mã. Hình thức xử tử hình bằng cách đóng đinh đáng kinh sợ đến nỗi, ngay cả trước kỷ nguyên Cơ Đốc, người ta đã thường dùng nó để nói về hiểm họa lớn nhất đối với sự sống. Việc xử tử hình bằng cách đóng đinh khủng khiếp đến nỗi luật La Mã cấm không được áp dụng hình án này cho các công dân La Mã mà chỉ áp dụng cho dân của các xứ bị trị mà thôi. Nỗi thống khổ của người bị xử tử hình bằng cách đóng đinh thường kéo dài trong các trạng thái đau đớn, dày vò: (1) Sự nhức nhối không tả hết của những vết thương trên các phần thân thể đã bị xuyên thủng; (2) Vị trí bị treo một cách không bình thường trong một tình trạng hết sức nghiệt ngã, mỗi cử động nhỏ đều khiến nạn nhân phải bị đau đớn cao độ; (3) Trạng thái sốt cao khắp toàn thân do bị treo trong một thời gian lâu. Trong 1Cô. 1:18, “Lời giảng về thập tự giá” (Gk. euaggelizo) bị những người còn đang hư mất cho là “điên dại”, trái với sự khôn ngoan của người đời. Trong Êph. 2:16, “thập tự giá” được kể là phương tiện của sự phục hòa giữa Đức Chúa Trời với nhân loại: “Bởi thập tự giá Ngài đã làm cho sự thù nghịch tiêu diệt, nên nhờ thập tự giá đó Ngài khiến cả hai hiệp thành một thể, mà làm hòa thuận với Đức Chúa Trời.”. Sở dĩ có được như vậy là vì “thập tự giá” đã cất bỏ đi án phạt mà tội nhân phải trả theo Luật Pháp: “Ngài đã xóa tờ khế lập nghịch cùng chúng ta, các điều khoản trái với chúng ta nữa, cùng hủy phá tờ khế đó mà đóng đinh trên cây thập tự.” (Côl. 2:14). Làm thế nào mà một người La Mã như Phaolô, vốn xem kẻ bị xử tử hình bằng cách đóng đinh là một người đáng bị miệt thị (Sv. 1Cô. 1:18); và Phaolô trên góc độ một chức sắc Do Thái Giáo, vốn xem người bị xử tử hình bằng cách đóng đinh là đáng bị rủa (Sv. Gal. 3:13) lại có thể “Khoe về thập tự giá của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.” (Gal. 6:14)? Đây chính là một sự thay đổi bi hùng mang tính lịch sử vốn đã diễn ra trong đời sống của các vị Sứ Đồ vì họ nhận biết Đấng bị xử tử hình trên thập tự giá là Chúa Cứu Thế đến từ Đức Chúa Trời: “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi.” (Gal. 2:20). Khi Đức Chúa Jêsus bị xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá, cơ chế vật lý nào diễn ra trong sự chết của Ngài? Người ta đã từng có các cuộc nghiên cứu y khoa nhằm giải đáp cho câu hỏi ấy. Khi một người bị treo lơ lửng bằng cách đóng đinh như thế, máu sẽ tuôn ra qua các vết thương và lượng máu của cơ thể sẽ cứ thế mà giảm đi. Chỉ trong vòng từ sáu đến mười hai phút đầu tiên, áp huyết của nạn nhân sẽ hạ chỉ còn một nửa, trong khi đó thì nhịp tim lại tăng lên gấp đôi. Tim sẽ dần dần cạn máu, và người bị hành hình sẽ rơi vào trạng thái bị kích ngất. Cái chết sẽ đến với nạn nhân nhanh hay chậm tùy theo trạng thái suy tim của từng người. Thông thường, việc ấy xảy ra không lâu hơn hai hoặc ba ngày. Theo thông lệ, cái chết của nạn nhân bị xử tử hình bằng cách đóng đinh sẽ được gia tốc bằng việc đánh gãy xương ống chân nạn nhân vào thời điểm kết thúc cuộc hành hình; nhưng điều ấy đã không xảy ra đối với Đức Chúa Jêsus: “Khi quân lính đến nơi Đức Chúa Jêsus, thấy Ngài đã chết rồi, thì không đánh gãy ống chân Ngà.i” (Gi. 19:13). Nỗi đau đớn thân xác mà Đức Chúa Jêsus đã phải chịu trên thập tự giá là rất lớn lao, chúng ta không cần phải nhấn mạnh mà cũng không thể nào cường điệu được, vì đó là sự thật. Sự chết thuộc thể mà Đức Chúa Jêsus đã phải chịu trên thập tự giá trong nhân trạng của Ngài cũng là một sự thật hiển nhiên không thể bác bỏ được, nhưng chúng ta không nên nhấn mạnh nhiều đến cơ chế vật lý của sự chết Ngài vì Kinh Thánh cho chúng ta biết được rằng sự chết của Đức Chúa Jêsus độc đáo ở chỗ Ngài chủ tâm đổ sự sống của mình ra để vâng lời Đức Chúa Trời: “Chẳng có ai cất sự sống Ta đi, nhưng tự ta phó cho; Ta có quyền phó sự sống, và có quyền lấy lại; Ta đã lãnh mạng lịnh nầy nơi Cha Ta.” (Gi. 10:18). Khi Đức Chúa Jêsus chịu xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá, nỗi đau nào lớn nhất đối với Ngài? Theo sự trước thuật của Mathiơ và Mác, linh hồn thống khổ Ngài chính là thống khổ linh hồn Ngài vì trong giờ phút đền tội thay cho cả nhân loại, mối tương liên đời đời trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời đã tạm thời phân cách và đó chính là kinh nghiệm đau thương nhất mà Đức Chúa Jêsus phải chịu trong nhân thể: “45Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. 46Ước chừng giờ thứ chín, Đức Chúa Jêsus kêu tiếng lớn lên rằng: Êli, Êli, lamasabáchtani? Nghĩa là: Đức Chúa Trời tôi ơi! Đức Chúa Trời tôi ơi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?... 50Đức Chúa Jêsus lại kêu lên một tiếng lớn nữa, rồi trút linh hồn.” (Ma. 27:45-46, 50; Sv. Mác 15:33-34, 37). Khi Đức Chúa Jêsus chịu xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá, mối quan tâm hàng đầu của Ngài là gì? Theo sự trước thuật của Luca: “Đức Chúa Jêsus cầu rằng: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì…” (Lu. 23:34). Cần nên chú ý rằng cho đến thời điểm này, Đức Chúa Jêsus chưa bao giờ phải cậy đến Đức Chúa Cha để tha tội. Ngài đã luôn luôn tự chứng rằng chính Ngài có quyền tha tội: “Ngài bèn phán cùng người đàn bà rằng: Tội lỗi ngươi đã được tha rồi.” (Lu. 7:48). “5Đức Chúa Jêsus thấy đức tin họ, bèn phán cùng kẻ bại rằng: Hỡi con Ta, tội lỗi ngươi đã được tha…6Vả, có mấy thầy thông giáo ngồi đó, nghĩ thầm rằng: 7Sao người nầy nói như vậy? Người nói phạm thượng đó! Ngoài một mình Đức Chúa Trời, còn có ai tha tội được chăng?” (Mác 2:5-7). Bằng việc kêu lên rằng “Lạy Cha, xin tha cho họ…”, Đức Chúa Jêsus khải thị cho chúng ta biết được một trong các phương diện chính của sự đền tội thay trên thập tự giá của Ngài: Ngài tự đồng hóa mình với nhân loại để kêu cầu sự tha tội thay cho họ! Luận điểm này hoàn toàn hợp Kinh Thánh khi chúng ta chú ý đến lời phán “Mọi việc đã được trọn” của Đức Chúa Jêsus trước khi Ngài trút linh hồn: “Khi Đức Chúa Jêsus chịu lấy giấm ấy rồi, bèn phán rằng: Mọi việc đã được trọn; rồi Ngài gục đầu mà trút linh hồn.” (Gi. 19:30). Với việc kêu lên rằng “Lạy Cha, xin tha cho họ…”, chúng ta cần chú ý rằng Đức Chúa Jêsus đã không cầu xin bất cứ điều gì khác ở đây. Ngài đã không cầu xin sự giàu có cho các cá nhân ấy. Ngài đã không cầu xin sự thịnh vượng cho họ. Ngài đã không cầu xin cho họ có sự khát khao nên thánh trong lòng… Ngài quan tâm trước tiên đến nhu cần được tha tội của nhân loại vì đó mới chính là nhu cần lớn nhất và trước hết: Chỉ khi nào nợ tội được trả, án tội được tha, ách tội được thoát, nhiên hậu mới cần đến những điều khác, và những điều khác ấy mới được bền vững, thực sự hữu ích. Được tha tội, được phục hồi địa vị công nghĩa trước mặt Đức Chúa Trời là nhu cần lớn nhất của của nhân loại: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Ma. 6:33). Chúng ta sẽ làm gì vào những khi người khác đối xử cay nghiệt với chúng ta? Liệu chúng ta có thể lập tức cầu nguyện xin Đức Chúa Trời tha thứ cho họ hay là chúng ta sẽ lập tức rủa thầm họ? Trong bản chất người, rủa sả dễ thực hiện hơn là cầu nguyện xin sự tha thứ. Thực tế này giúp chúng ta nhận ra được sự thể hiện thần tính của Đức Chúa Jêsus ngay giữa khi Ngài chịu hành hạ hết sức quá quắc: “6Thật vậy, khi chúng ta còn yếu đuối, Đấng Christ đã theo kỳ hẹn chịu chết vì kẻ có tội. 7Vả, họa mới có kẻ chịu chết vì người nghĩa; dễ thường cũng có kẻ bằng lòng chết vì người lành. 8Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” (Rô. 5:6-8); “Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình.” (Gi. 15:13). Trong giờ phút cuối cùng của Samsôn, Samsôn đã cầu nguyện cho mình trước, và sau đó đã thẳng tay hủy phá kẻ thù mình: “28Bấy giờ, Samsôn kêu cầu Đức Giêhôva mà rằng: Chúa Giêhôva ôi! Xin Ngài nhớ lại tôi. Hỡi Đức Chúa Trời! Xin ban sức lực cho tôi chỉ lần này thôi, hầu cho tôi báo thù dân Philitin về sự mất hai con mắt tôi. 29Samsôn vớ lấy hai cây cột ở chính giữa đỡ chịu cái đền, một cây ở bên hữu và một cây ở bên tả, nhận vào, mà rằng: Nguyện tôi chết chung với dân Philitin! Đoạn người rán hết sức, xô hai cây cột, đền đổ xuống trên các quan trưởng và cả dân sự ở đó. 30Ấy vậy, trong lúc chết, Samsôn giết nhiều người hơn là giết trong khi còn sống” (Quan. 16:28-30). Ngay cả đến vị thánh đồ tử đạo đầu tiên cho niềm tin Cơ Đốc cũng chưa hoàn toàn noi theo gương Đức Chúa Jêsus trên phương diện này được. Êtiên đã cầu nguyện cho chính mình trước khi cầu nguyện xin Đức Chúa Trời tha thứ cho những kẻ bách hại mình: “59Chúng đang ném đá, thì Êtiên cầu nguyện rằng: Lạy Đức Chúa Jêsus, xin tiếp lấy linh hồn tôi. 60Đoạn, người quì xuống, kêu lớn tiếng rằng: Lạy Chúa, xin đừng đổ tội này cho họ! Người vừa nói lời đó rồi, thì ngủ.” (Công. 7:59-60). Tự cổ chí kim, chỉ duy nhất Đức Chúa Jêsus là dành ưu tiên hàng đầu cho việc cầu xin sự tha thứ cho tha nhân (Sv. Lu. 23:34), sau đó mới đến việc cầu nguyện cho chính mình (Sv. Lu. 23:46), vì đó là sự quan tâm của thập tự giá, sự quan tâm tối hậu của công trình đền tội thay của Ngài: “Bởi Con Người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất” (Lu. 19:10). “Nầy là huyết Ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội.” (Ma. 26:28). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐỂ NGỢI KHEN CHÚA” (1Phi. 2:10) “Anh em ngày trước không phải là một dân, mà bây giờ là dân Đức Chúa Trời, trước không được thương xót, mà bây giờ được thương xót.” (1Phi. 2:10) Có truyền thuyết kể về một ngôi làng nhỏ ở Tây Ban Nha. Dân làng được biết nhà vua sẽ đến thăm. Đã từ hàng ngàn năm nay, chưa bao giờ có chuyện đức vua ngự giá đến thăm làng này. Do đó, khi nhận được tin, ai nấy đều rất hân hoan. Được hứng khởi, họ bàn với nhau: “Chúng ta phải tổ chức một cuộc đón rước thật trọng thể!”, và họ đều đồng ý với nhau như thế. Tuy nhiên, đây là một làng rất nghèo; khi suy tính lại, họ thấy không thể nào trang trải nổi cho một cuộc đón rước theo ý họ muốn. Vì vậy, họ phải thống nhất với nhau về một lối đón tiếp cổ điển: Vì dân làng ai cũng đều làm rượu để dùng trong gia đình mình, người ta đề xuất việc dựng lên một thùng đựng rượu thật lớn tại bãi sinh hoạt của làng để mỗi người sẽ mang một cốc rượu lớn và ngon nhất của gia đình đến nhập vào thùng ấy làm của lễ đón tiếp đức vua. Họ nói với nhau: “Chúng ta sẽ đổ chung rượu ngon nhất của mỗi người vào thùng để đón tiếp cho đức vua vui lòng, vì khi Ngài dùng một cốc rượu từ thùng này, thì đó sẽ là cốc rượu của cả làng và là là cốc rượu ngon nhất làng… Chắc chắn đức vua sẽ thích thú, vì ắt là Ngài chưa bao giờ được nếm một loại rượu có hương vị được hòa hợp độc đáo đến như thế”. Trước hôm đức vua ngự đến, hàng trăm người đứng xếp hàng chờ đến lượt nhập rượu góp của mình vào thùng để nghênh đón vị khách tôn quí của họ. Họ hân hoan trèo lên theo một cầu thang, đổ rượu góp của mình vào thùng qua một miệng nhỏ ở nắp thùng, rồi lần lượt đi theo một cầu thang khác để xuống trở lại. Cuối cùng, thùng rượu lớn đã được đổ đầy. Khi đức vua ngự đến, ngài được hộ tống đến bãi sinh hoạt của làng. Người ta dâng cho đức vua một chiếc cốc bằng bạc và xin Ngài hãy tự tay hứng vào vòi thùng để lấy rượu và thưởng thức. Ngạc nhiên thay, khi đức vua nếm rượu, ngài nhận ra đó chỉ là nước lã! Nguyên do là vì mỗi người dân trong làng đều nhủ thầm: “Rượu nhà mình không có nhiều, cần phải để dành mới có mà dùng. Hãy cứ lấy nước lã thay cho rượu đem đến góp vào... Chắc chắn sẽ chẳng ai biết được đâu! Cả một thùng rượu to thế kia thì một cốc nước nhỏ như thế này làm sao ai biết được…”. Vì ai nấy cũng đều nghĩ như nhau, họ đã âm thầm làm cùng một cách như nhau, và kết quả là thay vì được tôn trọng, nhà vua đã bị dân làng thất kính… Bối cảnh được mô tả trong đoạn văn Kinh Thánh này tương phản hẳn với câu chuyện kể trên. Đây chính là thời điểm Đức Chúa Jêsus, Vua của muôn vua, được Dân Ngài tôn cao một cách đặc biệt: Ai nấy đều dâng lên cho Ngài điều tốt nhất mà họ có, đó là sự ngợi khen! Thời điểm được nói đến trong phân đoạn Kinh Thánh này là thời điểm khởi đầu của giai đoạn cuối của chức vụ trên trần gian trong nhân thể giáng sinh của Đức Chúa Jêsus. Chính vào buổi sáng Thứ Sáu của tuần lễ này Đức Chúa Jêsus đã chịu đóng đinh vào thập tự giá; Ngài đã được chôn vào thạch mộ chiều Thứ Sáu ấy và trải qua suốt ngày và đêm Thứ Bảy; cuối cùng, Ngài đã phục sinh vào sáng Chúa Nhật tiếp theo. Hội Thánh Cơ Đốc của Đức Chúa Trời thường gọi tuần lễ kỷ niệm kể từ ngày Chúa Nhật mà Đức Chúa Jêsus vào thành Giêrusalem được mô tả ở đây cho đến ngày Chúa Nhật khi Ngài phục sinh là “Tuần Lễ Thương Khó_Phục Sinh”. Xin đừng quên: Lúc ấy, Dân Ngài đã kỷ niệm “Tuần Lễ Thương Khó_Phục Sinh” bằng sự ngợi khen cá nhân rất ấn tượng: “7Hai người dắt lừa con về cho Đức Chúa Jêsus, lấy áo mình trải trên nó; rồi Ngài cỡi lên. 8Nhiều người trải áo mình trên đường; lại có kẻ rải nhánh cây chặt trong đồng ruộng. 9Người đi trước kẻ theo sau đều la lên rằng: Hôsana! Đáng khen ngợi cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!10Phước cho nước đến, là nước vua Đavít tổ phụ chúng ta! Hôsana ở trên nơi rất cao!” I. PHẢI CÓ Ý THỨC NGỢI KHEN Đây chính là thời điểm kỷ niệm Lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua là cuộc lễ lớn nhất của người Do Thái Giáo: Dân Ysơraên ở khắp mọi nơi đều hành hương về Giêrusalem trong dịp lễ trọng thể này để kỷ niệm công việc quyền năng của Đức Chúa Trời đã giải cứu người Do Thái thoát khỏi ách nộ lệ của Ai Cập dưới thời Môise. Đức Chúa Jêsus đã từng “Đi thành nầy đến thành kia, làng nầy đến làng khác, giảng dạy và rao truyền Tin Lành của nước Đức Chúa Trời…” (Lu. 8:1). Cho đến thời điểm này, qua chức vụ của Ngài “Kẻ đui được sáng, kẻ què được đi, kẻ phung được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết được sống lại, Tin Lành đã rao giảng cho kẻ nghèo” (Lu. 7:22). Chuyến trở về lại Giêrusalem lần này là chuyến hành trình cuối cùng của Đức Chúa Jêsus. Ngài đã biết, và cũng đã nói với các môn đồ, những gì sắp sửa xảy ra với Ngài tại đây. Đức Chúa Jêsus đã cho các môn đồ biết Ngài sẽ phải chịu đối đãi ra sao, phải chịu chết như thế nào… Chỉ mới mấy ngày trước đó Ngài đã phán: “Con Người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất” (Lu. 19:10). Sứ mệnh của Đức Chúa Jêsus là cứu chuộc. Đức Chúa Jêsus phải chịu khổ, chịu chết và sống lại là để cứu chuộc. Thực ra, nguyên nghĩa của “Hôsana” chính là “Đức Giêhôva ôi, xin hãy cứu!” (Thi. 118:25). Phải chăng khi nghe “Người đi trước kẻ theo sau đều la lên rằng: Hôsana! Đáng khen ngợi cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!” Đức Chúa Jêsus đã thầm nghĩ: “Phải, chính đó là sứ mệnh của Ta. Các ngươi nói đúng, nhưng các ngươi biết còn ít lắm!”. Hình thức nguyên thủy của “Hôsana” là “Yasha” trong Tiếng Hêbơrơ:“Đức Giêhôva ôi! Xin hãy cứu!_Đức Giêhôva ơi, xin ban cho chúng tôi được thới thạnh” (Thi. 118:25). Hình thức chuyển tự từ “Yasha” trong Tiếng Hêbơrơ sang thành “Hôsana” trong Tiếng Hy Lạp được sử dụng trong các Sách Tin Lành 6 lần khi nói về việc Đức Chúa Jêsus tiến vào thành Giêrusalem như là Đấng Mêsia mà Xachari đã miêu tả (Xa. 9:9), và khi Ngài dẹp sạch Đền Thờ: Ma 21:9 (2lần), 15; Mác 11:9, 10; Gi 12:13. Hình thức dịch nghĩa “Hôsana” cũng thay đổi tùy nơi: “Hôsana con vua Đavít! Đáng ngợi khen cho Đấng nhân danh Chúa mà đến! Hôsana ở trên nơi rất cao!” (Ma. 21:9) “9Người đi trước kẻ theo sau đều la lên rằng: Hôsana! Đáng khen ngợi cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!10Phước cho nước đến, là nước vua Đavít tổ phụ chúng ta! Hôsana ở trên nơi rất cao!” (Mác 11:9, 10). “Hôsana! Chúc phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến, là vua của Ysơraên!” (Gi. 12:13). Như vậy, đối với các trước giả của các Sách Tin Lành, “Hôsana” là một sự hoan hô, một lời tán tụng nhằm thể hiện sự ngợi khen. Và như vậy, “Hôsana” đã biến nghĩa từ ý nghĩa kêu cầu sang ý nghĩa thốt lên sự vui mừng, chào đón. Tại sao có sự biến nghĩa này? Vì Đức Chúa Jêsus chính là Đấng Mêsia, Đấng Cứu Chuộc, Ngài đã đến, sự cứu rỗi từ nơi Ngài đã đến. Trở lại với văn cảnh của phân đoạn Kinh Thánh đang được học, dầu đám đông không ý thức rõ được sứ mệnh sắp sửa được hoàn thành của Đức Chúa Jêsus nhưng họ vẫn hòa được hồn mình vào sự ngợi khen Ngài! Tuy nhiên, Đức Chúa Jêsus muốn mọi người biết chính Ngài là Đấng Giải Cứu để họ được giải cứu: “37Hỡi Giêrusalem, Giêrusalem, ngươi giết các Đấng tiên tri và ném đá những kẻ chịu sai đến cùng ngươi, bao nhiêu lần Ta muốn nhóm họp các con ngươi như gà mái túc con mình lại ấp trong cánh, mà các ngươi chẳng khứng! 38Nầy, nhà các ngươi sẽ bỏ hoang!39Vì Ta bảo, các ngươi sẽ không thấy Ta nữa, cho đến lúc các ngươi sẽ nói rằng: Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!” (Ma. 23:37-39). Dưới ánh sáng của Kinh Thánh, lời chúc tôn “Hôsana” phải là một lời chúc tôn có ý thức. “Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến” phải là lời Hôsana với đầy đủ ý thức tôn vinh Đấng đến để cứu vì biết mình cần được cứu. Mọi lưỡi sẽ tung hô lời Hôsana ấy trong Ngày Của Chúa: “9Sự ấy đoạn, tôi nhìn xem, thấy vô số người, không ai đếm được, bởi mọi nước, mọi chi phái, mọi dân tộc, mọi tiếng mà ra; chúng đứng trước Ngôi và trước Chiên Con, mặc áo dài trắng, tay cầm nhành chà là, 10cất tiếng lớn kêu rằng: Sự cứu rỗi thuộc về Đức Chúa Trời ta, là Đấng ngự trên ngôi, và thuộc về Chiên Con” (Khải. 7:9-10). “Sự đó đoạn, tôi nghe ở trên trời như có tiếng lớn của lũ đông lắm rằng: Alêlugia! Sự cứu chuộc, vinh hiển, quyền phép đều thuộc về Đức Chúa Trời chúng ta” (Khải. 19:1). Một sự chúc tôn vô thức rất có thể sẽ là không chúc tôn gì cả. Trong câu chuyện kể về việc dân làng đón nhà vua, họ chỉ có sự cảm thức về việc đón mừng chứ không có một sự ý thức nghiêm túc về nghĩa vụ ấy. Nếu không, người ta tất đã đem rượu ngon nhất mà mình có đến để góp vào chứ không phải chỉ là góp nước lã một cách giả dối như thế. Chính “đám đông” tung hô “Hôsana” để đón mừng Đức Chúa Jêsus vào thành Giêrusalem; nhưng rồi chỉ mấy ngày sau, cũng chính “đám đông”lại điên cuồng gào thét đòi phải đóng đinh Ngài trên thập tự giá; nhiều khi, đám đông chỉ là một thực thể hay dao động, khó tin cậy (Sv. Ma. 27:21-24). Sự chúc tôn vô thức không giúp loại bỏ được sự lăng mạ vô thức. Những người theo Do Thái Giáo đã đóng đinh Đức Chúa Jêsus trên thập tự giá hơn 2000 năm trước đây, nhưng dầu sao họ cũng chỉ là những người chưa được cứu. Chúng ta cần phải thận trọng trong bước đường theo Chúa để tránh không vừa tung hô “Hôsana” đón Ngài lại vừa làm nhục Ngài: “18Tôi đã thường nói điều nầy cho anh em, nay tôi lại khóc mà nói nữa: Lắm người có cách ăn ở như là kẻ thù nghịch thập tự giá của Đấng Christ. 19Sự cuối cùng của họ là hư mất; họ lấy bụng mình làm Chúa mình, và lấy sự xấu hổ của mình làm vinh hiển, chỉ tư tưởng về các việc thế gian mà thôi” (Phil. 3:18-19). “Hãy tỉnh biết, theo cách công bình, và chớ phạm tội; vì có người không biết Đức Chúa Trời chút nào, tôi nói vậy để anh em hổ thẹn” (1Cô. 15:34). “7Hãy làm cho mình sạch men cũ đi, hầu cho anh em trở nên bột nhồi mới không men, như anh em là bánh không men vậy. Vì Đấng Christ là con sinh Lễ Vượt Qua của chúng ta, đã bị giết rồi. 8Vậy thì, chúng ta hãy giữ lễ, chớ dùng men cũ, chớ dùng men gian ác độc dữ, nhưng dùng bánh không men của sự thật thà và của lẽ thật” (1Cô. 5:7-8). II. PHẢI CÓ ĐỜI SỐNG NGỢI KHEN Đức Chúa Trời đáng được ngợi khen, bản chất và thuộc tính của Ngài khiến sự ngợi khen luôn đi cặp theo, sự ngợi khen luôn luôn sẵn dành cho Đức Chúa Trời, nhất là giữa vòng Dân Ngài: “Còn Chúa là thánh,_Ngài là Đấng ngự giữa sự ngợi khen của Ysơraên” (Thi. 22:3). Nếu vì thiếu ý thức mà không có sự ngợi khen bằng môi miệng của con người thì các tạo vật khác của Đức Chúa Trời vẫn cứ không ngừng ngợi khen Ngài: Núi non hùng vĩ, đại dương bao la, vũ trụ vô tận,… Mặt trời, mặt trăng, các vì sao lấp lánh, muôn thú, cỏ cây, hoa lá,… vẫn ngày đêm thầm thì về bản chất và thuộc tính vô song của Đức Chúa Trời. Tạo vật của Đức Chúa Trời vẫn hằng ngợi khen về một Đấng Sáng Tạo Ba Ngôi: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh. Không gì có thể ngăn được sự ngợi khen đối với Đức Chúa Trời; điều này được tìm thấy qua lời phán của Đức Chúa Jêsus dành cho người Pharisi: “Ta phán cùng các ngươi, nếu họ nín lặng thì đá sẽ kêu lên” (Lu. 19:40). Theo Chúa, chúng ta phải biết vâng lời Chúa, sống một đời sống đức tin thực hành “Vì nước Đức Chúa Trời chẳng ở tại lời nói, mà ở tại năng lực” (1Cô. 4:20): “21Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng Ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào nước Thiên Đàng đâu; nhưng chỉ kẻ nào làm theo ý muốn của Cha Ta ở trên trời mà thôi. 22Ngày đó, sẽ có nhiều người thưa cùng Ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri sao? Nhân danh Chúa mà trừ quỉ sao? Và lại nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao? 23Khi ấy, Ta sẽ phán rõ cùng họ rằng: Hỡi kẻ làm gian ác, Ta chẳng biết các ngươi bao giờ, hãy lui ra khỏi Ta!” (Ma. 7:21-23). Đoạn văn Kinh Thánh mà chúng ta đang học cho biết rằng đám đông dân chúng không phải chỉ biết tung hô suông mà họ biết trải bày những điều tốt họ có để nghênh đón Đức Chúa Jêsus: “Nhiều người trải áo mình trên đường; lại có kẻ rải nhánh cây chặt trong đồng ruộng” (C. 8). Đó là việc đã diễn ra hơn hai mươi thế kỷ trước, còn chúng ta ngày nay thì sao? Trước hết, cần nên nhận xét rằng dầu dưới hình thức nào thì sự ngợi khen Chúa cũng đều có tính chất là một món quà mà những người biết ơn Ngài muốn dâng lên: “9Nhưng anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài. 10Anh em ngày trước không phải là một dân, mà bây giờ là dân Đức Chúa Trời, trước không được thương xót, mà bây giờ được thương xót” (1Phi. 2:9). Động từ “rao giảng” bằng Tiếng Hy lạp được dùng trong câu Kinh Thánh này (Gk. exaggello) nói về hành động phô bày ra để cho mọi người đều được biết. Sự phô bày ấy có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau: Hành vi, cử chỉ, lời nói, chữ viết, các ký hiệu giúp cho việc hát hay múa, các hình tượng biểu đạt văn học, nghệ thuật như kịch nghệ, phim ảnh,… Nói chung là bất cứ hình thái truyền thông nào cũng đều có thể được Dân Chúa sử dụng cả, và đó là phận sự của Dân Ngài. Thế nhưng, điều gì cần phải được “rao giảng”? Đó chính là sự “nhân đức” của Đức Chúa Trời, Đấng đã thương xót mà cứu chuộc để chúng ta được trở nên Dân Ngài. Thật ra, cách hiệu quả nhất cho việc “rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi” chúng ta “ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài” chính là việc sống một đời sống thể hiện được những điều ấy: “13Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài. 14Phàm làm việc gì chớ nên lằm bằm và lưỡng lự, 15hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian” (Phil. 3:13-15). Bằng việc trải áo của mình, cũng như “rải nhánh cây chặt được trong đồng ruộng”, người ta muốn tỏ bày thái độ trọng thị như ngày nay người ta trải thảm đỏ để nghênh đón các nguyên thủ quốc gia. Để thực sự tung hô “Hôsana” đón mừng, tán tụng Cứu Chúa yêu dấu, chúng ta đừng làm như dân làng trong câu chuyện kể trên. Đừng bước lên đỉnh cao của cầu thang, đưa tay cầm cốc lên thật tỏ tường, nhưng rồi lại trút nước lã vào thùng! Chúng ta hoàn toàn được phép dùng bông trái của môi miệng để ngợi khen Chúa, nhưng tấm lòng phải chân thật để chúng ta cũng còn có thể tìm được những điều gì đó từ trong đời sống của chúng ta, đem trải ra, dâng lên mà tôn vinh Ngài. Hãy nhắm mắt lại, tưởng tượng Chúa chúng ta lúc này đang cỡi lừa đi trên đường ngoài kia và đang được mọi người tán tụng, tung hô. Biết được như thế, chúng ta ai nấy đều mừng rỡ cùng nhau chạy ra đón Ngài. Ngoài đó, ai nấy đều có ít nhất một điều tốt trải bày ra cho Chúa thấy nhằm làm cho Ngài đẹp ý. Khi đi ngang qua, Chúa nhìn và hỏi mỗi người chúng ta: “Con đã có gì để trải bày ra, đón mừng Ta chưa?” Mỗi người chúng ta sẽ thưa lại với Chúa như thế nào? Trong mùa “Thương Khó_Phục Sinh” này, chúng ta đừng quên: Vốn đã được cứu chuộc, đời sống chúng ta phải là đời sống biết ơn, ngợi khen Ngài; và Ngợi khen Chúa là dâng cho Chúa một lễ vật từ trong chính đời sống của mình. Vâng, xin được có lời kết như thế này: Lễ vật dâng lên Chúa có thể là lời ngợi khen bằng môi miệng nhưng nhất thiết phải có một đời sống ngợi khen vì “Anh em ngày trước không phải là một dân, mà bây giờ là dân Đức Chúa Trời, trước không được thương xót, mà bây giờ được thương xót”. (Rev. Doan Nhat Tan, PhD)
“PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ CHỊU BẮT BỚ VÌ SỰ CÔNG BÌNH!” (Ma. 5:10-12) “Bài Giảng Trên Núi” của Đức Chúa Jêsus về “Các Phước Lành” vĩnh viễn là một núi kim cương hùng vĩ, lấp lánh các nguyên lý Thiên Đàng. Mỗi khi tiếp cận phân đoạn Kinh Thánh này (Ma. 5:1-12), với sự hiểu biết thô thiển và kinh nghiệm ít oi của bản thân, tôi luôn thấy mình chỉ như một đứa bé, choáng ngợp trước vô vàn tia sáng phản chiếu vinh quang Thiên Thượng. Tôi muốn lĩnh hội sao cho được trọn vẹn nhưng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. Tôi muốn diễn đạt cho sao cho thật khúc chiết để làm ích nhiều nhất cho đàn chiên nhỏ bé mà Đức Chúa Trời đã ủy thác cho tôi chăm nuôi nhưng, đáng thương thay, cũng chỉ là những lời thô thiển, tầm thường… Ước ao rằng chính Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ cho người đọc có được những sự nội kiến đẹp ý Đức Chúa Trời; còn những gì được viết ra đây chỉ là chỗ dựa cho sự tri giác, giúp cho sự suy gẫm được thuận lợi hơn… “Tolle lege, tolle lege” (“Cứ đọc đi! Cứ đọc đi!”) [St. Augustine, 354-430] (Mục Sư Đoàn Nhật Tân, Tháng Mười 2006) Sứ Đồ PhaoLô đã từng mô tả nhiều hình thức bắt bớ mà ông phải chịu trong quãng đời hầu việc Chúa ở cương vị người giảng Tin Lành. PhaoLô kể cho chúng ta biết Đức Chúa Trời đã giải cứu ông qua tất cả những điều ấy. Các từng trải cá nhân của Sứ Đồ PhaoLô được Đức Thánh Linh cảm thúc thành lời: “12Vả lại, hết thảy mọi người muốn sống cách nhân đức trong Đức Chúa Jêsus Christ, thì sẽ bị bắt bớ. 13Nhưng những người hung ác, kẻ giả mạo thì càng chìm đắm luôn trong điều dữ, làm lầm lạc kẻ khác mà cũng lầm lạc chính mình nữa” (2Ti. 3:12-13) Đức Chúa Trời không hề hứa cho những người tin Ngài về một đời sống “thoải mái”! Thật ra, sống giữa thế gian này, nếu ai kính yêu Đức Chúa Trời thì tất phải gặp bắt bớ; chỉ có điều là việc ấy thuộc trong chương trình tốt đẹp của Đức Chúa Trời: “10Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy! 11Khi nào vì cớ Ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. 12Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các Đấng Tiên Tri trước các ngươi như vậy” (Ma. 5:10-12) Cơ Đốc Nhân thường chịu bắt bớ vì hai lý do chính: Thứ nhất, vì họ sống một đời sống công nghĩa theo tiêu chí của Đức Chúa Trời. Thứ hai, họ không còn chịu ở dưới sự điều khiển của tên chủ nô ngày trước mà đã thuộc về Đức Chúa Trời: “Phước cho các ngươi khi vì cớ Con Người, thiên hạ sẽ ghét, đuổi, mắng nhiếc các ngươi, bỏ tên các ngươi như đồ ô uế…” (Lu. 6:22) A. MỘT SỐ HÌNH THỨC BẮT BỚ… I. Hại Hành… Ý nghĩa căn bản của từ liệu “bắt bớ” (Gk. διώκω [dioko]) là xua đuổi hay săn đuổi, săn lùng. Từ liệu này bao hàm cả sự hại hành, sách nhiễu, ngược đãi mà tình trạng tù tội hay bị sát hại là các biểu hiện tập trung trong mọi giai đoạn lịch sử của xã hội loài người. Kể từ ngày Êtiên bị ném đá cho chết (Công. 7:54-60) vì sự kết ước sắt son với Cứu Chúa của mình, sự bắt bớ thuộc thể trên các Cơ Đốc Nhân không ngừng gia tăng. Giacơ, con của Xêbêđê, bị chém đầu. Tục truyền rằng trên đường ra pháp trường, kẻ cáo giác Giacơ đã rất cảm kích trước lòng dũng cảm của Giacơ nên đã ăn năn tội, cũng đã tự nhận mình là Cơ Đốc Nhân để cùng chịu xử tử hình với Giacơ. Sứ Đồ Philíp đã bị bỏ tù và cuối cùng bị xử đóng đinh năm 54 SC. Sứ Đồ Mathiơ đã phải chịu chết dưới lưỡi gươm. Sứ Đồ Mathia bị ném đá tại thành Giêrusalem trước khi bị chém đầu. Anhrê, em của Sứ Đồ Phierơ, đã bị đóng đinh trên thập tự giá hình chữ X. Sứ Đồ Mác đã phải bị ngựa kéo trên pháp trường tại thành Alécxandria, thân thể nát tan thành hàng trăm mảnh. Người ta kể rằng khi Sứ Đồ Phierơ bị xử đóng đinh, ông đã xin một đặc ân là được treo ngược đầu xuống đất vì ông cảm thấy mình chẳng xứng để chịu cùng một loại pháp hình với Đức Chúa Jêsus. Sứ Đồ PhaoLô đã bị chém đầu. Sứ Đồ Giuđe bị xử đóng đinh. Sứ Đồ Batêlêmy đã bị đánh đập tơi bời trước khi đem treo lên thập tự giá. Sứ Đồ Thôma đã bị giáo đâm xuyên qua ngực cho chết. Theo truyền thuyết, Sứ Đồ Luca bị treo cổ trên một cây Ôlive. Sứ Đồ Simôn bị xử đóng đinh năm 74 SC. Banaba cũng đã bị hành hình trước đó một năm, năm 73 SC. II. Sỉ Nhục… Trút đổ những lời thóa mạ, hằn học hay trêu chọc nham nhở đối với các Cơ Đốc Nhân là chuyện thường tình. Làm công dân của Nước Thiên Đàng là chấp nhận mọi điều phỉ báng của thế gian. Đến như Đức Chúa Jêsus cũng đã từng phải chịu bạt tai, đánh đâp, sỉ vả suốt quãng đường lên đồi Gôgôtha. Lòng trung tín với Đức Chúa Jêsus của Cơ Đốc Nhân nhất định phải được trả giá bằng mọi loại lời lẽ sỉ nhục, chế nhạo. Không phải chỉ ở những xứ mà Cơ Đốc Giáo là thiểu số Cơ Đốc Nhân mới chịu khổ. Ngay tại các quốc gia tiên tiến cũng vẫn thế. Cơ Đốc Nhân tại Hoa Kỳ vẫn phải gặp sự chế nhạo, đố kỵ, kỳ thị,… Họ vẫn có thể bị chủ đuổi việc vì niềm tin tôn giáo của họ cũng giống như Cơ Đốc Nhân ở các nước Châu Á, Châu Phi,… III. Vu Cáo… Không những chỉ chịu sỉ nhục trước mặt, Cơ Đốc Nhân còn bị cáo kiện sau lưng nữa. Trong lịch sử nhân loại, Cơ Đốc Nhân là đối tượng để người ta “đổ thừa”: Đốt thành, giết trẻ em, ăn thịt người, lật đổ chế độ… Chúng ta không nên lấy làm lạ về những điều ấy, cả Giăng Báptít lẫn Đức Chúa Jêsus đều cùng chịu cáo buộc tương tự: “18Vì Giăng đã đến, không ăn, không uống, người ta nói rằng: Giăng bị quỉ ám. 19Con Người đến, hay ăn, hay uống, thì họ nói rằng: Kìa, là người ham mê ăn uống, bạn bè với người thâu thuế cùng kẻ xấu nết. Song le, sự khôn ngoan được xưng là phải, bởi những việc làm của sự ấy” (Ma. 11:18-19). B. PHẢN ỨNG CỦA CHÚNG TA… Cơ Đốc Nhân chỉ có duy nhất một thái độ để theo trước các sự bắt bớ đối với niềm tin của họ. Đó là sự vui vẻ chấp nhận: “Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ,…” (Ma. 5:12a) Đây là một sự dạy dỗ lạ lùng: “Hãy vui vẻ” (Gk. χαίρω [chairo]). Làm thế nào chúng ta có thể vui vẻ được khi phải chịu bắt bớ? Chúng ta chỉ có thể có thái độ ấy nếu thật lòng tin vào chương trình “Tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời” (Rô. 12:2). Chúng ta sẽ có thể vui vẻ đối với sự bắt bớ vì cớ niềm tin tôn giáo của mình khi tin quyết rằng Đức Chúa Trời đã sắm sẵn phần thưởng cho chúng ta: “… Vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; …” (Ma. 5:12b) Thánh đồ mọi thời đại đều biết vui vẻ, họ chấp nhận “Chịu đau đớn với Ngài hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài’ (Rô. 8:17). Sứ Đồ PhaoLô viết bởi Đức Thánh Linh để dạy chúng ta: “… 3Chúng ta cũng khoe mình trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn sanh sự nhịn nhục, 4sự nhịn nhục sanh sự rèn tập, sự rèn tập sanh sự trông cậy. 5Vả, sự trông cậy không làm cho hổ thẹn, vì sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta” (Rô. 5:3-5) Sứ Đồ Phierơ cũng viết dạy chúng ta theo cùng một ý tưởng ấy: “Nếu có ai vì làm tín đồ Đấng Christ mà chịu khổ, thì đừng hổ thẹn: Thà hãy vì Danh ấy ngợi khen Đức Chúa Trời là hơn” (1Phi. 4:16) Cơ Đốc Nhân chỉ có thể vui vẻ trước các sự bắt bớ khi họ nhận thức được một cách rõ ràng rằng đời sống trên thế gian này là tạm, và họ kể rằng “Đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời” (Côl. 3:3). Cơ Đốc Nhân chỉ có thể vui vẻ trước các sự bắt bớ khi họ không “19Chứa của cải ở dưới đất, là nơi có sâu mối, ten rét làm hư, và kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy; 20nhưng phải chứa của cải ở trên trời, là nơi chẳng có sâu mối, ten rét làm hư, cũng chẳng có kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy” (Ma. 6:19-20). Sự vui vẻ của Cơ Đốc Nhân trước các sự bắt bớ sẽ đến khi họ biết được rằng họ thuộc về đại gia đình các thánh đồ của mọi thời đại: “ … Bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các Đấng Tiên Tri trước các ngươi như vậy” (Ma. 5:12c, Sv. Hê. 11:32-40). Đức Tổng Giám Mục John Chrysostom (Tức John of Antioch, 347-407 SC., được tấn phong Linh Mục năm 386 SC., Tổng Giám Mục tại Constantinople năm 407 SC.) đã từng mạnh mẽ giảng dạy để vạch trần tội lỗi đến nỗi làm mếch lòng Hoàng Hậu Eudoxia cũng như nhiều chức sắc Giáo Hội khác. Khi Hoàng Đế Arcadius cho đòi vào để răn đe rằng nếu không chịu ngưng sự giảng dạy ấy sẽ bị lưu đày. John Chrysostom trả lời Hoàng Đế Arcadius: “Thưa Ngài, Ngài không thể nào lưu đày tôi được, vì cả thế gian này là nhà của Cha tôi!”. Khi Hoàng Đế Arcadius dọa giết, John Chrysostom dõng dạc trả lời: “Ngài không thề giết được tôi đâu, vì sự sống của tôi đã được giấu với Đức Chúa Jêsus Christ trong Đức Chúa Trời”. Tức giận, Hoàng Đế Arcadius hét lên: “Giỏi! Ta sẽ tịch thu hết tài sản nhà ngươi!”. John Chrysostom trả lời: “Thưa Ngài, đó cũng là một điều Ngài không sao làm được, vì tôi đã chứa của cải của tôi ở trên trời là nơi không ai có thể đào ngạch khoét vách mà lấy được!”. Hoàng Đế Arcadius ra quyết định: “Trẫm sẽ bắt nhà ngươi đến một nơi hoang vu, xa lạ; phải sống cô đơn không có bất cứ ai ở bên cạnh nhà ngươi cả”. John Chrysostom trả lời: “Không khi nào Ngài có thể làm được như thế vì Đức Chúa Trời của tôi có hứa rằng Ngài sẽ không bao giờ lìa bỏ tôi!”. Sau đó John Chrysostom đã bị phát vãn. Ban đầu phải chịu biệt cư ở Armenia. Vẫn không thỏa lòng, những kẻ bắt bớ John Chrysostom quyết định đày ông xa hơn về phía Hắc Hải, tại Pytius. Thế nhưng Arcadius đã không thể được toại nguyện vì trên đường đi Pytius, Đức Chúa Trời đã đón linh hồn John Chrysostom về Thiên Đàng để vui hưởng phước hạnh đời đời, thoát khỏi sự bắt bớ của đời ác này… “10Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy! 11Khi nào vì cớ Ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. 12Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các Đấng Tiên Tri trước các ngươi như vậy” (Ma. 5:10-12). C. PHẢI HIỂU CHO ĐÚNG… Để có thể hưởng được ơn phước Thiên Thượng, chúng ta cần phải hiểu đoạn văn Kinh Thánh này cho đúng. Phước hạnh và sự an ủi của đoạn văn Kinh Thánh này không dành cho tất cả những ai “bị bắt bớ’ mà chỉ dành cho những ai “chịu bắt bớ vì sự công bình”. Trong lịch sử nhân loại, có nhiều hoạt động tôn giáo và khá nhiều nhà hoạt động tôn giáo phải chịu bắt bớ, thế nhưng không phải tất cả các sự bắt bớ vì tôn giáo đều là “bắt bớ vì sự công bình”: “Trong anh em chớ có ai chịu khổ như kẻ giết người, như kẻ trộm cướp, như kẻ hung ác, như kẻ thày lay việc người khác…” (1Phi. 4:15) Phước hạnh không dành cho những người thực hành niềm tin tôn giáo của mình một cách lập dị, trái khoáy. Phước hạnh không dành cho những người phát triển niềm tin tôn giáo của mình một cách ngạo mạn, dối gạt, hay kém thiếu về đức khiêm nhường. Phước hạnh cũng không dành cho những con người giả danh tôn giáo… Kinh Thánh không hề hứa sự phước hạnh cho những con người ngoan cố, ngỗ ngáo. Kinh Thánh dạy: “16Kìa, Ta sai các ngươi đi khác nào như chiên vào giữa bầy muôn sói. Vậy, hãy khôn khéo như rắn, đơn sơ như chim bồ câu. 17Hãy coi chừng người ta; vì họ sẽ nộp các ngươi trước tòa án, đánh đòn các ngươi trong Nhà Hội…” (Ma. 10:16-17) Thật ra, những người “chịu bắt bớ vì sự công bình” chính là những người có đời sống bày tỏ được các mỹ đức của Đức Chúa Jêsus, họ có đời sống giống như Cứu Chúa của mình và cho Cứu Chúa của mình: “14Nếu anh em phải vì sự công bình mà chịu khổ, ấy thật là có phước. Chớ sợ điều họ sợ và đừng rối trí; 15nhưng hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ” (1Phi. 3:14-15) “Ví bằng anh em vì cớ Danh Đấng Christ chịu sỉ nhục, thì anh em có phước; vì sự vinh hiển và Thánh Linh của Đức Chúa Trời đậu trên anh em” (1Phi. 4:14) “18Ví bằng người đời ghét các ngươi, thì hãy biết rằng họ đã ghét Ta trước các ngươi. 19Nếu các ngươi thuộc về thế gian; thì người đời sẽ yêu kẻ thuộc về mình; nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian và Ta đã lựa chọn các ngươi giữa thế gian, bởi cớ đó người đời ghét các ngươi” (Gi. 15:18-19) Lời hứa trong sự dạy dỗ ở đây tương đồng với lời hứa dành cho “những kẻ có lòng khó khăn” (Ma. 5:3). Cả hai đối tượng này cùng được hưởng “Nước Thiên Đàng”. Trên một phương diện, “Nước Thiên Đàng” chính là kinh nghiệm bản thân về sự điều khiển, dắt dẫn của Đức Chúa Trời trên đời sống cá nhân. Để hưởng được “Nước Thiên Đàng”, trước hết người ta phải mở cửa lòng mình ra để đón nhận (Ma. 5:3). “Nước Thiên Đàng” là năng lực cảm thụ và đáp ứng với quyền năng Thiên Thượng khiến cho Cơ Đốc Nhân không còn sống theo các tiêu chí của thế gian. Một khi “Nước Thiên Đàng” ngự trị trong đời sống một người, bông trái Thánh Linh tất yếu phải được bày tỏ, và cũng chính vì thế mà Cơ Đốc Nhân phải “chịu bắt bớ” (Ma. 5:10) Ngày nay, thế gian bắt bớ Cơ Đốc Nhân vì cùng một lý do mà ngày xưa người ta đã bắt bớ Đức Chúa Jêsus. Cơ Đốc Nhân “chịu bắt bớ” vì phẩm hạnh của họ có tác dụng vạch trần tính chất bại hoại của đời này. Phẩm hạnh Cơ Đốc luôn luôn là mẫu đối chứng để thế gian nhận biết mỹ đức Thiên Đàng. Sự khác biệt giữa Cơ Đốc Nhân và người đời là một sự khác biệt căn bản, đó là sự khác biệt giữa sáng và tối. “Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hế nhận lấy sự sáng…” (Gi. 1:5). “Họ thấy anh em chẳng cùng họ theo sự dâm dật bậy bạ ấy, thì họ lấy làm lạ và gièm chê…” (1Phi. 4:4). Nhưng nào có hề gì! “19Sự cuối cùng của họ là hư mất, họ lấy bụng mình làm Chúa mình, và lấy sự xấu hổ của mình làm vinh hiển, chỉ tư tưởng về các việc thế gian mà thôi. 20Nhưng chúng ta là công dân trên trời, ấy là từ nơi đó mà chúng ta trông đợi Cứu Chúa của mình là Đức Chúa Jêsus Christ, 21Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật” (Phil. 3:19-21) (Rev. Doan Nhat Tan, PhD)
“PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ LÀM CHO NGƯỜI HÒA THUẬN!” (Ma. 5:9) “Bài Giảng Trên Núi” của Đức Chúa Jêsus về “Các Phước Lành” vĩnh viễn là một núi kim cương hùng vĩ, lấp lánh các nguyên lý Thiên Đàng. Mỗi khi tiếp cận phân đoạn Kinh Thánh này (Ma. 5:1-12), với sự hiểu biết thô thiển và kinh nghiệm ít oi của bản thân, tôi luôn thấy mình chỉ như một đứa bé, choáng ngợp trước vô vàn tia sáng phản chiếu vinh quang Thiên Thượng. Tôi muốn lĩnh hội sao cho được trọn vẹn nhưng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. Tôi muốn diễn đạt cho sao cho thật khúc chiết để làm ích nhiều nhất cho đàn chiên nhỏ bé mà Đức Chúa Trời đã ủy thác cho tôi chăm nuôi nhưng, đáng thương thay, cũng chỉ là những lời thô thiển, tầm thường… Ước ao rằng chính Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ cho người đọc có được những sự nội kiến đẹp ý Đức Chúa Trời; còn những gì được viết ra đây chỉ là chỗ dựa cho sự tri giác, giúp cho sự suy gẫm được thuận lợi hơn… “Tolle lege, tolle lege” (“Cứ đọc đi! Cứ đọc đi!”) [St. Augustine, 354-430] (Mục Sư Đoàn Nhật Tân, Tháng Mười 2006) Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy dẫy sự đấu đá và tranh cạnh mà mọi lĩnh vực xã hội đều chịu ảnh hưởng nghiêm trọng. Giữa một bối cảnh như vậy, Đức Chúa Trời kêu gọi Dân Ngài hãy sống làm người hiếu hòa. “Phước cho những kẻ làm cho người hòa thuận, vì sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời!” (Ma. 5:9). Để có thể hiểu được điều gì Đức Chúa Trời muốn cho chúng ta sống theo, cần phải hiểu rõ thế nào là “bất hòa”, thế nào là “ngụy hòa”, và thế nào mới là “hiếu hòa” theo ý muốn của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh. I. NGƯỜI BẤT HÒA Người bất hòa là người theo đuổi một đường lối làm suy yếu, đổ vỡ các mối quan hệ để tạo nên các sự trục trặc và chia rẽ. Người bất hòa chỉ biết lôi kéo người khác để thỏa mãn ý muốn chủ quan và bản ngã của họ. Kinh Thánh có những lời dạy về họ rất dứt khoát, minh bạch: “17Hỡi anh em, tôi khuyên anh em coi chừng những kẻ gây nên bè đảng và làm gương xấu, nghịch cùng sự dạy dỗ mà anh em đã nhận. Phải tránh xa họ đi. 18Vì những kẻ đó chẳng hầu việc Đấng Christ, Chúa chúng ta, song hầu việc cái bụng họ, và lấy những lời ngọt ngào dua nịnh dỗ dành lòng kẻ thật thà” (Rô. 16:17-18). Hội Thánh của Đức Chúa Trời không thể nào dung túng những con người bất hòa được, vì người bất hòa sẽ thủ tiêu các nguyên tắc sống còn của Hội Thánh Địa Phương. Những người bất hòa luôn chống lại sự vận hành của Đức Chúa Trời, họ là tác nhân ngăn trở đối với sự phấn hưng vì ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống Hội Thánh. Ngược lại, Kinh Thánh đề cao sự hòa thuận, lấy đó làm nguyên tắc sống cho đời sống của cộng đoàn Dân Chúa: “1Kìa, anh em ăn ở hòa thuận nhau_Thật tốt đẹp thay!_2Ấy khác nào dầu quí giá đổ ra trên đầu,_Chảy xuống râu, tức râu của Arôn,_Chảy đến trôn áo người…” (Thi. 133:1-2). Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể loại bỏ sự bất hòa (cũng như người bất hòa) khỏi Hội Thánh nếu từng người chúng ta biết tra xét chính tấm lòng của mình! “1Hỡi anh em, trong vòng anh em chớ có nghiều người tự lập làm thầy, vì biết như vậy, mình sẽ phải chịu xét đoán càng nghiêm hơn. 2Chúng ta thảy đều vấp phạm nhiều cách lắm. Nếu có ai không vấp phạm trong lời nói mình, ấy là người trọn vẹn, hay hãm cầm cả mình” (Gia. 3:1-2). Con đường ngắn nhất để đi đến sự bất hòa là việc sử dụng môi miệng vô nguyên tắc: Nói hành, nhiều chuyện, phao phản, xét đoán,… Đó chính là điều sẽ tạo ra rạn nứt, phân rẽ dẫn đến sụp đỗ. Gài cho Cơ Đốc Nhân mắc bẫy bằng chính môi miệng của họ là một loại vũ khí dầu rất cổ điển nhưng vô cùng lợi hại mà Satan luôn luôn tận dụng để phá hoại Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Chúng ta phải hết sức thận trọng trong sự tiết độ môi miệng: “9Bởi cái lưỡi chúng ta khen ngợi Chúa, Cha chúng ta, và cũng bởi nó chúng ta rủa sả loài người, là loài tạo theo hình ảnh Đức Chúa Trời. 10Đồng một lỗ miệng mà ra cả sự khen ngợi và rủa sả! Hỡi anh em, không nên như vậy!” (Gia. 3:9-10). II. NGƯỜI NGỤY HÒA Đức Chúa Trời đòi hỏi phải loại trừ sự bất hòa (cũng như người bất hòa) ra khỏi Hội Thánh của Ngài. Tuy nhiên, Kinh Thánh cũng không hỗ trợ cho thái độ ngụy hòa: “14Ngài muốn chúng ta không như trẻ con nữa, bị người ta lừa đảo, bị mưu chước dỗ dành làm cho lầm lạc, mà day động và dời đổi theo chiều gió của đạo lạc, 15nhưng muốn chúng ta lấy lòng yêu thương nói ra lẽ chân thật, để trong mọi việc chúng ta đều được thêm lên trong Đấng Làm Đầu, tức là Đấng Christ” (Êph. 4:14-15). Người ngụy hòa cho rằng “hòa thuận” là không được có bất kỳ sự tranh luận, dị biệt nào cả; là phải chấp nhận tất cả. Đối với người ngụy hòa, lẽ thật Kinh Thánh không cần phải có vị trí ưu tiên hàng đầu, mà ưu tiên hàng đầu là sự đầu hàng: Cất bỏ tất cả mọi sự, kể cả lẽ thật Kinh Thánh, để có thể chấp nhận tất cả mọi sự, kể cả những điều phi Kinh Thánh và phản Kinh Thánh. Người ngụy hòa sẵn sàng uốn cong Lời Kinh Thánh cho phù hợp với chủ trương của họ. Họ coi thường các sự dạy dỗ Kinh Thánh để theo đuổi xúc cảm riêng và tham vọng ích kỷ một cách rất bản năng: “…10Những kẻ nầy, hễ điều gì không biết thì khinh dễ hết, và mọi điều chúng nó tự nhiên mà biết cũng như con thú vật vô tri, thì dùng mà làm hư mình. 11Khốn nạn thay cho chúng nó, vì đã theo đường của Cain, lấy lòng tham lợi mà gieo mình vào sự sai lạc của Balaam, và bị hư mất về sự phản nghịch của Côrê” (Giu. 10-11). Trên phương diện bản chất, thái độ ngụy hòa chính là một biến tướng của chủ nghĩa thỏa hiệp. Trên phương diện lý thuyết, thái độ ngụy hòa là phi hiện thực và phản Kinh Thánh. Trên phương diện thực tế, không thể nào dung hợp được giữa sự sáng và sự tối. Cuộc đấu tranh giữa sáng và tối là một cuộc đấu tranh không khoan nhượng. Đối với thái độ ngụy hòa (tức chủ nghĩa thỏa hiệp), Cơ Đốc Nhân, nếu là Cơ Đốc Nhân chân chính, phải để Lời Kinh Thánh “nói ra lẽ chân thật, để trong mọi việc chúng ta đều được thêm lên trong Đấng Làm Đầu, tức là Đấng Christ”: “Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng” (Gi. 1:5). “14Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin. Bởi vì công bình với gian ác có hội hiệp nhau được chăng? Sự sáng với sự tối có thông đồng với nhau được chăng? 15Đấng Christ và Bêlian nào có hòa hiệp chi, hay là kẻ tin có phần gì với kẻ chẳng tin?... 17Bởi vậy Chúa phán rằng:_Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó,_Đừng đá động đến đồ ô uế,_Thì Ta sẽ tiếp nhận các ngươi” (2Cô. 6:14-15, 17). “Đấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do, vậy hãy đứng vững, chớ lại để mình dưới ách tôi mọi nữa” (Gal. 5:1). Kinh Thánh không cho phép Cơ Đốc Nhân thỏa hiệp, đầu hàng mà là phải vững vàng, triệt để trong cuộc chiến cho lẽ thật của Đức Chúa Trời: “…Hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ” (1Phi. 3:15). “Song điều tôi làm, tôi còn làm nữa, để cất mọi mưu của kẻ tìm mưu, hầu cho trong những sự họ lấy mà khoe mình, chẳng có một sự nào trỗi hơn chúng tôi được” (2Cô. 11:12). A.. W. Tozer viết như sau: “‘Một cây làm chẳng nên non’ là câu nói cửa miệng của những nhà lãnh đạo chính trị nham hiểm, và Satan cũng biết cách làm thế nào để lừa bịp Dân Chúa bằng câu ‘Ba cây chụm lại thành hòn núi cao’… Sức mạnh nằm bên trong sự hiệp nhất của những yếu tố tương đồng, và cũng nằm bên trong sự phân rẽ của những yếu tố dị biệt… Mọi người đều mong ước sự hòa bình, nhưng phấn hưng chỉ có thể đến sau lưỡi gươm của Đức Chúa Jêsus Christ”. Đức Chúa Jêsus phán: “34Chớ tưởng rằng Ta đến để đem sự bình an cho thế gian; Ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm giáo. 35Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia; 36và người ta sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình” (Ma. 10:34-36). III. NGƯỜI HIẾU HÒA Ai cũng biết Đức Chúa Jêsus là Sứ Giả Bình An từ Thiên Thượng, Ngài là Đấng Hiếu Hòa, nhưng chính Ngài lại phán những lời lạ lùng ấy! Điều này giúp cho chúng ta biết được rằng sự bình an mà Đức Chúa Jêsus thiết lập không cùng một loại theo quan niệm của thế gian. Sự bình an mà Đức Chúa Jêsus đem đến cho chúng ta không chỉ có nghĩa là một trạng thái không tranh chiến. Sứ mệnh thiêng liêng của Đức Chúa Jêsus là đem mọi người trở về với Đức Chúa Trời. Việc đem nhân loại trở về với Đức Chúa Trời là việc lội dòng nước ngược, là làm thay đổi các thứ tự ưu tiên. Đem nhân loại trở về với Đức Chúa Trời là giúp cho “những kẻ có lòng khó khăn” biết “than khóc” cho thân phận mình để trở thành “những kẻ nhu mì”, biết “đói khát sự công bình”, trở nên “hay thương xót”, và “có lòng trong sạch”. Đem nhân loại trở về với Đức Chúa Trời đồng nghĩa với việc chấp nhận một cuộc tranh chiến toàn diện và triệt để! Tuy nhiên, đó mới là sự vận động chân chính của quá trình dẫn đến hình thành con người hiếu hòa, thái độ hiếu hòa: Hòa thuận với Đức Chúa Trời, hòa hợp chính trong bản thân, nhiên hậu mới hòa bình được với tha nhân. Đức Chúa Jêsus là xuất phát điểm mà cũng là đích điểm của tiến trình ấy: “Bởi huyết Ngài trên thập tự giá, thì đã làm nên hòa bình, khiến muôn vật dưới đất trên trời đều nhờ Ngài mà hòa thuận cùng chính mình Đức Chúa Trời” (Côl. 1:20). Không thể làm một người hiếu hòa khi vấn đề tội lỗi đối với Đức Chúa Trời chưa được xử lý xong. Tuy nhiên, không thể xử lý được vấn đề tội lỗi đối với Đức Chúa Trời mà không thông qua Đức Chúa Jêsus: “Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ…” (1Ti. 2:5). “Vả, Đấng Christ cũng vì tội lỗi chịu chết một lần, là Đấng công bình thay cho kẻ không công bình, để dẫn chúng ta đến cùng Đức Chúa Trời…” (1Phi. 3:18). “Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được hòa thuận với Đức Chúa Trời, bởi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta” (Rô. 5:1). Trạng thái nội tại của con người khi chưa tiếp nhận sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus là trạng thái tự tranh chiến giữa các yếu tố xung khắc nhau trong lý trí, ý chí, và tình cảm. Sự bình an với Đức Chúa Trời sẽ thay đổi nhân sinh quan, thế giới quan, và phương pháp luận của mỗi người đã từng một thời bị cầm tù trong sự lừa dối của kẻ thù thuộc linh là tư dục, thế gian, và Ma Quỉ. Sự bình an ấy có tác dụng khai phóng viễn cảnh của chúng ta. Một người sau khi thiết lập trở lại quan hệ phải lẽ với Đức Chúa Trời qua việc tiếp nhận sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus vẫn mang tên gọi cũ, vẫn còn thân xác cũ, nhưng lại là một con người đã được đổi mới về bản chất và trong các mối quan hệ; và mọi sự trở nên hòa hợp trong họ: “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (2Cô. 5:17). “Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Phil. 4:17). Mệnh lệnh của Đức Chúa Trời là “hãy cầu sự bình an với mọi người” (Côl. 3:15), thế nhưng sự bình an thể hiện qua thái độ hiếu hòa chân chính chỉ có thể có trong đời sống công nghĩa của những con người đã được xưng công nghĩa bởi Ân Điển của Đức Chúa Trời: “Vả, bông trái của điều công bình thì gieo trong sự hòa bình, cho những kẻ nào làm sự hòa bình vậy” (Gia. 3:18). “Mọi điều đó đến bởi Đức Chúa Trời, Ngài đã làm cho chúng ta nhờ Đấng Christ mà được hòa thuận lại cùng Ngài, và đã giao chức vụ giảng hòa cho chúng ta” (2Cô. 5:18). “Con Đức Chúa Trời” có hai nghĩa: (1) Nghĩa xác lập: Được tái sanh bởi Đức Chúa Trời, và (2) Nghĩa thể hiện: Sống đời sống tái sanh. Theo phương diện thứ nhất, chỉ có trở thành con cái của Đức Chúa Trời bằng việc tiếp nhận sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus người ta mới có thể trở nên “kẻ làm cho người hòa thuận”. Theo phương diện thứ hai, “kẻ làm cho người hòa thuận” xác lập được chức phận con Đức Chúa Trời của mình trong thực tế cuộc sống bằng đời sống hiếu hòa. Trong lời dạy “Phước cho những kẻ làm cho người hòa thuận, vì sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời!”, từ liệu “con” (Gk. huios) nhấn mạnh đến địa vị cao trọng được thể hiện ra trong đời sống thực tiễn. “Được gọi là con Đức Chúa Trời” tức là được nhìn nhận qua thực tế rằng đã có được sự bình an thật mà Đức Chúa Trời trao ban trong và qua Đức Chúa Jêsus, có sự bình an bản thân của một đời sống tái sanh, và có sự bình an với tha nhân trong chức vụ giảng hòa bằng Tin Lành Cứu Rỗi: “Con Đức Chúa Trời” phải sống rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi họ “ra khỏi nơi tối tăm, đến nới sáng láng lạ lùng của Ngài” (1Phi. 2:9). Họ là “kẻ làm cho người hòa thuận” chứ không còn là người thỏa hiệp, đầu hàng, hay gieo bất hòa vì lợi ích ích kỷ nữa. (Rev. Doan Nhat Tan, PhD)
“PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ CÓ LÒNG TRONG SẠCH!” (Ma. 5:8) “Bài Giảng Trên Núi” của Đức Chúa Jêsus về “Các Phước Lành” vĩnh viễn là một núi kim cương hùng vĩ, lấp lánh các nguyên lý Thiên Đàng. Mỗi khi tiếp cận phân đoạn Kinh Thánh này (Ma. 5:1-12), với sự hiểu biết thô thiển và kinh nghiệm ít oi của bản thân, tôi luôn thấy mình chỉ như một đứa bé, choáng ngợp trước vô vàn tia sáng phản chiếu vinh quang Thiên Thượng. Tôi muốn lĩnh hội sao cho được trọn vẹn nhưng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. Tôi muốn diễn đạt cho sao cho thật khúc chiết để làm ích nhiều nhất cho đàn chiên nhỏ bé mà Đức Chúa Trời đã ủy thác cho tôi chăm nuôi nhưng, đáng thương thay, cũng chỉ là những lời thô thiển, tầm thường… Ước ao rằng chính Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ cho người đọc có được những sự nội kiến đẹp ý Đức Chúa Trời; còn những gì được viết ra đây chỉ là chỗ dựa cho sự tri giác, giúp cho sự suy gẫm được thuận lợi hơn… “Tolle lege, tolle lege” (“Cứ đọc đi! Cứ đọc đi!”) [St. Augustine, 354-430] (Mục Sư Đoàn Nhật Tân, Tháng Mười 2006) Billy Graham có lần đã nói như thế này: “Tất cả chúng ta đều phải chịu khổ vì một chứng bệnh chung trên toàn thế giới. Nan đề chính của thế giới không phải là vấn đề chủng tộc. Nan đề chính của thế giới không phải là vấn đề chiến tranh. Nan đề chính của cả thế giới này là vấn đề sự bệnh hoạn của tấm lòng”. Kinh Thánh tuyên cáo vấn đề ấy một cách tỏ tường và đầy nghiêm túc: “9Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất xấu xa: Ai có thể biết được? 10Ta, Đức Giêhôva, dò xét trong trí, thử nghiệm trong lòng, báo cho mỗi người tùy đường họ đi, tùy kết quả của việc họ làm” (Giê. 17:9-10). I. MỘT THỰC TRẠNG Về nguyên tắc cũng như theo thực tế, điều gay go là ở chỗ tấm lòng của con người đều đã bại hoại theo những chừng mực nhất định nào đó. Mỗi một người chúng ta đều bị lúng túng trong một sự mâu thuẫn muôn thuở giữa việc toàn tâm, toàn trí theo Chúa với việc thỏa mãn các sự đòi hỏi tự nhiên của con người chúng ta. Cuộc tranh chiến giữa hai con đường ấy được Sứ Đồ Phaolô xác nhận: “18Vả, tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi đâu, nghĩa là trong xác thịt tôi, bởi tôi có muốn làm điều lành, nhưng không có quyền làm trọn. 19Vì tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn. 20Ví bằng tôi làm điều mình không muốn, ấy chẳng phải là tôi làm điều đó nữa, nhưng là tội lỗi ở trong tôi vậy. 21Vậy tôi thấy có luật này ở trong tôi: Khi tôi muốn làm điều lành, thì điều dữ dính dấp theo tôi” (Rô. 7:18-21). Chúng ta phải biết rõ và phải nhìn nhận một thực trạng là sức mạnh của tội lỗi vẫn còn hiện hữu trong con người chúng ta. Chúng ta phải nhìn nhận rằng sự hoành hành của tội lỗi trong xác thịt của chúng ta đã làm lu mờ hình ảnh của Cứu Chúa mà chúng ta vốn đã nhận được khi tiếp nhận sự cứu rỗi của Ngài. Chúng ta phải thành thật ngay với chính mình để quay lại trong sự nương cậy: “24Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy? 25Cảm tạ Đức Chúa Trời, nhờ ơn Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta!” (Rô. 7:24-25). II. MỘT SỰ KÊU GỌI Trong “Bài Giảng Trên Núi”, Đức Chúa Jêsus đã đề cập đến một nguyên lý chi phối toàn bộ đời sống chúng ta: “Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ thấy Đức Chúa Trời!” (Ma. 5:8). Dầu rằng chỉ là một lời dạy ngắn gọn nhưng đây chính là tấm bản đồ chỉ đường cho Cơ Đốc Nhân đi đến với lời hứa về cuộc hạnh ngộ riêng tư với Đức Chúa Trời. Sự kêu gọi ở đây là sự kêu gọi về tấm lòng trong sạch. Lời phán này của Đức Chúa Jêsus cho thấy rằng tấm lòng của chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời có vai trò quan trọng quyết định. Trong cương vị là tín hữu của Đức Chúa Trời, ưu tiên hàng đầu của chúng ta là phải giữ cho được một tấm lòng trong sạch đối với Ngài. Đức Chúa Trời quan tâm một cách đặc biệt đến tình trạng của tấm lòng chúng ta; Đối với Ngài, mọi sự khác đều kém quan trọng hơn: “Nhưng Đức Giêhôva phán cùng Samuên rằng: Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó, vì Ta đã bỏ nó. Đức Giêhôva chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giêhôva nhìn thấy trong lòng” (1Sa. 16:7). Đức Chúa Trời bỏ qua ngoại hình của một người, và ngoại hiện của hành vi người ấy để nắm bắt thẳng vào vấn đề chính: Đó là tình trạng của tấm lòng: “Các đường lối của loài người đều chính đáng theo mắt họ;_Song Đức Giêhôva cân nhắc cái lòng” (Châm. 21:2). Đức Chúa Trời “cân nhắc” (Hb. takan) tức là Ngài xem xét và đánh giá xem có phù hợp theo ý chỉ đời đời và các chuẩn mực thiện hảo của Ngài hay không. Từ thời Cựu Ước, Đức Chúa Trời đã luôn luôn nêu cao vấn đề thái độ công chính của tấm lòng. Đavít tỏ ra thấu đáo về mối quan tâm ấy của Đức Chúa Trời khi ông dâng lời cầu nguyện cho Salômôn có được “một tấm lòng trọn vẹn”: “Tôi xin Chúa hãy ban cho Salômôn, con trai tôi, một tấm lòng trọn vẹn, để gìn giữ các điều răn, chứng cớ, và luật lệ của Chúa, cùng làm cho các công việc nầy, xây cất cái đền mà tôi đã sắm sửa tài liệu cho” (1Sử. 29:19). Tấm lòng quan trọng vì trạng thái của tấm lòng sẽ qui định địa vị của một người trước mặt Đức Chúa Trời. Nói cách khác, khi tấm lòng không biết “đói khát sự công bình” (Ma. 5:7), tức không có khát vọng về Chúa, người ta sẽ bị điều ác cuốn hút mất: “Rôbôam làm điều ác, vì không rắp lòng tìm cầu Đức Giêhôva” (2Sử. 12:14). Như vậy, chúng ta cần phải học cho biết khi Đức Chúa Jêsus phán về vấn đề tấm lòng “trong sạch”. Sự trong sạch mà Ngài đòi hỏi có nghĩa như thế nào? Phải chăng “trong sạch” là “hoàn hảo”, hay “vô nhiễm”? Nếu quả thật sự “trong sạch” mà Đức Chúa Jêsus dạy ở đây có nghĩa như thế thì tất cả chúng ta đều bị nguy to! “Trong sạch” được dịch từ katharos là một từ liệu Hylạp. Từ liệu này có nghĩa là “làm cho trở nên thanh khiết bằng cách tẩy rửa cho sạch”. Sự “trong sạch” nói về việc tẩy rửa cho tâm trí, ý chí, và tình cảm khỏi các sự ô uế; nhiên hậu, đem đặt dưới và làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời: “Sự tin đạo thanh sạch không vết, trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, là: Thăm viếng kẻ mồ côi, người góa bụa trong cơn khốn khó của họ, và giữ lấy mình cho khỏi sự ô uế của thế gian” (Gia. 1:27). Lòng “trong sạch” là tấm lòng được tẩy rửa cho khỏi sự chi phối của một tâm trí mê muội bởi tri thức ngụy xưng, một ý chí ngoan cố, và một tình cảm không trong sáng. Khi Kinh Thánh Cựu Ước nói về tấm lòng, cả ba lĩnh vực tâm trí, ý chí, và tình cảm đều được bao gồm trong đó: “Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con hơn hết,_Vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra” (Châm. 4:23). Tương tự như vậy, Kinh Thánh Tân Ước cũng gồm tóm ba lĩnh vực ấy trong phạm trù “tấm lòng”: “Vì từ nơi lòng mà ra những ác tưởng, những tội giết người, tà dâm, dâm dục, trộm cướp, làm chứng dối, và lộng ngôn” (Ma. 15:19). “Tấm lòng” gồm luôn cả tâm trí và ý chí chứ không phải chỉ có tình cảm. Tấm lòng của một người sẽ qui định toàn bộ hành vi của người ấy. Hiển nhiên là khi Đức Chúa Jêsus phán dạy về “lòng trong sạch”, Ngài kêu gọi về động cơ trong sạch cho hành vi chứ không phải chỉ là sự xúc cảm của nội tâm, Ngài kêu gọi về hành động chứ không phải chỉ là sự cảm động: “7Vậy, hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em. 8Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; 9hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:7-10). III. MỘT TƯƠNG LAI Theo lời phán dạy này của Đức Chúa Jêsus, lý do duy nhất khiến chúng ta phải có cho được “lòng trong sạch” là để “thấy Đức Chúa Trời”. Theo cách diễn đạt dưới ngòi bút của Sứ Đồ Giacơ, “Thấy Đức Chúa Trời” là được Ngài đến gần, và để được Ngài “đến gần” Cơ Đốc Nhân phải chủ động đến gần Ngài. Tuy nhiên, “thấy” phải được hiểu như thế nào cho đúng theo ý chỉ Thiên Thượng là một vấn đề quan trọng. Bà Helen Keller vừa mù, vừa điếc. Một ngày kia, có người tỏ ra thấu cảm hoàn cảnh của bà và đã nói như thế này: “Bà ơi, vừa mù lại vừa điếc quả thật là quá khủng khiếp nhỉ?”. Helen Keller đã làm cho mọi người phải kinh ngạc đến sửng sốt khi câu trả lời của bà như sau: “Thà tôi mù mà thấy được bằng tấm lòng của mình còn hơn là sáng cả hai mắt nhưng lại chẳng thấy gì hết!”. Một sự thật hiển nhiên là người ta có thể “thấy” bằng tấm lòng của mình trên những phương diện nào đó. Một khi Đức Chúa Jêsus đã phán rằng “Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ thấy Đức Chúa Trời” thì có nghĩa là nếu tấm lòng càng được trong sạch, người ta sẽ càng nhìn thấy Đức Chúa Trời rõ hơn! Khi một người càng “đói khát sự công bình”, người ấy sẽ càng “được no đủ” (Ma. 5:7). Một khi tấm lòng càng xu hướng về Đức Chúa Trời thì càng được những sự thuộc về Đức Chúa Trời cuốn hút; người ta càng ít bị chi phối, xao lãng bởi các sự khác; họ đơn thuần hơn, chân thành hơn trong việc tìm kiếm Đức Chúa Trời; tấm lòng của họ trở nên thuần thành với Đức Chúa Trời hơn vì chỉ có sự khát khao Đức Chúa Trời là mãnh liệt hơn hết trong lòng họ mà thôi. Một khi tấm lòng của chúng ta càng trở nên “trong sạch”, Lời Chúa càng được khắc ghi sâu đậm trong lòng chúng ta. Khi được Lời Đức Chúa Trời đáp đậu trong tấm lòng, chúng ta luôn nhận ra được ý muốn, tình yêu thương, và khải tượng mà Đức Chúa Trời dành cho đời sống mình: “Nguyền xin Lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời” (Côl. 3:16). Chúng ta chẳng những được sống vui thỏa mà còn được chia sẻ sự vinh hiển của Cứu Chúa chúng ta, sống bày tỏ Ngài qua đời sống chúng ta nữa. Một khi lòng chúng ta trong sạch, chúng ta có năng lực cảm thụ cao độ các giá trị mà Ngài quan tâm. Các thuộc tính vinh hiển của Đức Chúa Trời được Ngài bày tỏ khi chúng ta đến gần Ngài sẽ được chúng ta thực hành bởi sự ban quyền năng của Đức Thánh Linh. Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sẽ được tha nhân nhận ra ngay trên đời sống chúng ta: “Chúng ta ai nấy đều để mặt trần mà nhìn xem vinh hiển của Chúa như trong gương, thì hóa nên cũng một ảnh tượng Ngài, từ vinh hiển qua vinh hiển, như bởi Chúa, là Thánh Linh” (2Cô. 3:18). Tuy nhiên, đỉnh cao của cuộc hạnh ngộ giữa người “có lòng trong sạch” với Đức Chúa Trời là thuộc về tương lai, khi họ được đối diện Đức Chúa Trời trong thân thể mới! Chúng ta chưa biết được một cách đầy đủ lắm về ngày phước hạnh ấy, nhưng chúng ta có thể chắc chắn là trong nháy mắt, ngay vào tích tắc đầu tiên được đối diện Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ tận hưởng một niềm vui mà cả đời này gộp lại cũng không bằng. Chúng ta sẽ được quyến rũ đến ngất ngây bởi sự vinh hiển của Ngài. Kinh Thánh luôn dạy cho chúng ta rằng niềm khát khao “thấy Đức Chúa Trời” là đỉnh cao của sự trông cậy. “Thấy Đức Chúa Trời” là một quá trình tiệm tiến trong đời sống Cơ Đốc Nhân; là niềm tin và lẽ sống của những người “có lòng trong sạch” theo nghĩa hợp Kinh Thánh: “25Còn tôi, tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi vẫn sống,_Đến lúc cuối cùng Ngài sẽ đứng trên đất._26Sau khi da tôi, tức xác thịt nầy, đã bị tan nát,_Bấy giờ ngoài xác thịt tôi sẽ xem thấy Đức Chúa Trời;_27Chánh tôi sẽ thấy Ngài,_Mắt tôi sẽ nhìn xem Ngài, chớ chẳng phải kẻ khác,_Lòng tôi hao mòn trong mình tôi” (Gióp 19:25-27). “Kẻ có lòng trong sạch” thuộc về một chủng loại hiếm hoi trong xã hội loài người thời hiện đại, nhưng họ không thể bị tiệt chủng được bất chấp mọi nổ lực diệt chủng của Satan và các quỉ sứ của nó! Tính hiếm hoi có thể nhận ra ngay giữa vòng các Hội Thánh Địa Phương của Đức Chúa Trời! Thực tế hiển nhiên là chúng ta dễ thất vọng khi khó tìm thấy được giữa vòng Dân Sự Đức Chúa Trời những người có tâm tình đơn thuần, có đời sống thành tâm tận hiến cho Ngài. Tuy nhiên, phương tiến triển của Hội Thánh của Đức Chúa Trời là xu thế tất yếu vì “Các cửa Âm Phủ chẳng thắng được Hội đó” (Ma. 16:18)! Điều mà Đức Chúa Trời muốn đối với mỗi người chúng ta là chúng ta “9Hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:7-10). Đức Chúa Trời muốn chúng ta đến với Ngài, và cách để làm được việc ấy không phải là lý sự mà là tâm sự với Ngài: “Đức Chúa Trời ôi! Hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch,_Và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng” (Thi. 51:10). (Rev. Doan Nhat Tan, PhD)
“PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ HAY THƯƠNG XÓT!” (Ma. 5:7) “Bài Giảng Trên Núi” của Đức Chúa Jêsus về “Các Phước Lành” vĩnh viễn là một núi kim cương hùng vĩ, lấp lánh các nguyên lý Thiên Đàng. Mỗi khi tiếp cận phân đoạn Kinh Thánh này (Ma. 5:1-12), với sự hiểu biết thô thiển và kinh nghiệm ít oi của bản thân, tôi luôn thấy mình chỉ như một đứa bé, choáng ngợp trước vô vàn tia sáng phản chiếu vinh quang Thiên Thượng. Tôi muốn lĩnh hội sao cho được trọn vẹn nhưng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. Tôi muốn diễn đạt cho sao cho thật khúc chiết để làm ích nhiều nhất cho đàn chiên nhỏ bé mà Đức Chúa Trời đã ủy thác cho tôi chăm nuôi nhưng, đáng thương thay, cũng chỉ là những lời thô thiển, tầm thường… Ước ao rằng chính Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ cho người đọc có được những sự nội kiến đẹp ý Đức Chúa Trời; còn những gì được viết ra đây chỉ là chỗ dựa cho sự tri giác, giúp cho sự suy gẫm được thuận lợi hơn… “Tolle lege, tolle lege” (“Cứ đọc đi! Cứ đọc đi!”) [St. Augustine, 354-430] (Mục Sư Đoàn Nhật Tân, Tháng Mười 2006) Có chuyện kể rằng một ngày nọ John Westley đến thăm tướng Ogelthorpe khi vị này còn cai trị Georgia như một thuộc địa. Tướng Ogelthorpe kể cho John Westley nghe về chuyện một người nọ đã làm cho ông tức giận. Tướng Ogelthorpe nói một cách cương quyết: “Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho người này cả!”. Nghe nói thế, John Westley ôn tồn nói: “Thưa ngài, vậy tôi hy vọng rằng ngài sẽ không bao giờ phạm tội cả!”. Hiển nhiên là John Westley muốn ngầm nhắc nhở cho vị tướng nghiêm khắc kia về lời dạy của Đức Chúa Jêsus: “Phước cho những kẻ hay thương xót vì sẽ được thương xót!” (Ma. 5:7). Với sự dạy dỗ này của Đấng tể trị cả vũ trụ, chúng ta có thể nói rằng việc sống mà không có lòng thương xót chính là giấy bảo đảm cho một quá trình chết không được xót thương! Tại sao? Ấy là vì Đấng Tối Cao dạy rằng muốn nhận được sự thương xót thì người ta phải sống tha thứ, nhân từ. Vậy, thế nào là sự thương xót? Cơ Đốc Nhân làm thế nào để có thể sống giàu lòng thương xót? Và, người ta sẽ nhận được những gì từ nếp sống thương xót của mình? I. SỰ THƯƠNG XÓT LÀ GÌ? Từ liệu “thương xót” được dùng khoảng 250 lần trong Kinh Thánh Cựu Ước. Từ liệu này cũng còn có thể được hiểu là “lòng nhân từ” (96 lần), “lòng tốt” (38 lần). Từ liệu này xuất hiện 6 lần trong Kinh Thánh Tân Ước (Ma. 5:7; Lu. 6:36; 18:13; Hê. 2:17; 8:12) trong đó có 1 lần được dịch trong Kinh Thánh Tân Ước là “tha thứ” (Hê. 8:12). “Thương xót” theo Kinh Thánh không phải chỉ thuần túy là cảm xúc; sự thương xót hợp Kinh Thánh không bao giờ chỉ thuần túy là một phó sản của chủ nghĩa cảm xúc cả! “Hay thương xót”, tức là “giàu lòng thương xót”, vượt xa hơn việc “chảy nước mắt” do xúc động vì thương cảm. Tất nhiên là những người giàu lòng thương xót lắm khi đã khóc thể theo sự xúc cảm dấy lên trong lòng họ. Chính Đức Chúa Jêsus cũng đã không cần phải kiềm chế nước mắt của Ngài trước nỗi đau quằn quại của Mathê và Mari đối với cái chết của anh họ là Laxarơ; Kinh Thánh cho biết rằng “Đức Chúa Jêsus khóc” (Gi. 11:35). Một lần khác, khi Đức Chúa Jêsus nhìn thành Giêrusalem, nghĩ về tai họa tương lai của thành, Ngài cũng đã khóc cho thành. Thật đáng để chúng ta ghi nhận rằng dầu là Đấng Chủ Tể cả vũ trụ, Đức Chúa Jêsus cũng đã khóc. Thế nhưng, Đức Chúa Jêsus đã làm nhiều hơn là khóc: Ngài không những chỉ khóc cho chúng ta, Ngài còn phó mình Ngài để chuộc chúng ta ra khỏi sự khóc lóc đời đời nữa. Vấn đề chính là không phải chỉ có khóc, có lắm người đã khóc rất nhanh và rất nhiều nhưng đó là cái khóc vô nghĩa và không hề đem lại một kết quả có ích nào cả. “Sự thương xót” hợp Kinh Thánh không phải chỉ là chủ nghĩa nhân đạo mà chúng ta thường thấy: “Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi” (1Cô.13:3). “Sự thương xót” chân chính vượt xa hơn việc phân phát y phục, lương thực, thuốc men,… cho các nạn nhân. Người ta có thể cho mà không hề yêu gì cả. Hành vi thương xót sẽ vô nghĩa nếu thái độ của sự thương xót không chân thực và chính đáng (chân chính). “Sự thương xót” mà Đức Chúa Jêsus phán dạy ở đây không phải chỉ thuần túy là hành vi thương xót máy móc. Về căn bản, “giàu lòng thương xót” không phải là sự xúc cảm đối với tình huống mà là thái độ sống. Sự xúc cảm trước những tình huống nhất định và sự nhận thức về một thái độ sống phải có thường xuyên là hai điều khác nhau. “Giàu lòng thương xót” là một nếp sống. Đó là một điều không thể “bật lên” hay “tắt đi” theo xúc cảm chủ quan của một người được. “Đức thương xót” chân chính không thể là một cái gì đó có thể biến động “theo mùa” được. “Sự thương xót” hợp Kinh Thánh mà Đức Chúa Jêsus đã từng biểu lộ trong cuộc sống phận người của Ngài chính là một dạng thức cảm nhận chân chính của tâm trí, làm nền tảng cho một thái độ sống, thể hiện ra qua một lối sống cao thượng một cách thường xuyên. Cơ Đốc Nhân “thương xót” là nhìn nhận tha nhân theo cùng một cách mà Đức Chúa Jêsus nhìn nhận họ, và thấu cảm tha nhân theo cùng một cách mà Đức Chúa Jêsus thấu cảm họ. “Giàu lòng thương xót” là thái độ thương xót phổ quát dành cho tất cả mọi người. Sự thương xót của Đức Chúa Trời phổ quát trên nhân loại như thế nào thì đức thương xót trong Cơ Đốc Nhân cũng phải phổ quát cho đồng loại mình như thế ấy. Trên một phương diện, thái độ thương xót thể hiện ra qua đức bác ái Cơ Đốc của cộng đoàn Cơ Đốc với biểu hiện cuối cùng là các hoạt động từ thiện cho xã hội. Thái độ “thương xót” biểu hiện ra qua hành động. Nếu một người thực sự có lòng thương xót, lòng thương xót của người ấy phải được thể hiện bằng hành vi. “Sự thương xót” hợp Kinh Thánh không thể là một cái gì đó bí mật hay tiềm ẩn (bí ẩn) mà phải được chuyển hóa thành hành động. Không thể nói rằng mùa Xuân đã về mà chưa hề có lấy bất cứ một sự chuyển dịch nào theo hướng tươi đẹp hơn của mùa Đông. “Sự thương xót”, nếu có, nhất định phải được bộc lộ ra qua nhiều cách khác nhau. Nếu chúng ta thực sự có lòng thương xót, chúng ta sẽ tỏ ra nhân từ, độ lượng trong việc xét đoán người khác. Chúng ta sẽ tỏ ra quan tâm đến phúc lợi của người khác. Khi thực sự có lòng thương xót, nếu có ai đó làm hại chúng ta, chúng ta sẽ không còn hoàn toàn bị sự căm hận cuốn hút mà sẽ biết tìm hiểu vì sao người ta lại phạm tội như thế, và sẽ quyết định tha thứ cho họ chứ không phải là trừng phạt họ. Khi thực sự có lòng thương xót, chúng ta không còn cố tìm lý lẽ để buộc tội mà là để giải tội cho tha nhân. Thương xót nghĩa là chăm sóc cho tha nhân để họ sống tốt đẹp hơn. Đức thương xót khiến Cơ Đốc Nhân dám hy sinh để dấn thân cất đi gánh nặng cho người khác, mà nặng nhất là gánh nặng về án phạt của tội lỗi trên đời sống họ. Thương xót nghĩa là tha thứ: Không có biểu hiện nào của sự thương xót cao hơn là sự tha thứ (vì thế mà Hê. 8:12 được dịch là “tha thứ”). Khi một người hoàn toàn có quyền trả thù nhưng lại quyết định tha thứ, người ấy đã đạt đến đỉnh cao của sự thương xót, và phần thưởng là sự bình an và niềm vui chan chứa luôn luôn cặp theo quyết định thánh thiện ấy. Như vậy, “sự thương xót” chính là một biến thể của Ân Điển: Dành cho tha nhân điều đáng lẽ ra họ không thể có được. Cơ Đốc Nhân nhận Ân Điển của Đức Chúa Trời và sống thể hiện Ân Điển Ngài trên đời sống mình bằng đức thương xót. II. LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ THỂ SỐNG GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT? “Phước cho những kẻ hay thương xót vì sẽ được thương xót!”, đây là một sự dạy dỗ và cũng là lời hứa tốt đẹp, quí hóa; thế nhưng phải làm những gì để có thể sống giàu lòng thương xót được? Muốn sống được như thế quả thật là rất khó, và đó là con đường hẹp mà Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta đi. Xét đoán, phê phán, kết án luôn luôn dễ làm hơn là thương xót, tha thứ. Chúng ta cần phải như thế nào để có thể vượt lên trên bản chất của con người cũ vốn có của chúng ta, sống theo đức thương xót mà Đức Chúa Trời kêu gọi? Trước hết, đừng quên rằng chính mỗi người chúng ta đều cần có được sự tha thứ. Trước mặt Đức Chúa Trời, mỗi người chúng ta “thảy đều vấp phạm nhiều cách lắm” (Gia. 3:2), chúng ta cần sự đối đãi giàu lòng thương xót của Đức Chúa Trời đối với chúng ta, chúng ta cần được Ngài tha thứ. Vậy chúng ta cũng cần phải đối dãi một cách giàu lòng thương xót với mọi người, phải tha thứ cho người khác một cách tương tự: “Xin tha tội lỗi cho chúng tôi, như chúng tôi cũng tha kẻ phạm tội nghịch cùng chúng tôi” (Ma. 6:12). “Vả, nếu ngươi tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ tha thứ các ngươi” (Ma. 6:14). Chúng ta rất dễ rơi vào chỗ thiếu tha thứ, thường tỏ ra rất nặng tay đối với người khác, và hay quên rằng sự yếu đuối và nguy cơ bị cám dỗ không phải chỉ riêng có ở người khác mà thôi: “Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại; chính mình anh em lại phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng” (Gal. 6:1). Để có thể sống giàu lòng thương xót, chúng ta phải biết để cho Đức Chúa Jêsus bày tỏ sự thương xót của Ngài qua chúng ta. Cơ Đốc Nhân là chỗ để cho Chúa bày tỏ sự vinh hiển của Ngài ra cho Dân Ngoại được biết, để rồi họ sẽ đặt niềm tin nơi Ngài: “Vì Đức Chúa Trời muốn khiến họ biết sự vinh hiển của sự mầu nhiệm đó ở giữa Dân Ngoại là thể nào, nghĩa là Đấng Christ ở trong anh em, là sự trông cậy về sự vinh hiển” (Côl. 1:27). Bằng sức riêng, chúng ta không thể nào thực sự thương xót tha nhân theo như Đức Chúa Trời muốn được. Chỉ khi nào chúng ta trình dâng hết nỗi cay đắng, buồn phiền của chúng ta cho Đức Chúa Jêsus, bằng lòng để cho Ngài sống và hành động qua con người của chúng ta thì đức thương xót mới có thể trở nên một thái độ thường trực trong nếp sống của chúng ta được: “12Vậy anh em là kẻ chọn lựa của Đức Chúa Trời, là người thánh và rất yêu dấu của Ngài, hãy có lòng thương xót. Hãy mặc lấy sự nhân từ, khiêm nhượng, mềm mại, nhịn nhục, 13nếu một người trong anh em có sự gì phàn nàn với kẻ khác, thì hãy nhường nhịn nhau và tha thứ nhau: Như Chúa đã tha thứ anh em thể nào, thì anh em cũng phải tha thứ thể ấy” (Côl. 3:12-13). III. PHẦN THƯỞNG CHO ĐỨC THƯƠNG XÓT Trong sự dạy dỗ này của Đức Chúa Jêsus có kèm theo một lời hứa về sự “được thương xót”: “Phước cho những kẻ hay thương xót vì sẽ được thương xót!” (Ma. 5:7). Một khi Đức Chúa Jêsus đã phán hứa như thế thì chắc chắn là người sống giàu lòng thương xót sẽ được hưởng phước từ nơi Ngài, vì Ngài là thành tín. Trước hết, người có đức thương xót được hưởng sự bình an. Người có đức thương xót là người chịu để Thánh Linh của Đức Chúa Trời hành động trong tấm lòng của họ, qua đời sống của họ. Người sống giàu lòng thương xót không còn bị dày vò bởi sự tranh chiến nội tâm do khuynh hướng tự cao, ương ngạnh và lòng nặng nề, căm tức, bực bội,… Được Đức Thánh Linh thanh tẩy các xúc cảm tiêu cực, người có đức thương xót sẽ kinh nghiệm được niềm vui, đời sống tinh thần của họ sẽ được thăng hoa, hướng thượng: “13Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài. 14Phàm làm việc gì chớ nên lằm bằm và lưỡng lự, 15hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian” (Phil. 2:13-15). Người có đức thương xót sẽ nhận được sự thương xót của tha nhân. Trên một phương diện, cuộc đời này như một tấm gương phẳng có tác dụng phản chiếu những gì người ta đặt trước nó. Qui luật “gieo và gặt” vẫn nghiệm đúng đối với đức thương xót. Ngoài ra, nếu tình yêu sản sinh ra tình yêu thì sự thương xót cũng sẽ đem về sự thương xót: “36Hãy thương xót như Cha các ngươi hay thương xót. 37Đừng đoán xét ai, thì các ngươi khỏi bị đoán xét; đừng lên án ai, thì các ngươi khỏi bị lên án; hãy tha thứ, người sẽ tha thứ mình. 38Hãy cho, người sẽ cho mình; họ sẽ lấy đấu lớn, nhận, lắc cho đầy tràn, mà nộp trong lòng các ngươi; vì các ngươi lường mực nào, thì họ cũng lường lại cho các ngươi mực ấy” (Lu. 6:36-38). Tuy nhiên, quan trọng hơn hết là người có đức thương xót sẽ được chính Đức Chúa Trời thương xót: “14Vả, nếu ngươi tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ tha thứ các ngươi. 15Song nếu không tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha lỗi cho các ngươi” (Ma. 6:14-15). Bằng sức riêng của bản chất người thiên nhiên, người ta chỉ có thể yêu thương, tha thứ, nhân từ đối với những ai yêu thương, tha thứ, nhân từ đối với họ mà thôi. Cơ Đốc Nhân là người mới trong Đức Chúa Jêsus (2Cô. 5:17), họ phải được đổi mới nhờ quyền năng Đức Thánh Linh. Mệnh lệnh đối với Cơ Đốc Nhân là phải giàu lòng thương xót, và lời hứa dành cho họ là họ sẽ được thương xót. Dầu vậy, đức thương xót của Cơ Đốc Nhân không phải chỉ để được thưởng mà chính yếu là để trở nên giống với Đấng kêu gọi họ: “46Nếu các ngươi yêu những kẻ yêu mình, thì có được thưởng gì đâu? Những kẻ thâu thuế há chẳng làm như vậy sao? 47Lại nếu các ngươi tiếp đãi anh em mình mà thôi, thì có lạ gì hơn ai? Người ngoại há chẳng làm như vậy sao? 48Thế thì các ngươi hãy nên trọn vẹn, như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn” (Ma. 5:46-48). (Rev. Doan Nhat Tan, PhD)
“PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ ĐÓI KHÁT SỰ CÔNG BÌNH!” (Ma. 5:6) “Bài Giảng Trên Núi” của Đức Chúa Jêsus về “Các Phước Lành” vĩnh viễn là một núi kim cương hùng vĩ, lấp lánh các nguyên lý Thiên Đàng. Mỗi khi tiếp cận phân đoạn Kinh Thánh này (Ma. 5:1-12), với sự hiểu biết thô thiển và kinh nghiệm ít oi của bản thân, tôi luôn thấy mình chỉ như một đứa bé, choáng ngợp trước vô vàn tia sáng phản chiếu vinh quang Thiên Thượng. Tôi muốn lĩnh hội sao cho được trọn vẹn nhưng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. Tôi muốn diễn đạt cho sao cho thật khúc chiết để làm ích nhiều nhất cho đàn chiên nhỏ bé mà Đức Chúa Trời đã ủy thác cho tôi chăm nuôi nhưng, đáng thương thay, cũng chỉ là những lời thô thiển, tầm thường… Ước ao rằng chính Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ cho người đọc có được những sự nội kiến đẹp ý Đức Chúa Trời; còn những gì được viết ra đây chỉ là chỗ dựa cho sự tri giác, giúp cho sự suy gẫm được thuận lợi hơn… “Tolle lege, tolle lege” (“Cứ đọc đi! Cứ đọc đi!”) [St. Augustine, 354-430] (Mục Sư Đoàn Nhật Tân, Tháng Mười 2006) Trên một chừng mực nhất định, các thủ thuật quảng cáo của ngành thương nghiệp hiện đại có thể nhắc chúng ta về các bài học thuộc linh của Đức Chúa Jêsus. Ngành quảng cáo hiện nay chi tiêu tiền tỷ để bắt chúng ta phải ghi nhớ các khẩu hiệu và hình ảnh họ muốn. Người ta chi tiêu rất nhiều tiền cho việc ấy vì họ hiểu rõ giá trị của việc họ làm: Việc họ làm nhất định sẽ có tác dụng cao. Các nhà quảng cáo chuyên nghiệp biết rằng họ có thể chèn vào tâm trí chúng ta những gì họ muốn để tạo ảnh hưởng trên sự chọn lựa của chúng ta. Các nhà khoa học về quảng cáo gọi tiền bỏ ra để quảng cáo là để tiền ấy “mọc rễ” trong đầu người khác: Sự quảng cáo có khoa học không nài ép người khác mua sản phẩm của họ ngay lập tức, nhưng nhất định các nổ lực quảng cáo sẽ chi phối sự quyết định sẽ có trong tương lai của các khách hàng tiềm năng. Các nhà nghiên cứu về quảng cáo hiện đại tỏ ra đã nắm bắt được tinh túy trong nghệ thuật giảng dạy của Đức Chúa Jêsus từ hơn hai mươi thế kỷ trước: Đức Chúa Jêsus luôn sử dụng hình ảnh đi kèm với khái niệm để tạo ấn tượng mạnh cho người nghe hầu họ nhận thức được sự dạy dỗ của Ngài: “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình, vì sẽ được no đủ!” (Ma. 5:6). “Đói” và “khát” là những kinh nghiệm hết sức quen thuộc đối với mọi cơ thể sống, đối với tất cả mọi người. Một khi lâm vòng đói, khát người ta sẽ cố gắng hết sức mình để thỏa mãn cho được. Liệu chúng ta, về nguyên tắc là Cơ Đốc Nhân, chúng ta có dốc lòng “đói khát” về sự công bình theo như Đức Chúa Trời muốn hay không? I. ĐỐI TƯỢNG Về bản chất, “Sự Công Bình” luôn luôn đòi hỏi phải có “Đức Chúa Trời”. Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất công bình, sự công bình đúng nghĩa duy nhất thuộc về Ngài, vì “Sự Công Bình” là một trong các thuộc tính của Ngài: “Hỡi Đức Giêhôva, Ngài là công bình_Sự đoán xét của Ngài là ngay thẳng” (Thi. 119:137). “Bấy giờ, các kẻ làm đầu của Ysơraên và vua đều hạ mình xuống, mà nói rằng: Đức Giêhôva là công bình” (2Sử. 12:6). “Pharaôn bèn truyền đòi Môise và Arôn mà phán rằng: Đức Giêhôva là công bình; trẫm và dân sự trẫm là kẻ phạm tội” (Xuất. 9:27). Sự công bình tuyệt đối chỉ hiện diện trong Vương Quốc Đức Chúa Trời, ở đó người ta chẳng những hưởng được sự công bình mà còn được tận hưởng mọi điều tốt đẹp từ nơi Ngài: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (Ma. 6:33). Như vậy, “Đói khát sự công bình” chính là “đói khát” về Đức Chúa Trời. Người “đói khát” về Đức Chúa Trời là người “có lòng khó khăn” (Ma. 5:3), là người biết mình vốn đã bị phá sản trên phương diện thuộc linh, bị cầm tù trong thân phận tội nhân. Một khi người ta “có lòng khó khăn”, họ sẽ “than khóc” (Ma. 5:4) về hiện trạng của mình. Sự quặn thắt thuộc linh giúp họ đến được với Đức Chúa Trời để nhận sự cứu rỗi trong Đức Chúa Jêsus, được xưng công bình, và sẽ được “yên ủi” bằng sự cứu chuộc trọn vẹn của Ngài. Chỉ những người đã thực sự nhận được sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus mới có thể là người “nhu mì” (Ma. 5:5): Họ thuận phục thẩm quyền của Đức Chúa Trời chứ không cậy sức riêng của mình. Đức Chúa Trời hứa sẽ ban cho những người như thế được cùng cai trị thế gian này với Ngài, họ sẽ là chủ nhân đời đời của thế giới. Ngược lại, những ai đang tranh đoạt thế giới này bằng năng lực con người chỉ có thể chiếm dụng tạm thời mà thôi. Một khi người ta chịu thuận phục Đức Chúa Trời, họ sẽ có niềm khát khao về chính Ngài (Ma. 5:6). Thật ra, người ta không thể nào có thể có một sự “đói khát” về Đức Chúa Trời nếu họ chưa biết mình bị băng hoại về thuộc linh, có lòng ăn năn về tội lỗi, nhận được sự tha tội và ý chí thuận phục thẩm quyền của Đức Chúa Trời trên đời sống của mình. II. YÊU CẦU “Phước” và “sự vui sướng” hoàn toàn khác nhau. Thật ra, những ai được “phước” cũng đồng thời là người có được sự vui sướng vô ngần; nhưng “phước” không thể bị giảm hạ xuống chỉ còn là “sự vui sướng” mà thôi. Theo sự bày tỏ của Kinh Thánh, chẳng những loài người được Đức Chúa Trời ban phước mà họ cũng còn có thể “chúc phước” Đức Chúa Trời nữa. Được ban phước, về căn bản, có nghĩa là được chuẩn thuận. Khi một người “được phước”, có nghĩa là người ấy được Đức Chúa Trời chuẩn nhận, và điều ấy luôn luôn là một sự hạ cố của Đức Chúa Trời đối với loài người. Ngược lại, hành động “chúc phước” của con người đối với Đức Chúa Trời luôn luôn là một sự tán dương đối với Ngài để bày tỏ lòng hoan nghênh, biết ơn, hưởng ứng,… đối với Ngài. Con người “chúc phước” Đức Chúa Trời qua việc tán tụng, ngợi khen Ngài. Vì Đức Chúa Trời là Đấng Chủ Tể của cả vũ trụ, không còn có phước nào lớn hơn là được Ngài hạ cố chuẩn nhận. “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình” là một lời dạy dỗ nhằm mời gọi chúng ta tìm kiếm sự chuẩn nhận của Đấng có giá trị tuyệt đối và đời đời. Điều gì quan trọng hơn, đáng khát khao, tìm kiếm hơn giữa hai điều này: (1) Được sự chuẩn nhận của gia đình, bạn bè, cấp trên,… hay (2) được sự chuẩn nhận của Đức Chúa Trời? Đối với các Cơ Đốc Nhân có lòng khát khao sống để làm đẹp ý Đức Chúa Trời, lời dạy dỗ này không những là một sự mời gọi mà còn là một sự khích lệ lớn lao đối với họ nữa. Khi một môn đồ của Đức Chúa Trời “đói khát sự công bình”, điều ấy không có nghĩa là họ muốn được công bình “nhiều hơn”. Sự công bình là sự công bình, theo tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời, không thể có một sự công bình khiếm khuyết hay què quặt được. “Đói khát sự công bình” là tấm lòng của Cơ Đốc Nhân biết khát khao được mật thiết hơn trong sự hiểu biết và mối tương giao với Đức Chúa Trời như người khát cần nước uống, người đói cần thức ăn. “Đói khát” (Gk. peinao) nói về hành vi muốn được có một cách đầy trọn để đáp ứng cho nhu cần sống hàng ngày. Người “đói khát sự công bình” là người muốn có Đức Chúa Trời một cách hoàn toàn, không thiếu sót bất cứ một phần nào hay một phương diện nào cả: “7Nhưng vì cớ Đấng Christ, tôi đã coi sự lời cho tôi như là sự lỗ vậy. 8Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ 9và được ở trong Ngài, được sự công bình, không phải sự công bình của tôi bởi Luật Pháp mà đến, bèn là bởi tin đến Đấng Christ mà được, tức là công bình đến bởi Đức Chúa Trời và đã lập lên trên đức tin; 10cho đến nỗi tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài, 11mong cho tôi được đến sự sống lại từ trong kẻ chết” (Phil. 3:7-10). Kinh Thánh đề cập về sự công bình của Đức Chúa Trời trên ba phương diện: (1) Sự công nghĩa địa vị, (2) sự công nghĩa thực hành, và (3) sự công nghĩa xã hội. Khi một người nhận thức được thân phận tội nhân của mình và ăn năn, người ấy bèn dâng mình trở lại cho Đức Chúa Trời qua và trong Đức Chúa Jêsus. Một người như thế sẽ từ chỗ bị phân cách với Đức Chúa Trời trở nên con cái của Ngài. Một người như thế sẽ được tái lập vào trong mối quan hệ công chính với Đức Chúa Trời nhờ công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus, được đặt vào địa vị công nghĩa theo sự chuẩn nhận của Đức Chúa Trời, người ấy sẽ nhận được sự công nghĩa địa vị: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài” (Gi. 1:12). Sự công nghĩa thực hành nói về việc Cơ Đốc Nhân phải sống đời sống trong sạch, thánh khiết thích hiệp với địa vị công nghĩa mà họ đã được Đức Chúa Trời chuẩn nhận. Đó là một đời sống đã được giải thoát khỏi sức mạnh của tội lỗi. Người thực tâm “đói khát sự công bình” có niềm khát khao được giải thoát khỏi đời sống vị kỷ, được ban quyền năng để sống vị tha như Đức Chúa Jêsus. Người thực tâm “đói khát sự công bình” khát khao có được năng lực vâng lời Đức Chúa Trời luôn luôn và lớn lên không ngừng trong đức tin. Người thực tâm “đói khát sự công bình” khát khao từ bỏ được ngày càng nhiều hơn các vi phạm đối với ý muốn của Đức Chúa Trời, vì họ “đói khát” Ngài, muốn sống vâng lời Ngài… Sự công nghĩa xã hội nói về ý chỉ và tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời cần phải được thực thi trong đời sống xã hội. Ý muốn của Đức Chúa Trời là xã hội phải công bằng và bác ái. Kinh Thánh dạy mọi người trong xã hội phải sống hòa thuận và bình đẳng với nhau (hòa bình). Mọi Cơ Đốc Nhân chân chính đều phải tích cực hành động để các tiêu chuẩn xã hội thể hiện được ý chỉ của Đức Chúa Trời là Đấng mà họ “đói khát”. “Đói khát sự công bình” tức là “đói khát” chính Đức Chúa Trời. Đây là dấu hiệu độc đáo của Cơ Đốc Giáo. Trong tất cả các tôn giáo trên thế gian này, mỗi tôn giáo đều có trọng tâm riêng của mình. Trọng tâm của Phật Giáo là Đức Phật. Trọng tâm của Hồi Giáo là Mohammed. Trọng tâm của Ấn Giáo là Krishna. Và, trọng tâm của Cơ Đốc Giáo là Đức Chúa Jêsus. Tuy nhiên, nếu hỏi tín đồ của các tôn giáo phi Cơ Đốc về sự cứu rỗi của họ, họ sẽ trả lời bằng cách chỉ ra một lối sống nào đó. Tín đồ Phật Giáo sẽ không chỉ Đức Phật là sự cứu rỗi của họ mà là Phật Pháp (Tứ Diệu Đề, Bát Chính Đạo,…), tín đồ Hồi Giáo sẽ không chỉ Mohammed là sự cứu rỗi của họ mà là Kinh Koran, tín đồ Ấn Giáo sẽ không chỉ Krishna là sự cứu rỗi của họ mà là Kinh Bhagavad-gita. Ngược hẳn lại với các tôn giáo phi Cơ Đốc, Đức Chúa Jêsus tự khải thị Ngài là Chân Lý. Đức Chúa Jêsus không chỉ đường cho nhân loại đến với sự cứu rỗi mà Ngài cung ứng cho nhân loại chính tự thân Ngài là sự cứu rỗi: “Ta là Đường Đi, Lẽ Thật, và Sự Sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha” (Gi. 14:6). Người ta không thể nào có được sự công bình đích thực mà chưa có được chính hiện thân của sự công bình là Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus. Phải tiếp nhận Ngài làm Chúa và Cứu Chúa của mình, nhiên hậu người ta mới được xưng công nghĩa địa vị, được ban cho hoài bão và năng lực sống đời sống công nghĩa thực hành và dấn thân cho sự công nghĩa xã hội. III. KẾT QUẢ Đức Chúa Jêsus bày tỏ rằng người “đói khát sự công bình” “sẽ được no đủ”. Từ liệu Hylạp được dùng ở đây là chortazo, một từ liệu nói về sự thỏa lòng do được đáp ứng mọi nhu cần. “Đói khát sự công bình” chính là đói khát sự nhận biết, thông hiểu trọn vẹn về Đức Chúa Trời để sống theo đó mỗi ngày, đạt được sự chuẩn nhận của Ngài, lấy đó làm sự “no đủ” cho đời sống mình; ngoài ra, không còn cần bất cứ điều gì khác hơn, và cũng chẳng còn điều gì khác hơn để mà cần (Ma. 6:33). Từ liệu “được no đủ” được dùng theo cách thụ động, hàm ý rằng đây không phải là điều mà người ta có thể tự làm nên được. “Được no đủ” là một việc đến bởi Đức Chúa Trời, việc này chỉ xảy ra một cách giới hạn cho những ai “đói khát” Ngài trong và qua Đức Chúa Jêsus. Theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, loài người không bao giờ tự thỏa mãn mình được, họ không nên theo đuổi tư dục mình mà phải “đói khát sự công bình” là biết khát khao chính Ngài. Một khi người ta biết đổi lòng để theo đuổi Cứu Chúa, họ không còn cần gì hơn vì mọi sự đều gồm đủ trong Ngài: “Tạ ơn Đức Chúa Trời vì sự ban cho của Ngài không xiết kể” (2Cô. 9:15; xin tham khảo nguyên văn Hylạp). Từ liệu “đói khát” được viết ở thì hiện tại, điều ấy diễn đạt một nhu cần hiện thời, một hành vi đang được tiến hành. Khi người ta đói khát về thuộc thể, để có thể sống khỏe mạnh, sự đói khát ấy phải được thỏa mãn. Tương tự như vậy, việc thỏa mãn được sự đói khát thuộc linh sẽ giúp cho Cơ Đốc Nhân tăng trưởng. Người thực lòng “đói khát” Đức Chúa Trời biết tìm kiếm Ngài qua Lời Kinh Thánh: “Hãy ham thích sữa thiêng liêng của Đạo, như trẻ con mới đẻ vậy, hầu cho anh em nhờ đó lớn lên mà được rỗi linh hồn” (1Phi. 2:2). Trên phương diện thực tế và thực hành, có nhiều mức độ “đói khát sự công bình” khác nhau giữa vòng các Cơ Đốc Nhân. Một người có thể thấy cần Đức Chúa Trời, tin Đức Chúa Trời nhưng chủ yếu họ vẫn dựa vào sức riêng của mình. Đây mới chỉ là loại người “có lòng khó khăn” mà thôi! Một mức độ cao hơn là người ta thấy cần Ngài cho đời sống mình: Đây chính là loại Cơ Đốc Nhân biết “than khóc”! Cơ Đốc Nhân biết “than khóc” có thể sẽ trở thành “kẻ nhu mì” là những Cơ Đốc Nhân có tinh thần vâng phục, có đời sống kết ước, và sự kết ước của họ có bông trái; nhưng cũng có thể họ chỉ dừng lại ở đó: Đôi khi họ thấy mình bất lực, cần có Chúa, nhưng thường thường Chúa đối với họ chỉ giống như một hình thức trang điểm của đời sống. Chỉ khi nào người ta thấy mình không thể nào sống thiếu Đức Chúa Trời được, khi ấy người ta mới thực sự “đói khát sự công bình”! Đường ngắn nhất giữa hai điểm là một đường thẳng. Đường ngắn nhất để đến với sự no đủ trên mọi phương diện là đến với Đức Chúa Trời, vì trong Ngài có đủ mọi sự: “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình, vì sẽ được no đủ!” (Ma. 5:6). (Rev. Doan Nhat Tan, PhD)
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |