“TÍNH CHẤT CỦA ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC” (Gi. 17:2-3) “Và nhân quyền phép Cha đã ban cho Con cai trị loài xác thịt, Con được ban sự sống đời đời cho những kẻ mà Cha đã giao phó cho Con. Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến.” (Gi. 17:2-3) “Đời Sống Cơ Đốc” là hình thái tương tác siêu việt với một Thực Thể siêu việt trong một môi trường siêu việt. Kinh Thánh: “2Và nhân quyền phép Cha đã ban cho Con cai trị loài xác thịt, Con được ban sự sống đời đời cho những kẻ mà Cha đã giao phó cho Con. 3Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến.” (Gi. 17:2-3) Sự sống đời đời trong Cơ Đốc Nhân là sự sống thuộc linh được thể hiện qua mối tương giao giữa họ với Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Câu Gốc: “Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến” (Gi. 17:3) I. GIẢI NGHĨA “Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.” (Gi. 1:2; Sv. Côl. 1:17; Công. 17:28) 1. Sống là có khả năng tương tác mà đỉnh cao là tương tác với Đấng mà nhờ Ngài mới được sống (Gi. 17:2) (1) “quyền phép”: Gr. ἐξουσία [exousia] E “thẩm quyền” (2) “cai trị”: Gr. πᾶς [pas] E “đối với” (3) “loài xác thịt”: Gr. σάρξ [sarx] E “nhân loại”, “thế gian” (Sv. Ma. 28:18) (4) “sự sống đời đời”: Gr. ζωή αἰώνιος [zoe aionios] E “sự sống vô thỉ vô chung” 2. Chỉ thực sự sống nếu sự tương tác với Đấng là nguồn sự sống trở nên một cuộc tương giao mật thiết (Gi. 17:3) (1) “nhìn biết”: Gr. γινώσκω [ginosko] E “nghiệm biết” (2) “Đức Chúa Trời có một và thật”: Gr. μόνος ἀληθινός θεός [monos alethinos theos] E “Đức Chúa Trời duy nhất chân thật” (3) “Jêsus Christ”: Gr. ʼΙησοῦς Χριστός [Iesous Christos] E “Jêsus Đấng Mêsia” (4) “đã sai đến”: Gr. ἀποστέλλω [apostello] E “đã được chỉ định” II. ÁP DỤNG “Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người.” (Gi. 1:3; 1Gi. 5:12) 1. Phải biết phó thác đời sống mình cho Đức Chúa Jêsus Christ trên mọi lĩnh vực. “Và nhân quyền phép Cha đã ban cho Con cai trị loài xác thịt, Con được ban sự sống đời đời cho những kẻ mà Cha đã giao phó cho Con.” (Gi. 17:2) 2. Phải biết chăm chút cho cuộc giao ngộ với Đức Chúa Jêsus Christ ngày càng phước hạnh hơn. “Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến.” (Gi. 17:3) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“BẢN CHẤT CỦA ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC” (1Gi. 5:11-13) “Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài. Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống. Ta đã viết những điều nầy cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời.” (1Gi. 5:11-13) Về bản chất, “Đời Sống Cơ Đốc” là sự thể hiện ra của “Sự Sống Đời Đời” trong đời sống cá nhân của mỗi Cơ Đốc Nhân chân chính… Kinh Thánh: “11Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài. 12Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống. 13Ta đã viết những điều nầy cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời.” (1Gi. 5:11-13) Và, theo lẽ thật Kinh Thánh, “Sự Sống Đời Đời” trong đời sống của Cơ Đốc Nhân chỉ có được trong và qua mối hiệp thông giữa họ với chính Đức Chúa Jêsus Christ… Câu Gốc: “Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống” (1Gi. 5:12a) I. GIẢI NGHĨA “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” (Gi. 3:16) 1. Sự sống đời đời có bản chất thuộc linh và bản thể của sự sống đời đời là Đức Chúa Jêsus Christ (1Gi. 5:11) (1) “đã ban”: Gr. δίδωμι [didomi] >> “cho”, “tặng” (2) “sự sống đời đời”: Gr. ζωή αἰώνιος [zoe aionios] >> “sự sống vĩnh cửu” (3) “ở trong Con Ngài”: Gr. ἐν ὁ υἱός αὐτός ἐστί [en ho huios autos esti] >> “ở trong Đức Chúa Con của Ngài” 2. Cuộc hiệp thông giữa mỗi Cơ Đốc Nhân với Đức Chúa Jêsus Christ là sự sống đời đời (1Gi. 5:12) (1) “có”: Gr. ἔχω ὁ υἱός [echo ho huios] >> “vang Chúa ra” (2) “không có”: Gr. μή ἔχω ὁ υἱός [me echo ho huios] >> “chẳng vang Chúa ra” 3. Bởi đức tin mà Cơ Đốc Nhân được ở trong sự sống đời đời (1Gi. 5:13) (1) “biết”: Gr. οιδα [oida] >> “ý thức được” (2) “tin”: Gr. πιστεύω [pisteuo] >> “tín thác” (3) “danh”: Gr. ὄνομα [onoma] >> “công trình và sự nghiệp của một người” II. ÁP DỤNG “Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống” (1Gi. 5:12a) 1. Phải chắc rằng mình là người đã đặt đức tin nơi công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ cho được sự tha tội. “11Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài… 13Ta đã viết những điều nầy cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời.” (1Gi. 5:11, 13; Sv. Gi. 3:16) 2. Phải tra xem đời sống mình có phải là một cuộc liên hiệp thực sự với Đức Chúa Jêsus Christ hay không. “Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống.” (1Gi. 5:12) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“KHÁI QUÁT VỀ ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC” (1Ti. 6:11-12) “Hãy vì đức tin mà đánh trận tốt lành, bắt lấy sự sống đời đời, là sự mà con đã được gọi đến, và vì đó mà con đã làm chứng tốt lành trước mặt nhiều người chứng kiến.” (1Ti. 6:12) Đời sống Cơ Đốc là đời sống thể hiện đức tin nơi Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ… Kinh Thánh: “11Nhưng, hỡi con, là người của Đức Chúa Trời, hãy tránh những sự đó đi, mà tìm điều công bình, tin kính, đức tin, yêu thương, nhịn nhục, mềm mại. 12Hãy vì đức tin mà đánh trận tốt lành, bắt lấy sự sống đời đời, là sự mà con đã được gọi đến, và vì đó mà con đã làm chứng tốt lành trước mặt nhiều người chứng kiến.” (1Ti. 6:11-12) Sự thể hiện ấy mang tính đức tin, tính chiến đấu, và tính minh chứng trên mọi phương diện của đời sống… Câu Gốc: “Hãy vì đức tin mà đánh trận tốt lành, bắt lấy sự sống đời đời, là sự mà con đã được gọi đến, và vì đó mà con đã làm chứng tốt lành trước mặt nhiều người chứng kiến.” (1Ti. 6:12) I. GIẢI NGHĨA “Chúa biết kẻ thuộc về Ngài” (2Ti. 2:19b) 1. Người của Đức Chúa Trời (“Cơ Đốc Nhân”) phải có các biểu hiện của sự sống đời đời! (1Ti. 6:11) (1) “người của Đức Chúa Trời”: Gr. ἄνθρωπος ὁ θεός [anthropos ho theos] >> “người thuộc về Đức Chúa Trời” (“Cơ Đốc Nhân”). (2) “công bình”: Gr. δικαιοσύνη [dikaiosune] >> “tình trạng được Đức Chúa Trời chuẩn thuận”. (3) “tin kính”: Gr. εὐσέβεια [eusebeia] >> “sự thượng tôn đối với Đức Chúa Trời”. (4) “đức tin”: Gr. πίστις [pistis] >> “trạng thái hiểu biết, chấp nhận, tin tưởng đối với Đức Chúa Trời”. (5) “yêu thương”: Gr. ἀγάπη [agape] >> “năng lực tận hiến bất vụ lợi cho tha nhân”. (6) “nhịn nhục”: Gr. ὑπομονή [hupomone] >> “sự bền lòng chịu đựng”. (7) “mềm mại”: Gr. πρᾳότης [praotes] >> “sự nhẹ nhàng”. 2. Người của Đức Chúa Trời (“Cơ Đốc Nhân”) phải dấn thân trong cuộc chiến cho sự sống đời đời! (1Ti. 6:12) (1) “vì đức tin mà đánh trận tốt lành”: Gr. ἀγωνίζομαι ὁ καλός ἀγών ὁ πίστις [agonizomai ho kalos agon ho pisti s] >> “đánh cho tốt trận đánh của đức tin”. (2) “bắt lấy”: Gr. ἐπιλαμβάνομαι [epilambanomai] >> “lấy, giành được”. (3) “sự sống đời đời”: Gr. αἰώνιος ζωή [aionios zoe] >> “sự sống trong mối hiệp thông với Đức Chúa Trời”. (4) “gọi đến”: Gr. καλέω [kaleo] >> “được gắn tên vào”. (5) “làm chứng”: Gr. ὁμολογία [homologia] >> “sự minh thị ra”. II. ÁP DỤNG “18Hỡi Timôthê, con ta, sự răn bảo mà ta truyền cho con, theo các lời tiên tri đã chỉ về con, tức là, phải nhờ những lời đó mà đánh trận tốt lành, 19cầm giữ đức tin và lương tâm tốt.” (1Ti. 1:18-19a) 1. Phải sống sao cho các biểu hiện của sự sống đời đời trong đời sống mình ngày càng có nhiều hơn và rõ ràng hơn! “Nhưng, hỡi con, là người của Đức Chúa Trời, hãy tránh những sự đó đi, mà tìm điều công bình, tin kính, đức tin, yêu thương, nhịn nhục, mềm mại.” (1Ti. 6:11) 2. Phải đấu tranh cho đức tin mình thắng hơn mọi trở lực để luôn được ở trong mối hiệp thông với Đức Chúa Trời! “Hãy vì đức tin mà đánh trận tốt lành, bắt lấy sự sống đời đời, là sự mà con đã được gọi đến, và vì đó mà con đã làm chứng tốt lành trước mặt nhiều người chứng kiến.” (1Ti. 6:12) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“VÀI HIỂU BIẾT CĂN BẢN VỀ ĐỜI SỐNG THUỘC LINH” (1Cô. 10:31) “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm.” (1Cô. 10:31) Đời sống thuộc linh là phương tiện cho một mục đích nhất định. Mục đích chung cuộc của mọi đời sống Cơ Đốc là trở nên giống với Đức Chúa Jêsus về tính cách, phẩm hạnh, hành vi. Mục đích ấy của mọi đời sống Cơ Đốc chỉ có thể được hoàn thành nhờ sự gia tăng trong đời sống của họ về… - Sự nương cậy trên quyền năng và sự ban quyền năng của Đức Thánh Linh. - Sự vâng phục đối với Lời Đức Chúa Trời. - Sự nhận thức nghiêm túc về vị trí của mình trong Đức Chúa Jêsus Christ. - Sự thực hành các nguyên tắc Kinh Thánh về đời sống thuộc linh. Như vậy, mục đích tối hậu của đời sống thuộc linh là một mục đích hai phương diện: 1. Có đời sống giống theo Đức Chúa Jêsus Christ. “Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em” (Rô. 8:29) “Như chúng ta đã mang ảnh tượng của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang ảnh tượng của người thuộc về trời” (1Cô. 15:49) “16Khi họ sẽ trở lại cùng Chúa, thì màn ấy mới cất khỏi. 17Vả, Chúa tức là Thánh Linh, Thánh Linh của Chúa ở đâu, thì sự tự do cũng ở đó. 18Chúng ta ai nấy đều để mặt trần mà nhìn xem vinh hiển Chúa như trong gương, thì hóa nên cũng một ảnh tượng Ngài, từ vinh hiển qua vinh hiển, như bởi Chúa, là Thánh Linh” (2Cô. 3:16-18) “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chính lúc bây giờ chúng ta là con cái Đức Chúa Trời, còn về sự chúng ta sẽ ra thể nào, thì điều đó chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ thấy Ngài như vốn có thật vậy” (1Gi. 3:2) “22Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình. 23Vì, nếu có kẻ nghe lời mà không làm theo, thì khác nào người kia soi mặt mình trong gương, 24thấy rồi thì đi, liền quên mặt ra thể nào. 25Nhưng kẻ nào xét kĩ luật pháp trọn vẹn, là luật pháp về sự tự do, lại bền lòng suy gẫm lấy, chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó, thì kẻ đó sẽ tìm được phước trong sự mình vâng lời” (Gia. 1:22-25) 2. Hữu ích cho Đức Chúa Trời trong việc hoàn thành mục đích của Ngài trên thế gian. “Vả, vua Đavít lúc còn sống, làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời, đoạn qua đời; người đã được trở về cùng các tổ phụ mình, và đã thấy sự hư nát” (Công. 13:36) “14Vì tình yêu thương của Đấng Christ cảm động chúng tôi, và chúng tôi tưởng rằng nếu có một người chết vì mọi người, thì mọi người đều chết, 15lại Ngài đã chết vì mọi người, hầu cho những kẻ còn sống không vì chính mình mà sống nữa, nhưng sống vì Đấng đã chết và sống lại cho mình” (2Cô. 5:14-15) Nhìn chung vào đời sống thuộc linh, mục đích sống tổng quát - một sự hợp nhất giữa hai phương diện kể trên - của mỗi Cơ Đốc Nhân là sống tôn qui vinh hiển cho Đức Chúa Trời: “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm” (1Cô. 10:31) Giới lãnh đạo thuộc linh càng cần nhạy bén hơn trong việc sống giống Chúa, hoàn thành sự kêu gọi Thiên Thượng, tôn qui vinh hiển về Ba Ngôi Đức Chúa Trời: “1Thần của Chúa Giêhôva ngự trên ta; vì Đức Giêhôva đã xức dầu cho ta, đặng giảng Tin Lành cho kẻ khiêm nhường. Ngài đã sai ta đến đặng rịt những kẻ vỡ lòng, đặng rao cho kẻ phu tù được tự do, kẻ bị cầm tù được ra khỏi ngục; 2đặng rao năm ban ơn của Đức Giêhôva, và ngày báo thù của Đức Chúa Trời chúng ta; đặng yên ủi mọi kẻ buồn rầu; 3đặng ban mão hoa cho kẻ buồn rầu ở Siôn thay vì tro bụi, ban dầu vui mừng thay vì tang chế, ban áo ngợi khen thay vì lòng nặng nề; hầu cho những kẻ ấy được xưng là cây của sự công bình, là cây Đức Giêhôva đã trồng để được vinh hiển” (Ês. 61:1-3) Trong việc hoàn thành mục đích của đời sống thuộc linh, có hai nguyên tắc cần phải được hiểu và áp dụng: (1) Không phải Đức Chúa Trời kêu gọi mỗi Cơ Đốc Nhân tự sống đời sống Cơ Đốc theo sức riêng của mình. (2) Cơ Đốc Nhân không thể nhờ việc tự cố gắng để trở nên giống với Đức Chúa Jêsus Christ mà phải tuyệt đối nương cậy quyền năng Đức Thánh Linh để có kết quả ở các bông trái của sự công bình. “1Ta là gốc nho thật, Cha Ta là người trồng nho. 2Hễ nhánh nào trong Ta mà không kết quả thì Ngài chặt hết; và Ngài tỉa sửa những nhánh nào kết quả, để được sai trái hơn. 3Các ngươi đã được trong sạch, vì lời Ta đã bảo cho. 4Hãy cứ ở trong Ta, thì ta sẽ ở trong các ngươi. Như nhánh nho, nếu không dính vào gốc nho, thì không tự mình kết quả được, cũng một lẽ ấy, nếu các ngươi chẳng cứ ở trong Ta, thì cũng không kết quả được. 5Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh. Ai cứ ở trong Ta và Ta trong họ thì sinh ra lắm trái; vì ngoài Ta, các ngươi chẳng làm chi được. 6Nếu ai chẳng cứ ở trong Ta thì phải ném ra ngoài, cũng như nhánh nho; nhánh khô đi, người ta lượm lấy, quăng vào lửa, thì nó cháy. 7Ví bằng các ngươi cứ ở trong Ta, và những lời Ta ở trong các ngươi, hãy cầu xin mọi điều mình muốn, thì sẽ được điều đó. 8Nầy, Cha Ta sẽ được sáng danh là thể nào: Ấy là các ngươi được kết nhiều quả, thì sẽ làm môn đồ của Ta vậy.” (Gi. 15:1-8) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“SỨ MỆNH CỦA NỮ GIỚI” (Sáng. 2:18) “Giêhôva Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó.” (Sáng. 2:18) Nữ giới, hiểu cho đúng, có một sứ mệnh. Sứ mệnh ấy là gì? Hiểu một cách chặc chẽ thì nữ giới giữ một giai trật như thế nào trong đời sống? Cứu cánh mà nữ giới phải nhắm đến là gì? Ở chừng mực nào thì nữ giới được tôn trọng cách hợp lẽ, và ở chừng mực nào thì nữ giới sẽ bị kể là đáng xem thường? Đây phải là một đề tài đáng được nữ giới hiểu cách thấu đáo để biết điều gì là nên có và điều gì là chẳng nên có; từ đó nữ giới sẽ biết họ phải làm điều gì và họ có quyền mong đợi những điều gì. Tôi sẽ cố gắng tách vạch vấn đề để nêu lên bản chất của sứ mệnh của nữ giới. Để có thể làm được điều ấy tôi sẽ cần phải dựa vào các sự khải thị Thiên Thượng có liên quan trong Kinh Thánh chứ không phải theo chủ trương của các nhà đạo đức học, kinh tế học, hay triết học. Đây là nguyên tắc của tôi cho vấn đề này: Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo đã tạo dựng nên cả hai giới tính, nam giới và nữ giới; Ngài là Kiến Trúc Sư của xã hội loài người; Ngài là Đấng Tài Phán cho mọi phận sự, quyền lợi, và miễn trừ xã hội. Những điều ấy là giá trị chung của những người tin theo thẩm quyền Kinh Thánh. Thưa các bạn nữ giới, các bạn phải biết hài lòng theo chỉ định Thiên Thượng đối với nữ giới của mình. Các bạn phải như thế. Đấng đã tạo dựng nên các bạn phải là Đấng xứng đáng nhất trong việc ban bố ý chỉ của Ngài để các bạn sẽ được an toàn nhất nếu như các bạn biết thuận phục Ngài, chịu nương cậy Ngài để Ngài hoàn thiện vai trò của các bạn và giúp các bạn hiểu rõ ý chỉ của Ngài đối với mình là thế nào. Nữ giới, cũng như nam giới, có một sự kêu gọi Thiên Thượng là phải tôn vinh hiển Đức Chúa Trời như là cứu cánh của đời mình và phải hoàn thành mọi phận sự cũng như vui hưởng mọi phước hạnh của một đời sống tin kính. Nữ giới, cũng giống như nam giới, đều là tạo vật bất tử, có năng lực lý trí, và đã vướng tội đối với Đức Chúa Trời; đều được ở dưới sự chế định của ân điển, đều được đòi hỏi phải ăn năn tội của mình trước mặt Đức Chúa Trời và phải có đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ cho được sự sống đời đời. Nữ giới cũng có thiên hướng tôn giáo như bất kỳ ai khác. Trong Đức Chúa Jêsus, “không còn đàn ông hoặc đàn bà” (Sv. Gal. 3:28) mà tất cả đều cùng ở trên một mặt bằng về nghĩa vụ, trách nhiệm, và đặc quyền… Để có thể biết sứ mệnh của nữ giới là gì trước nhất chúng ta phải tham chiếu các bản văn Kinh Thánh có liên quan để biết chắc được ý chỉ của Đức Chúa Trời về mục đích tạo dựng nữ giới mà Ngài đã định mạng từ ban đầu. “Giêhôva Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó” (Sáng. 2:18). Lời phán này đã được làm cho rõ nghĩa hơn khi Đức Chúa Trời phán rằng “Ađam đặt tên các loài súc vật, các loài chim trời cùng các loài thú đồng; nhưng về phần Ađam, thì chẳng tìm được một ai giúp đỡ giống như mình hết” (Sáng. 2:20). Những lời phán này xác định một lẽ thật hiển nhiên là nữ giới đã được tạo dựng cho nam giới. Ađam đã được tạo dựng theo những thiên hướng xã hội chưa phát triển nhất định mang tính bản chất đối với tất cả mọi người. Chỉ duy nhất Đấng có thần tính mới có được sự uy nghi cá biệt độc lập hẳn với thế giới khách quan trên vấn đề hạnh phúc. Đức Chúa Trời, và chỉ duy nhất Ngài, là căn nguyên của sự vinh hiển Ngài, là nguồn của hạnh phúc Ngài, là khách thể của chính tư duy Ngài; Ngài không hề cần bất cứ gì cho hạnh phúc Ngài mà tất cả đều là sự tự tri, tự giác của Ngài. Ngay cả Thiên Sứ Trưởng trên Thiên Đàng cũng có thể trở nên héo hon nếu thiếu tất cả mọi mối thông công, chỉ duy nhất Đức Chúa Trời là Đấng có năng lực tự thông công. Ađam đã được ở giữa mọi vinh quang của Vườn Êđen, được ở giữa muôn loài sinh vật vẫn cảm thấy cần phải có tình bạn. Thiếu tình bạn, đời sống của Ađam sẽ chỉ còn là một nỗi cô đơn, và Vườn Êđen cũng sẽ chỉ là hoang mạc mà thôi. Được phú cho một bản chất giàu truyền thông đến độ không thể nào thỏa mãn được với việc tự truyền thông người nam khát khao về một cộng đoàn, khát khao về sự hỗ trợ, khát khao về một sự bổ sung cho sự hiện hữu của mình và chừng nào chưa tìm được những sự ấy thì người nam vẫn còn phải sống trong một trạng thái nửa vời. Người nam đã được tạo dựng để tư duy, để nói, để yêu và tư tưởng của người nam cần có được các hoạt động và tư tưởng tương tự để giao lưu và thăng hoa. Trong trạng thái cô độc, lời nói của người nam trở thành những vang vọng không có hồi âm trong không gian như một sự giễu cợt tai quái. Trong trạng thái cô độc, tình yêu của người nam không thể nào tìm ra được nơi đáp đậu để rồi trở thành như là một sự đè nén trong lồng ngực mình, rồi tự suy thoái đi, và lắng đọng thành hiểm họa tàn phá chính bản thân mình. Cả con người của người nam cứ hoài vọng về một con người khác nhưng con người khác ấy là một thực thể chưa hiện hữu… Chẳng có bất cứ một sự hỗ trợ nào cho người nam cả. Trong trạng thái cô độc, nhìn vào các tạo vật, người nam thấy sao chúng thấp hơn mình quá nhiều. Nhìn vào Đấng Sáng Tạo là Đấng đã tạo dựng nên mình người nam thấy sao Ngài cao hơn mình quá nhiều. Người nam đã ở vào một trạng thái chơi vơi khi chưa có người đồng đẳng với mình. Thế nhưng, một khi Đức Chúa Trời đã tạo dựng xong người nữ cho Ađam thì tất cả mọi vấn đề đều đã được giải quyết ngay lập tức! Như vậy là trong trạng thái còn uyên nguyên, chưa bị sa bại, người nam mong có được người đồng đẳng cùng mình để san sẻ niềm vui, cũng giống như sau khi bị sa bại người nam có thêm nhu cần được san sẻ nỗi buồn. Liệu Ađam có thiết tha đến mức dám bày tỏ nguyện vọng của mình với Đức Chúa Trời hay không thì chúng ta không biết được. Thế nhưng, theo như sự trước thuật trong Kinh Thánh cho biết thì có vẻ như Đức Chúa Trời đã cung ứng cho Ađam nguồn phúc lợi này theo ý chỉ tốt đẹp của Ngài cũng giống như vô số các nguồn phúc lợi khác. Nếu việc Đức Chúa Trời ban Êva cho Ađam xuất phát từ chính ý chỉ của Ngài thì thật đáng để cho Ađam đáng ca ngợi Đức Chúa Trời theo như lời của hậu tự của mình nhiều đời về sau đã ca ngợi là “Vì Chúa lấy phước lành mà đón rước người;_Đội trên đầu người mão triều bằng vàng ròng” (Thi. 21:3). Như vậy, đây là sự chế định của Đức Chúa Trời trong việc tạo dựng nữ giới: Đức Chúa Trời đã tạo dựng nữ giới để làm bạn đời cho nam giới. Người nam cần bạn đồng hành và Đức Chúa Trời đã ban người nữ cho người nam. Và, vì lúc bấy giờ chẳng còn có người nam nào khác hơn là Ađam cho nên chúng ta phải hiểu rằng Êva đã được tạo dựng làm nguồn an ủi cho duy nhất Ađam. Điều này dạy cho chúng ta một nguyên tắc căn bản là cho dầu sứ mệnh người nữ là gì đi nữa thì, ít nhất là trong đời sống hôn nhân, thì người nữ cứ là người bạn đời của người nam mà người nữ đã được phối hiệp. Điều đã được chính Đức Chúa Trời tuyên bố ngay từ khởi thủy là quan hệ hôn nhân là một quan hệ bất khả phân ly: “Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ nên một thịt” (Sáng. 2:24). Nếu như sứ mệnh của nữ giới trong Vườn Êđen đã là bạn đồng hành và niềm vui của nam giới thì sứ mệnh của người nữ ngày nay cũng phải giống như thế. Thiên chức của nữ giới không hề bị thay đổi bởi Cuộc Sa Bại của nguyên tổ của loài người. Sau Cuộc Sa Bại, nam giới càng cần sứ mệnh này của nữ giới nhiều hơn. Chính Đức Chúa Trời đã cho thấy rằng nữ giới phải gắn bó chặt chẽ hơn với sứ mệnh của họ. Ngài phán: “Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi” (Sáng. 3:16). Điều rõ ràng là nếu bị gỡ bỏ khỏi sự ràng buộc với nam giới thì nữ giới hoàn toàn tương đẳng với nam giới về bản chất. Thế nhưng nhìn vào cấu trúc thể lý của nữ giới thì lại thấy một điều hiển nhiên khác là toàn bộ cấu trúc thể lý của nữ giới là để thuận lợi cho việc thực hiện sứ mệnh của họ đối với nam giới theo sự thiết định của chính Đức Chúa Trời. Người nữ đã không được chiết ra từ đầu của người nam để hàm ý rằng nữ giới được cầm quyền trên nam giới; người nữ cũng đã không được chiết xuất ra từ chân của người nam để dạy rằng nam giới có quyền chà đạp nữ giới. Người nữ đã được chiết xuất từ hông của người nam để dạy về nguyên tắc là nữ giới là người đồng hành cùng nam giới. Rất có thể nói như thế là có phần tưởng tượng nhưng thật ra khi nhìn nhận vấn đề này trên một góc độ chân chính thì tất là phải có điều để học. Sự thể rằng nữ giới đã được tạo dựng để nắm giữ vai trò phối thuộc nam giới là rất hiển nhiên qua các sự dạy dỗ của Kinh Thánh. Điều này đã được tuyên bố trong Lời Kinh Thánh đã được trích rằng “sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi” (Sv. Sáng. 3:16). Lời này chẳng phải chỉ dành riêng cho duy nhất Êva mà còn là dành cho tất cả những người nữ mà Êva đại diện, tức toàn thể nữ giới. Đấy chính là luật Thiên Thượng cho mối quan hệ giữa hai giới tính, và rồi được triển khai cho toàn nhân loại muôn đời. Những lời đầu trong Sáng. 3:16, “Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con”, đã đặt người nữ trong tình trạng chịu phạt phải đau buồn; còn những lời này, “sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi”, nói về tình trạng phải phục tùng. Từ Cuộc Sa Bại, người chồng đã trở thành tâm điểm của mọi ưa muốn trên trần gian của người vợ và, trên một chừng mực nhất định, đã trở thành người qui định các sự ưa muốn ấy. Nam giới đã được tạo dựng để bày tỏ ra sự vinh hiển và chúc tụng cho Đức Chúa Trời, để làm người phục tùng Ngài và chỉ duy nhất Ngài mà thôi. Thên vào đó, nữ giới đã được tạo dựng cho sự vinh quang của nam giới qua việc phối thuộc nam giới như là trợ thủ và niềm vinh dự cho nam giới. Người nữ đã chẳng những được tạo dựng từ người nam mà cũng lại còn cho người nam nữa. Tất cả vẻ yêu kiều, duyên dáng, và trong sáng của nữ giới không chỉ là những biểu hiện cho sự tuyệt mỹ của họ mà cũng lại còn là cho sự tôn trọng và chân giá trị của nam giới vì tất cả những sự ấy chẳng những đã xuất xứ từ nam giới mà cũng còn là cho nam giới. Đó chính là vị trí của nữ giới theo trật tự của Đức Chúa Trời. Nếu như cần phải trích dẫn thêm các sự dạy dỗ Kinh Thánh khác thì lời của các Sứ Đồ cũng sẽ góp phần củng cố vị trí ấy của họ. “Ấy vậy, như Hội thánh phục dưới Đấng Christ, thì đàn bà cũng phải phục dưới quyền chồng mình trong mọi sự” (Êph. 5:24). Không phải chỉ có một mình Sứ Đồ PhaoLô truyền như thế mà chính Sứ Đồ Phierơ cũng dạy cùng một cách (Sv. 1Phi. 3:1-5). Nữ giới đừng nên cho rằng sự thuận phục này làm mất giá nữ giới. Người ta bảo rằng trong đời sống gia đình, nam giới tỏa sáng như mặt trời nhưng nữ giới cũng như mặt trăng phản chiếu cách êm dịu sự tỏa sáng của mặt trời. Chúng ta có thể diễn đạt theo một cách khác và chính xác hơn thế: Nam giới như một hành tinh chính phản ánh sự vinh hiển của Đức Chúa Trời là Đấng làm trung tâm của cả vũ trụ còn nữ giới như một vệ tinh được hình thành từ sự tráng lệ của Đấng tể trị cả vũ trụ và ở dưới quyền điều khiển của Ngài để bay quanh nam giới và bay cùng nam giới mà chăm nom cho nam giới. Như vậy thì vai trò của nữ giới có thể được tóm tắt bằng sự yêu thương và thuận phục vai trò làm chồng của nam giới. Tuy nhiên, kể từ Cuộc Sa Bại, tất cả những gì có liên quan đến mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới đều mang tính gay gắt cao. Tình yêu của người nữ đã trở nên mãnh liệt hơn, địa vị khiêm tốn của người nữ đã trở nên sâu rộng hơn. Bị các sự kém sút làm cho trở nên rụt rè trong xã hội người nữ chỉ còn có cách đi tìm con người mình trong tấm lòng của chồng mình, họ nhờ vào người nam của mình để lấy lại những thiệt thòi mà họ phải chịu đồng thời tuôn đổ tối đa trên người nam của mình sự khích lệ nhằm làm giảm nhẹ hoặc ngăn chặn các nỗi đắng cay vốn là hậu quả của tội lỗi trong đời sống xã hội. Như vậy, bất chấp là nữ giới có chức phận gì trong xã hội thể theo vai trò chính này của họ trong gia đình, và bất chấp phúc lợi xã hội nào hay quyền lực nào mà nữ giới có thể tạo ra cho đời sống xã hội từ các chức phận ấy, họ đều phải biết tự xem vai trò chính yếu của họ là làm nguồn an ủi cho chồng họ trong quan hệ hôn nhân. Nữ giới phải biết thăng tiến sự an sinh của mình qua việc thăng tiến sự an sinh của chồng họ và họ phải nhận được từ chồng của họ cách thường xuyên mọi điều thuộc về sự tôn trọng, sự che chở, sự ưu ái mà tính đồng đẳng về bản chất của họ, sự đồng hành của họ, sự hiến dâng của họ đáng phải được. Nữ giới, trong đời sống hôn nhân, luôn luôn là bạn đồng hành của chồng là người đồng điệu với họ trên mọi phương diện; là người có thể thố lộ với họ tất cả mọi niềm vui, nỗi buồn, mọi đau khổ, quằn quại sâu kín; là người xem sự hiện diện của họ trong đời sống mình là giàu ý nghĩa hơn cả thế giới còn lại; là người biết nghe lời họ nói như thể lắng nghe loại âm nhạc mình thích nhất; là người xem nụ cười của họ là niềm hân hoan của chính mình; là người biết hối tiếc, biết chuyện trò, biết đồng điệu mỗi dịp được gần gũi nhau; là người biết đồng hành với họ từ tấm lòng cho đến đôi chân; là người đồng cảm với họ ngay cả đối với những cử chỉ nhẹ nhàng của họ. Nữ giới, trong đời sống hôn nhân, luôn luôn là bạn đồng hành của chồng là người trong những giờ phút riêng tư có thể thố lộ với họ mọi uẩn khúc trong lòng; là người tìm thấy ở họ mọi khả năng an ủi, khích lệ dịu dàng của tình bạn thân mật; là người thưởng thức được những lời nói, nụ cười cởi mở đáng phải có từ một người bạn và cũng là trợ thủ mà chính Đức Chúa Trời đã trao ban cho họ. Trong tình bạn mà nữ giới đã được thiết định để ban cho nam giới tất nhiên là phải có các chức năng giao cảm của nữ giới trong vai trò của người an ủi. Trong những lúc riêng tư với nhau phận sự của người nữ là phải an ủi, khích lệ người nam của họ khi người ấy bị thương tổn hay bị xúc phạm; phận sự của người nữ là phải chia sẻ khi người người nam của mình bị oằn xuống vì gánh nặng công việc; phận sự của người nữ là phải biết nói những lời lành giúp làm êm dịu những nỗi buồn khổ của người nam của mình và phận sự của người nữ là phải biết làm tất cả những gì mà một thiên sứ chăm sóc có thể làm được cho người nam của mình. Người nữ phải biết cho và người nam phải biết nhận những khuyên can khôn ngoan có thể có được cho dầu rất có thể người nữ không thể nào am thạo hết những sự phức tạp, tinh tế trong thế giới công việc của người nam. Trên thực tế cũng như về nguyên tắc, sự khuyên can, an ủi phải phép của người nữ đã cứu vớt hàng ngàn người nam khỏi bị rơi vào sự sa bại. Ít có người chồng nào phải cảm thấy hối tiếc vì đã nghe theo những lời khuyên can khôn ngoan của vợ mình; ngược lại, có vô số người phải ân hận vì đã không tham vấn và không làm theo sự tư vấn khôn ngoan của người bạn đời của mình. Vậy thì, thể theo sự định mạng của Đấng Sáng Tạo và Tể Trị, nữ giới được định để làm bạn đời cho nam giới trong cuộc hành trình đi qua đời này. Tất nhiên là điều này chỉ được hoàn thành thông qua định chế hôn nhân, gia đình theo đúng công lệ tự nhiên và luật pháp của xã hội ràng buộc trên cả nam giới và nữ giới. Và, chỉ như thế mới là hợp Kinh Thánh. Đức Chúa Trời đã định mạng và bản chất người trong cả hai giới tính, nam giới và nữ giới, đều có một xu hướng như thế. Dẫu vậy, trên thực tế có vô số trường hợp không chịu sự ràng buộc trong định chế hôn nhân và phải chăng vì thế mà những người nữ ấy khỏi phải thi hành sứ mệnh Thiên Thượng này? Phải chăng chỉ có những người nữ nào ở trong hôn nhân mới phải thi hành sứ mệnh Thiên Thượng ấy? Chắc chắn là không. Trong các trường hợp ngoại lệ này thì phận sự cho những người nữ ấy là phận sự chung mà Đức Chúa Trời đã định cho nữ giới. Và, điều này có quan trọng không? Phải chăng là trải qua các đời và ở mọi quốc gia đã chẳng từng có sự ghi nhận về tính chất quan trọng và tầm ảnh hưởng lớn lao của các đặc trưng của nữ giới trên các phẩm hạnh xã hội, trên phúc lợi và sự cường thịnh của quốc gia, dân tộc? Mỗi người nữ, trong hôn nhân hoặc ngoài hôn nhân, đều có một tầm ảnh hưởng nhất định, hoặc tốt hoặc xấu, đối với thế giới quanh mình thể theo các nét đặc trưng của mình. Mỗi một người nữ, tùy theo thiện đức hay ác đức của họ, tùy theo sự thông tuệ hay u ám của họ, tùy theo sự cẩn trọng hay khinh suất của họ đều đóng góp một phần nhất định vào cuộc thăng trầm của đất nước họ. Chừng nào mà đức hạnh của nữ giới vẫn còn có ưu thế, vẫn còn được chính nữ giới duy trì và nam giới tôn trọng thì đất nước của họ vẫn còn chưa bị chìm vào hố sâu của sự ác được. Trên một chừng mực nhất định thì nữ giới là người duy trì phúc lợi cho đất nước của họ. Đức hạnh của nữ giới, nếu chưa bị hư hoại mà vẫn còn bền vững, sẽ là người lính canh hữu hiệu cho vương quốc của những điều thiện hảo. Nữ giới hoàn toàn có thể đóng góp những sự cống hiến của mình vào luật pháp, công bằng, tự do, và văn hóa, nghệ thuật cho sự hưng thịnh của đất nước họ. Nhưng, theo Kinh Thánh, phải giữ không được để sự răn dạy của nữ giới áp đảo vai trò của nam giới. Ngoại trừ điều ấy, sự thắng thế của trí tuệ và đức hạnh của nữ giới sẽ giúp gia tốc cho tiến trình văn minh nhân loại dễ đạt đến đỉnh cao, sản sinh ra vô số điều tốt đẹp trong đời sống xã hội. Một xã hội mà trong đó nữ giới có đủ điều kiện để hoàn thành các sứ mệnh Thiên Thượng của mình sẽ không dễ dàng bị sụp đổ nhờ sự tác động của sức mạnh của tấm lòng cao quí của họ trên những tấm lòng khác mà, còn hơn thế, nữ giới sẽ giúp vực xã hội mình đang sống lên một tầm cao mới của sự thịnh vượng và hạnh phúc. Và, trong trường hợp này, nữ giới đã hành sử phận sự của họ bên ngoài đời sống hôn nhân, gia đình và đó cũng là phận sự chính đáng của họ. Sứ mệnh của nữ giới bên ngoài đời sống hôn nhân, gia đình có phạm vi là đời sống xã hội, có đối tượng là sự hạnh phúc xã hội, và có phần thưởng là sự tri ân và trân trọng của xã hội. Nếu chúng ta nhận thức đúng về bản chất của sứ mệnh của người nữ thì chúng ta không thể sai về phạm vi của sứ mệnh của người nữ được. Nếu một người nữ đã được tạo dựng cho chỉ một người nam (chứ không phải cho cả xã hội người nam) thì hệ quả rất dễ nhận ra rằng gia đình là môi trường để người nữ thi thố bản lãnh và ảnh hưởng của mình vậy. Trong ngôn ngữ của loài người chỉ có một số rất ít các từ liệu có khả năng nói lên được niềm hạnh phúc tuyệt vời cho tất cả mọi tấm lòng như hai tiếng “gia đình”. “Gia Đình” là thiên đường của tình yêu, là môi trường an toàn nhất cho các mối quan hệ dịu dàng, là thánh địa của sự hòa thuận, là nơi dẫu giàu nhưng không phí và dẫu nghèo nhưng không cực. “Gia Đình” là nơi bệnh mà không đau. “Gia Đình” là nơi phát ra câu thần chú quyến rũ nhất xuyên qua mọi đại lục và đại dương khiến cho những ai dẫu đang say sưa phiêu bạt giang hồ cũng phải dừng chân ngẫm nghĩ. “Gia Đình”. Vâng, chính trong gia đình mà sứ mệnh của những người nữ trong hôn nhân xuất phát và hoàn thành. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“VŨ KHÍ CHO TRẬN CHIẾN THUỘC LINH” (Êph. 6:11) “Hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời, để được đứng vững mà địch cùng mưu kế của Ma Quỉ.” (Êph. 6:11) Phận sự phải giữ thế chủ động để chiến đấu và chiến thắng trên mặt trận với Satan và các quỉ sứ của nó là hiển nhiên theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh Tân Ước: “Hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời, để được đứng vững mà địch cùng mưu kế của Ma Quỉ” (Êph. 6:11) Chúng ta phải được chuẩn bị sẵn sàng, và phải được ban quyền năng để tấn công thu hẹp lãnh địa của kẻ thù. Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng đã thắng muốn chúng ta cũng thắng cùng với Ngài. Bí quyết để thắng trên mặt trận đối với xác thịt là sự nhận biết và thực hành thành thục các phản ứng mặc định đối với sự cám dỗ của tư dục mình; bí quyết để thắng trên mặt trận đối với thế gian là sự đổi mới tấm lòng (thuộc linh) bằng việc lập trình cho nó với Lời Kinh Thánh; và bí quyết để thắng trên mặt trận với Ma Quỉ là sự kháng cự (theo nghĩa rộng đã được trình bày trong phần trên). Vũ khí cho trận chiến thuộc linh là tất cả những gì có cần cho chúng ta để chiến đấu và chiến thắng trên cả ba mặt trận ấy…. “14Vậy, hãy đứng vững, lấy lẽ thật làm dây nịt lưng, mặc lấy giáp bằng sự công bình, 15dùng sự sẵn sàng của Tin lành bình an mà làm giày dép. 16Lại phải lấy thêm đức tin làm thuẫn, nhờ đó anh em có thể dập tắt được các tên lửa của kẻ dữ. 17Cũng hãy lấy sự cứu chuộc làm mão trụ, và cầm gươm của Đức Thánh Linh, là lời Đức Chúa Trời. 18Hãy nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin. Hãy dùng sự bền đỗ trọn vẹn mà tỉnh thức về điều đó, và cầu nguyện cho hết thảy các thánh đồ” (Êph. 6:14-18) I. “LẤY LẼ THẬT LÀM DÂY NỊT LƯNG” Dây nịt lưng của các chiến sĩ La Mã là công cụ để họ giữ cho bộ quân phục được tề chỉnh, và để đeo vũ khí vào người. Satan và các quỉ sứ của nó là một bọn lừa đảo, tư thế và vũ khí của chúng ta phải được ổn định nhờ dây nịt lưng bằng lẽ thật Kinh Thánh. Càng hiểu biết về Thân Vị và Công Nghiệp của Đức Chúa Jêsus Christ thì chúng ta càng giữ được cho mình thế đứng vững vàng trong thẩm quyền của Ngài để kháng cự mọi kẻ thù thuộc linh. Khi được nịt lưng vững vàng, chúng ta không còn ngại ngùng trong trận chiến thuộc linh nữa vì biết rằng “chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần” (Rô. 8:37). “Lấy lẽ thật làm dây nịt lưng” là đứng vững nhờ các lẽ thật Kinh Thánh và đứng vững cho các lẽ thật Kinh Thánh thể hiện bằng thực tế của nếp nghĩ và hành vi thường ngày của chúng ta… “Hỡi con trẻ, ta đã viết cho các con, vì các con đã biết Đức Chúa Cha. Hỡi phụ lão, tôi đã viết cho các ông, vì các ông đã biết Đấng có từ lúc ban đầu. Hỡi kẻ trẻ tuổi, ta đã viết cho các ngươi, vì các ngươi là mạnh mẽ, lời Đức Chúa Trời ở trong các ngươi, và các ngươi đã thắng được Ma Quỉ” (1Gi. 2:14) II. “MẶC LẤY GIÁP BẰNG SỰ CÔNG BÌNH” “Giáp” là công cụ che chắn các cơ quan trọng yếu cho cơ thể của các chiến sĩ. Thiếu giáp, các chiến sĩ sẽ dễ dàng bị tổn thương. Chúng ta không tự làm ra được sự công bình cho mình trước mặt Đức Chúa Trời, nhưng chúng ta được Ngài mặc cho sự công bình qui kết từ sự công bình của Đức Chúa Jêsus, nhờ đó chúng ta được đứng ở địa vị của người công bình theo sự chuẩn nhận của Đức Chúa Trời. Thiếu địa vị công bình ấy, các Cơ Đốc Nhân chẳng làm sao hơn hẳn được các kẻ thù thuộc linh của họ. Đức Chúa Jêsus Christ đã ban cho Cơ Đốc Nhân địa vị công bình và Ngài muốn họ “mặc lấy giáp của sự công bình”, tức thực hành đời sống công bình, xứng đáng theo địa vị đã được qui kết: “Nhưng chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy dè giữ, mặc áo giáp bằng đức tin và lòng yêu thương, lấy sự trông cậy về sự cứu rỗi làm mão trụ” (1Tê. 5:8) III. “DÙNG SỰ SẴN SÀNG CỦA TIN LÀNH BÌNH AN MÀ LÀM GIÀY DÉP” “Làm giày dép” là bao bọc đôi bàn chân bằng một loại công cụ thích nghi nào đó để giúp bảo vệ và làm tăng sức mạnh của bước chân người chiến sĩ. Có giày dép, người chiến sĩ sẽ thuận lợi hơn cả trong phòng thủ lẫn tấn công. “Dùng sự sẵn sàng của Tin Lành bình an” nói về tình trạng sẵn sàng xung trận, chia sẻ sứ điệp bình an với Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ (Sv. Rô. 5:1). Sự bình an này là sự phục hòa với Đức Chúa Trời (Sv. 2Cô. 5:20-21) để được ở trong mối thông công với Ngài, có được sự bình an của Ngài (Sv. Php. 4:7) là điều mà các Cơ Đốc Nhân sẽ kinh nghiệm. IV. “LẤY THÊM ĐỨC TIN LÀM THUẪN” “Thuẫn” là một công cụ để đỡ của người chiến sĩ, công cụ này sẽ giúp cho họ đỡ những đòn đâm, chém, bắn tên,… Đức Chúa Jêsus Christ là Thuẫn Thiên Thượng cho Cơ Đốc Nhân chúng ta, giúp cho chúng ta có thể đỡ, gạt trong mọi hoàn cảnh nếu như chúng ta thực sự có đức tin đặt nơi Ngài. Nếu chúng ta thực sự tin cậy Đức Chúa Jêsus Christ, Ngài sẽ trở thành nguồn tin tưởng và hy vọng tối hậu cho chúng ta chứ không phải là bất cứ gì khác. “Lấy thêm đức tin làm thuẫn” là sự kêu gọi của Đức Chúa Jêsus Christ dành cho chúng ta. Đức Chúa Jêsus Christ muốn chúng ta ngưỡng vọng nơi Ngài, chú mục nơi Ngài, đừng để bị kẻ thù thuộc linh của chúng ta chi phối mà trở thành phân tâm, mất tập trung… “…Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi” (Ma. 22:37) “Nếu ai hầu việc Ta, thì phải theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ hầu việc Ta cũng sẽ ở đó; nếu ai hầu việc Ta, thì Cha Ta ắt tôn quí người” (Gi. 12:26) V. “LẤY SỰ CỨU CHUỘC LÀM MÃO TRỤ” “Mão trụ” là công cụ làm bằng kim loại để che phần đầu cho người chiến sĩ. Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta cũng phải có “mão trụ” thuộc linh là một đời sống tâm trí phù hợp với vị trí mới mà chúng ta có được trong Đức Chúa Jêsus Christ. “Lấy sự cứu chuộc làm mão trụ” là bảo vệ đời sống tâm trí của chúng ta bằng những suy nghĩ hợp Kinh Thánh dành cho con người mới trong Đức Chúa Jêsus Christ: “1Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. 2Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất; 3vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời” (Côl. 3:1-3) “Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều chi chân thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thanh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen, thì anh em phải nghĩ đến” (Php. 4:8) VI. “CẦM GƯƠM CỦA ĐỨC THÁNH LINH” “Gươm” là vũ khí chính yếu của người chiến sĩ để chiến đấu và chiến thắng, trong đó tấn công là chính. Trong trận chiến thuộc linh, Cơ Đốc Nhân phải là những chiến sĩ thiện chiến, trong đó sự thành thục về Lời Đức Chúa Trời là điều tối cần thiết để họ có đủ sự khôn ngoan được ban cho từ Thiên Thượng cho mọi hoàn cảnh. Việc “cầm gươm của Đức Thánh Linh, là lời Đức Chúa Trời” đòi hỏi Cơ Đốc Nhân chúng ta một nền nếp kỷ luật hàng ngày trong việc dành công sức và thời gian cho việc đọc, học, suy gẫm lời Kinh Thánh trong tinh thần cầu nguyện, mong đợi nhận được sự dạy dỗ từ Thiên Thượng. “Cầm gươm của Đức Thánh Linh, là lời Đức Chúa Trời” là thường xuyên sống trong Lời Đức Chúa Trời… “Đức Chúa Jêsus đáp: Có lời chép rằng, người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời” (Ma. 4:4) VII. “LÀM ĐỦ MỌI THỨ CẦU NGUYỆN VÀ NÀI XIN” Sự cầu nguyện là một loại vũ khí đặc biệt mà chỉ có các Cơ Đốc Nhân mới có được. Sự cầu nguyện chính là vũ khí chuyên dùng cho trận chiến thuộc linh của các tín hữu của Đức Chúa Jêsus Christ: “4Vả, những khí giới mà chúng tôi dùng để chiến tranh là không phải thuộc về xác thịt đâu, bèn là bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, có sức mạnh để đạp đổ các đồn lũy: 5Nhờ khí giới đó chúng tôi đánh đổ các lý luận, mọi sự tự cao nổi lên nghịch cùng sự hiểu biết Đức Chúa Trời, và bắt hết các ý tưởng làm tôi vâng phục Đấng Christ” (2Cô. 10:4-5) “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời” (Php. 4:6) “16Hãy vui mừng mãi mãi, 17cầu nguyện không thôi, 18phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy” (1Tê. 5:16-18) Đức Chúa Cha đã giao quyền phán xét cho Đức Chúa Con (Gi. 5:22). Một số quỉ đã bị phán xét và đã bị tống giam rồi (2Phi. 2:4; Giu. 6); nhưng, vẫn có một số quỉ sẽ còn được thả ra trong Thời Kỳ Khổ Nạn (Khải. 9:1-11; 16:13-14). Dầu vậy, bởi Thập Tự Giá, Đức Chúa Jêsus Christ đã đánh bại quỉ quốc của Satan (Gi. 12:31; Lu. 10:18), “Ngài đã truất bỏ các quyền cai trị cùng các thế lực, dùng thập tự giá chiến thắng chúng nó, và nộp ra tỏ tường giữa thiên hạ” (Côl. 2:15; 1Phi. 3:22). “Con Đức Chúa Trời đã hiện ra để hủy phá công việc của Ma Quỉ” (1Gi. 3:8b), “vua chúa thế gian nầy đã bị đoán xét” (Gi. 16:11) và án sẽ được đem ra thi hành vào Ngày Của Chúa (trong Kỳ Tái Lâm của Ngài). Cho đến ngày ấy, trận chiến thuộc linh sẽ vẫn cứ tiếp tục và sẽ phát triển lên đỉnh cao khi sự kiềm chế của Đức Thánh Linh đối với điều ác trên thế gian sẽ được cất bỏ và Satan sẽ ban quyền lực cho “kẻ nghịch cùng Luật Pháp” làm công việc nó (Sv. 2Tê. 2:6-12). Qua Kẻ Đối Địch và Tiên Tri Giả, Satan sẽ bắt bớ các tín hữu của Đức Chúa Jêsus Christ (Khải. 13:4-8). Michen (Micaên) sẽ cùng các thiên sứ của mình tiến hành cuộc chiến tranh với Satan và các quỉ sứ của nó và các thiên sứ của Michen sẽ trục xuất chúng khỏi Thiên Đàng (Đa. 12:1; Khải. 12:7-9). Trong Kỳ Tái Lâm của Đức Chúa Jêsus Christ, Satan sẽ bị xiềng (Ês. 14:15; Khải. 20:1-3). Sau giai đoạn này sẽ diễn ra cuộc tranh chấp cuối cùng, Satan cùng với các thế lực vây cánh của nó sẽ bị ném vào Hồ Lửa vĩnh viễn (Ma. 25:41; Khải. 20:7-10). Mặt trận thuộc linh với xác thịt sẽ được kết thúc khi chúng ta được phục sinh trong thân thể vinh hiển giống với thân thể vinh hiển của Đức Chúa Jêsus (Rô. 8:18-25; 1Cô. 15:50-58; 1Tê. 4:17). Sự tái lâm của Đức Chúa Jêsus Christ cũng sẽ kết thúc mặt trận thuộc linh của chúng ta với thế gian này vì Ngài sẽ hủy bỏ hệ thống thế gian hiện hành đầy dẫy sự bạo tàn, sự độc dữ, sự bất công để thiết lập sự trị vì công nghĩa của Ngài (Ma. 25:31-34). Cũng chính vào Kỳ Tái Lâm của Đức Chúa Jêsus Christ mà mặt trận thuộc linh với Satan và các quỉ sứ của nó sẽ chấm dứt, Satan cùng với các thế lực vây cánh của nó sẽ bị ném vào Hồ Lửa vĩnh viễn. Niềm hy vọng của chúng ta là niềm hy vọng ở Kỳ Mạt Thế: Chúng ta mong đợi sự tái lâm chắc chắn của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta cùng với trời mới, đất mới mà Ngài sẽ thiết lập là kỳ mà Đức Chúa Trời sẽ ở giữa Dân Ngài, là kỳ mà chúng ta hết lòng mong đợi: “3Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi Ngai mà đến, nói rằng: Này, Đền Tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm Dân Ngài; chính Đức Chúa Trời sẽ ở với chúng. 4Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi” (Khải. 21:3-4) Sự mong đợi của Cơ Đốc Nhân chúng ta là một sự mong đợi tích cực bằng tất cả các nổ lực cao nhất của chúng ta để “Nước Cha được đến;_Ý Cha được nên, ở đất như trời!” (Ma. 6:10) thể hiện ra bằng đời sống tin kính của chúng ta: “13Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở. 14Vậy nên, hỡi kẻ rất yêu dấu, vì anh em trông đợi những sự đó, thì phải làm hết sức mình, hầu cho Chúa thấy anh em ở bình an, không dấu vít, chẳng chỗ trách được” (2Phi. 3:13-14) “Phải làm hết sức mình, hầu cho Chúa thấy anh em ở bình an, không dấu vít, chẳng chỗ trách được” là đời sống và phận sự thuộc linh của mọi Cơ Đốc Nhân thật, nhất là của các nhà lãnh đạo thuộc linh: Đời sống của các nhà lãnh đạo thuộc linh phải là đời sống viên thục thuộc linh, phận sự của các nhà lãnh đạo thuộc linh phải là phận sự viên thục thuộc linh cho chính bản thân họ, và gây dựng cho sự viên thục thuộc linh cho những người mà Đức Chúa Trời đã ủy thác cho họ gây dựng. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“SỰ ĂN NĂN, SỰ CỨU RỖI, VÀ ĐỜI SỐNG CÔNG NGHĨA THỰC HÀNH” (Ma. 3:8-10) “Vậy, các ngươi hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn, và đừng tự khoe rằng: Ápraham là Tổ chúng ta; vì Ta nói cho các ngươi rằng Đức Chúa Trời có thể khiến đá nầy sanh ra con cái cho Ápraham được. Bây giờ cái búa đã để kề rễ cây; vậy hễ cây nào không sanh trái tốt thì sẽ phải đốn và chụm.” (Ma. 3:8-10) Có rất nhiều người hiểu rằng “sự ăn năn” chỉ thuần là việc “từ bỏ tội lỗi” nhưng hiểu như vậy thì chưa hết nghĩa theo Kinh Thánh được. Về cơ bản, theo Kinh Thánh, sự ăn năn là việc thay đổi “về nếp nghĩ” tức là “sự nhận thức”. Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết rằng sự ăn năn thật phải kết quả ở “việc làm” tức là “hành vi” nữa… “8Thế thì, hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn; và đừng tự nói rằng: Ápraham là Tổ Phụ chúng ta; vì ta nói cùng các ngươi, Đức Chúa Trời có thể khiến từ những đá nầy sanh ra con cái cho Ápraham được. 9Cái búa đã để kề gốc cây; hễ cây nào không sanh trái tốt thì sẽ bị đốn và chụm. 10Chúng bèn hỏi Giăng rằng: Vậy thì chúng tôi phải làm gì? 11Người đáp rằng: Ai có hai áo, hãy lấy một cái cho người không có; và ai có đồ ăn cũng nên làm như vậy. 12Cũng có những người thâu thuế đến để chịu Phép Báptêm; họ hỏi rằng: Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? 13Người nói rằng: Đừng đòi chi ngoài số luật định. 14Quân lính cũng hỏi rằng: Còn chúng tôi phải làm gì? Người nói rằng: Đừng hà hiếp, đừng phỉnh gạt ai hết, nhưng hãy bằng lòng về lương hướng mình” (Lu. 3:8-14) “Vậy, các ngươi hãy ăn năn và trở lại, đặng cho tội lỗi mình được xóa đi” (Công. 3:19) Đó là Lẽ Thật Kinh Thánh và cho dầu ở trong hoàn cảnh khó khăn, các vị Sứ Đồ cũng vẫn cứ nói thật về sự ăn năn: “19Tâu vua Ạcrípba, từ đó, tôi chẳng hề dám chống cự với sự hiện thấy trên trời; 20nhưng đầu hết tôi khuyên dỗ người thành Đamách, kế đến người thành Giêrusalem và cả xứ Giuđê, rồi đến các Dân Ngoại rằng phải ăn năn và trở lại cùng Đức Chúa Trời, làm công việc xứng đáng với sự ăn năn” (Công. 26:19-20) Vậy, sự ăn năn có liên quan với sự cứu rỗi và đời sống công nghĩa thực hành ra sao? Sách Công Vụ Các Sứ Đồ nhấn mạnh nhiều đến mối liên quan giữa sự ăn năn và sự cứu rỗi (Công. 2:38; 3:19; 11:18; 17:30; 20:21; 26:20). Trong mối liên quan với sự cứu rỗi thì sự ăn năn chính là việc thay đổi “về nếp nghĩ” về Đức Chúa Jêsus, tức là về sự nhận thức về Đức Chúa Jêsus. Chính vì vậy mà Sứ Đồ Phierơ đã kết thúc bài giảng của mình trong Ngày Lễ Ngũ Tuần bằng việc kêu gọi hãy ăn năn: “Phierơ trả lời rằng: Hãy hối cải, ai nấy phải nhân danh Đức Chúa Jêsus chịu Phép Báptêm, để được tha tội mình, rồi sẽ được lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh” (Công. 2:38) Sứ Đồ Phierơ đã kêu gọi hãy ăn năn về điều gì? Sự ăn năn mà Sứ Đồ Phierơ kêu gọi ở đây đồng nghĩa với sự thay đổi trong nhận thức về Đức Chúa Jêsus: “Vậy, cả nhà Ysơraên khá biết chắc rằng Đức Chúa Trời đã tôn Jêsus nầy, mà các ngươi đã đóng đinh trên thập tự giá, làm Chúa và Đấng Christ” (Công. 2:36) Sự Ăn Năn và Đức Tin có thể được xem như là hai mặt của cùng một vấn đề: Sự Ăn Năn và Đức Tin chính là điều kiện cần và đủ của sự cứu rỗi. Không thể có việc một người đặt niềm tin của mình trong Đức Chúa Jêsus mà trước đó không thay đổi về nhận thức về Thân Vị và Công Nghiệp của Ngài. Cho dầu sự nhận thức ấy được thay đổi từ việc không biết Ngài cho đến việc biết Ngài, từ việc không quan tâm về Ngài đến việc quan tâm về Ngài, từ việc bất kính Ngài đến việc tôn kính Ngài thì tất cả cũng đều là sự thay đổi về nhận thức, sự thay đổi thuộc lĩnh vực trí năng. Như vậy, xét trong mối quan hệ với sự cứu rỗi, sự ăn năn hợp Kinh Thánh là việc thay đổi nhận thức từ chỗ khước từ Ngài đến chỗ tiếp nhận Ngài bằng Đức Tin. Thế nhưng chúng ta nhất thiết không được phép nghĩ rằng sự ăn năn là một việc chúng ta phải làm để có được sự cứu rỗi. Không một ai tự có năng lực ăn năn mà tất cả đều phải được Đức Chúa Trời ban cho: “Ví bằng Cha, là Đấng sai Ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng Ta, và Ta sẽ làm cho người đó sống lại nơi ngày sau rốt” (Gi. 6:44) Phương diện Ân Điển của sự ăn năn cũng được Sách Công Vụ Các Sứ Đồ khẳng định rất rõ: Không thể có sự ăn năn ngoài Ân Điển của Đức Chúa Trời! “Đức Chúa Trời đã đem Đấng ấy lên bên hữu Ngài, làm Vua và Cứu Chúa, để ban lòng ăn năn và sự tha tội cho dân Ysơraên” (Công. 5:31) “Tín đồ nghe bấy nhiêu lời xong, đều thỏa thuận và ngợi khen Đức Chúa Trời, rằng: Vậy Đức Chúa Trời cũng đã ban sự ăn năn cho Người Ngoại để họ được sự sống!” (Công. 11:18) Thật ra tất cả mọi sự có liên quan đến sự cứu rỗi đều là kết quả của việc Đức Chúa Trời đem người được cứu trở về với Ngài. Để con người có được sự ăn năn thì Đức Chúa Trời đã phải di bước trước bằng sự nhịn nhục và nhân từ của Ngài… “Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu, nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn” (2Phi. 3:9) “Hay là ngươi khinh dể sự dư dật của lòng nhân từ, nhịn nhục, khoan dung Ngài, mà không nhận biết lòng nhân từ của Đức Chúa Trời đem ngươi đến sự ăn năn sao?” (Rô. 2:4) Cũng còn một phương diện khác không thể bỏ qua được. Mặc dầu sự ăn năn không phải là một việc làm giúp đem lại sự cứu rỗi nhưng Ân Điển Ăn Năn cùng với Ân Điển Đức Tin dẫn đến Ân Điển Cứu Rỗi khiến cho một người thực sự có sự ăn năn phải có đời sống công nghĩa thực hành. Kinh Thánh đòi hỏi sự ăn năn của một người phải kết quả qua hành vi của họ. Chính vì thế mà Giăng Báp Tít đã đưa ra lời kêu gọi và cảnh báo này: “8Vậy, các ngươi hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn, 9và đừng tự khoe rằng: Ápraham là Tổ chúng ta; vì Ta nói cho các ngươi rằng Đức Chúa Trời có thể khiến đá nầy sanh ra con cái cho Ápraham được. 10Bây giờ cái búa đã để kề rễ cây; vậy hễ cây nào không sanh trái tốt thì sẽ phải đốn và chụm” (Ma. 3:8-10) Một người đã thực sự ăn năn, tức là đã từ chỗ phủ nhận Đức Chúa Jêsus đến chỗ đặt đức tin nơi Ngài, phải được minh thị qua việc đời sống của mình được thay đổi… “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (2Cô. 5:17) “19Vả, các việc làm của xác thịt là rõ ràng lắm: Ấy là gian dâm, ô uế, luông tuồng, 20thờ hình tượng, phù phép, thù oán, tranh đấu, ghen ghét, buồn giận, cãi lẫy, bất bình, bè đảng, 21ganh gổ, say sưa, mê ăn uống, cùng các sự khác giống như vậy. Tôi nói trước cho anh em, như tôi đã nói rồi: Hễ ai phạm những việc thể ấy thì không được hưởng nước Đức Chúa Trời. 22Nhưng trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ: 23Không có Luật Pháp nào cấm các sự đó” (Gal. 5:19-23) “14Hỡi anh em, nếu ai nói mình có đức tin, song không có việc làm, thì ích chi chăng? Đức tin đó cứu người ấy được chăng? 15Ví thử có anh em hoặc chị em nào không quần áo mặc, thiếu của ăn uống hằng ngày, 16mà một kẻ trong anh em nói với họ rằng: Hãy đi cho bình an, hãy sưởi cho ấm và ăn cho no, nhưng không cho họ đồ cần dùng về phần xác, thì có ích gì chăng? 17Về đức tin, cũng một lẽ ấy; nếu đức tin không sanh ra việc làm, thì tự mình nó chết” (Gia. 2:14-17) Sự ăn năn, sự cứu rỗi, và đời sống công nghĩa thực hành luôn gắn bó chặt chẽ với nhau thành một tổng thể bất khả phân ly và đó là chuẩn mực để Cơ Đốc Nhân có thể phân biệt ai là ai và cái gì là cái gì! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“PHẢI SỐNG TRONG SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC CHHÚA TRỜI!” (Thi. 56:13) “Vì Chúa đã giải cứu linh hồn tôi khỏi chết: Chúa há chẳng giữ chân tôi khỏi vấp ngã, Hầu cho tôi đi trước mặt Đức Chúa Trời trong sự sáng của sự sống?” (Thi. 56:13) Là Cơ Đốc Nhân, việc phải sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời là một nguyên tắc Kinh Thánh… “Vì Chúa đã giải cứu linh hồn tôi khỏi chết: Chúa há chẳng giữ chân tôi khỏi vấp ngã, Hầu cho tôi đi trước mặt Đức Chúa Trời trong sự sáng của sự sống?” (Thi. 56:13) Là người đã được cứu, Cơ Đốc Nhân chúng ta khá quen thuộc với nguyên tắc phải sống theo Thánh Linh, không được phép sống theo xác thịt (Sv. Rô. 8:9), tức là sống đời sống mới của người đã được tái sinh (1Phi. 1:3), nhưng nguyên tắc phải sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời lại là một điều vẫn còn khá xa lạ đối với nhiều người! Bản dịch Việt Ngữ Cổ Điển (1926) mà chúng ta có đã dịch rất tốt cả hai vế của Thi. 56:13, nhất là vế sau… “Hầu cho tôi đi trước mặt Đức Chúa Trời trong sự sáng của sự sống?” (Thi. 56:13b) Một từ ngữ Hybálai (Hb.) quan trọng là Hb. םינפ םיהלא [paniym ‘elohiym] đã được sử dụng để nhấn mạnh rằng người đã có được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời (“Chúa đã giải cứu linh hồn tôi khỏi chết_Chúa há chẳng giữ chân tôi khỏi vấp ngã”) thì nhất định sẽ phải là người sống trong םינפ םיהלא [paniym ‘elohiym] của Đức Chúa Trời - Tức là sống trước mặt (“םינפ [paniym]”) Ngài, sống trong sự nhận biết của Ngài, sống theo sự chuẩn thuận của Ngài. Kinh Thánh Tân Ước cũng có một cách diễn đạt khác về phận sự tối thượng ấy… “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm.” (1Cô. 10:31) Trong bản dịch Kinh Thánh sang Tiếng Latinh từ liệu Hybálai םינפ םיהלא [paniym ‘elohiym] được dịch bằng một từ liệu Latinh (Lat.) là Coram Deo, một từ liệu hàm nghĩa “Trước mặt Đức Chúa Trời”. Coram Deo là một phạm trù thần học Kinh Thánh được chấp nhận rộng rãi giữa vòng những người Tin Lành Cải Chánh nhưng cũng có nhiều người trong một số hệ phái Tin Lành khác cũng như Công Giáo La Mã tin nhận. Theo thần học Kinh Thánh thì “Trước Mặt Đức Chúa Trời”, “Trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời” là một phạm trù có ít nhất ba ngoại diên căn bản sau đây… Thứ nhất, nguyên tắc “Phải sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời” đòi hỏi Cơ Đốc Nhân phải sống trong sự tôn trọng quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời. Quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời là một sự hiểu biết căn bản và khá quen thuộc đối với Cơ Đốc Nhân… “Hỡi Đức Giêhôva, Ngài đã dò xét tôi, và biết tôi._Chúa biết khi tôi ngồi, lúc tôi đứng dậy;_Từ xa Chúa hiểu biết ý tưởng tôi._Chúa xét nét nẻo đàng và sự nằm ngủ tôi,_Quen biết các đường lối tôi._Vì lời chưa ở trên lưỡi tôi,_Kìa, hỡi Đức Giêhôva, Ngài đã biết trọn hết rồi… Tôi sẽ đi đâu xa Thần Chúa?_Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Chúa?_Nếu tôi lên trời, Chúa ở tại đó,_Ví tôi nằm dưới Âm phủ, kìa, Chúa cũng có ở đó._Nhược bằng tôi lấy cánh hừng đông,_Bay qua ở tại cuối cùng biển,_Tại đó tay Chúa cũng sẽ dẫn dắt tôi,_Tay hữu Chúa sẽ nắm giữ tôi. ” (Thi. 139: 1-4; 7-10) “Quyền Tể Trị Tối Cao” của Đức Chúa Trời là một phạm trù thần học Kinh Thánh vừa quan trọng vừa khó thông suốt được đối với tâm trí của nhiều người dầu rằng hầu như tất cả các hệ Cơ Đốc đều đồng ý rằng Đức Chúa Trời là Đấng tối cao cả về năng quyền lẫn thẩm quyền. “Quyền Tể Trị Tối Cao” của Đức Chúa Trời là một hệ quả tất yếu của các mỹ đức căn bản của bản chất Ngài: Toàn Tri (Omniscience), Toàn Năng (Omnipotence), và Toàn Tại (Omnipresence). Dưới ánh sáng Kinh Thánh, “Quyền Tể Trị Tối Cao” của Đức Chúa Trời là một tất yế khách quan duy nhất thuộc về Ngài. Kinh Thánh cho biết Đức Chúa Trời là Đấng vừa toàn tri vừa toàn năng (Sv. Thi. 147:5), Ngài không phụ thuộc cả không gian lẫn thời gian (Sv. Xuất. 3:14; Thi. 90:2), và Ngài toàn quyền trên tạo vật Ngài (Sv. Sáng. 1:1; Gi. 1:1). Về căn bản, “Quyền Tể Trị Tối Cao” là một phạm trù thần học Kinh Thánh nói về lẽ thật Kinh Thánh rằng Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất có và hoàn toàn có sự khôn ngoan (wisdom), năng quyền (power), và thẩm quyền (authority) để định mạng tất cả mọi sự cho tạo vật Ngài và làm cho sự định mạng Ngài diễn ra cho tạo vật Ngài. Trên phương diện nội hàm, “Quyền Tể Trị Tối Cao” của Đức Chúa Trời được Kinh Thánh bày tỏ rất phong phú (Sv. 1Sa. 2:6; 1Sử. 29:11-12; Thi. 115:3; Đa. 4:25; Công. 4:24; Rô. 8:28; 9:15-23; 1Ti. 6:15; Khải. 4:11). Về phương diện ngoại diên “Quyền Tể Trị Tối Cao” của Đức Chúa Trời thường được Kinh Thánh nói đến bằng các từ liệu Hb. הכלממ [mamlakah] (Sv. Sáng. 20:9; Dân. 32:33; Phục. 3:4) và Gr. βασιλεία [basileia] (Sv. Ma. 12:25; Lu. 19:12; Gi. 18:36) để chỉ về Vương Quốc mà Đức Chúa Trời là Quốc Vương. Sự khải thị về quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời được nhấn mạnh cả trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước… “Khốn thay cho kẻ cãi lại với Đấng tạo nên mình! Một bình trong các bình bằng đất! Đất sét há dễ nói cùng thợ gốm là người nhồi mình rằng: Ngươi làm chi? hoặc việc ngươi làm ra há nói rằng: Nó không có tay?” (Ês. 45:9) “Nhưng, hỡi người, ngươi là ai, mà dám cãi lại cùng Đức Chúa Trời? Có lẽ nào cái bình bằng đất sét lại nói với kẻ nắn nên mình rằng: Sao ngươi đã làm nên ta như vậy? Người thợ gốm há chẳng có quyền trên đất sét, cùng trong một đống mà làm ra hạng bình để dùng việc sang trọng, lại hạng khác để dùng việc hèn hạ sao?” (Rô. 9:20-21) Thứ hai, nguyên tắc “Phải sống dưới uy quyền của Đức Chúa Trời” cách trực tiếp và cách gián tiếp. Nguyên tắc “Phải sống dưới uy quyền của Đức Chúa Trời” thật ra là một hệ quả tất yếu của nguyên tắc “Phải sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời” là nguyên tắc khẳng định thẩm quyền tối thượng của Ngài: Đức Chúa Trời không phải qui phục bất cứ sự gì ngoài Ngài còn tất cả các vật thọ tạo của Ngài thì, trái lại, phải thuận phục Ngài cách hoàn toàn vì mọi thẩm quyền đều thuộc về Ngài và xuất xứ từ Ngài… “Mọi người phải vâng phục các đấng cầm quyền trên mình; vì chẳng có quyền nào mà không đến bởi Đức Chúa Trời, các quyền đều bởi Đức Chúa Trời chỉ định.” (Rô. 13:1) Thẩm quyền trực tiếp của Đức Chúa Trời trên tạo vật của Ngài được thi hành trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ… “Đức Chúa Jêsus đến gần, phán cùng môn đồ như vầy: Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho Ta.” (Ma. 28:18; Sv. Khải. 1:8; Côl. 1:18; Rô. 8:29) Riêng đối với những người đã được biệt riêng ra cho sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời thì họ còn được Ngài ban cho một sự chiếu cố đặc biệt: Được hưởng thẩm quyền thuộc linh của Ngài thông qua người của Ngài… “Hãy vâng lời kẻ dắt dẫn anh em và chịu phục các người ấy, bởi các người ấy tỉnh thức về linh hồn anh em, dường như phải khai trình, hầu cho các người ấy lấy lòng vui mừng mà làm xong chức vụ mình, không phàn nàn chi, vì ấy chẳng ích lợi gì cho anh em.” (Hê. 13:17) Thứ ba, nguyên tắc “Phải sống cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời”. Êxêchiên mô tả sự vinh hiển của Đức Chúa Trời cách hữu hình và lạ lùng… “Bên trên vòng khung giãi trên đầu các vật sống, có hình như cái ngai, trạng nó như là bích ngọc; trên hình ngai ấy có hình như người ở trên nó. Trong ngai và mọi nơi chung quanh, ta cũng thấy như đồng bóng nhoáng, giống lửa, từ trạng ngang lưng người ấy trở lên; và từ trạng ngang lưng trở xuống, ta thấy như lửa sáng hừng chung quanh. Ánh sáng thấy chung quanh đó giống như ánh sáng của cái mống trong mây khi đương mưa. Ấy là tỏ ra hình trạng của sự vinh quang Đức Giêhôva. Ta thấy thì sấp mặt xuống và nghe tiếng của một Đấng phán cùng ta.” (Êx. 1:26-28) Theo tiên tri Habacúc, sự vinh hiển của Đức Chúa Trời có trương độ, cường độ, và hình thức vừa tự nhiên, vừa siêu nhiên… “Đức Chúa Trời đến từ Thêman,_Đấng Thánh đến từ núi Pharan._Vinh hiển Ngài bao phủ các từng trời,_Đất đầy sự khen ngợi Ngài._Sự chói rạng của Ngài như ánh sáng,_Những tia sáng ra từ tay Ngài,_Quyền năng Ngài giấu trong nơi đó._Ôn dịch đi trước mặt Ngài,_Tên lửa ra nơi chân Ngài._Ngài đứng và đo đất;_Ngài nhìn xem, làm tan tác các dân tộc;_Các núi hằng còn đều tan nát,_Các đồi đời đời đều quì xuống:_Các đường lối Ngài giống như thuở xưa.” (Ha. 3:3-6) “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” là một phạm trù thần học Kinh Thánh đề cập về sự tốt đẹp, oai nghi, huy hoàng,… xuất phát từ các mỹ đức của của Đức Chúa Trời và “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” chính là đích điểm tối hậu của mọi đời sống trên thế gian này (Sv. 1Cô. 10:31; Phlp. 2:11). “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” là một phạm trù có nhiều ngoại diên. Phần lớn Kinh Thánh Cựu Ước đề cập đến “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” như thể là sự cao quí và huy hoàng của Đức Chúa Trời (Sv. Thi. 19:1; 106:20; Châm. 25:2). Trong Kinh Thánh Tân Ước, khi Đức Chúa Jêsus phán rằng “Bịnh nầy không đến chết đâu, nhưng vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, hầu cho Con Đức Chúa Trời bởi đó được sáng danh” (Sv. Gi. 11:4, 40) thì “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” có liên quan đến công việc của Đức Chúa Jêsus Christ và đức tin của chúng ta. Khi Êtiên “mắt ngó chăm lên trời, thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Jêsus đứng bên hữu Đức Chúa Trời” (Sv. Công. 7:55) thì “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” chính là sự vĩ đại thấy được của Đức Chúa Trời trên Thiên Đàng… “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” đã thể hiện tập trung ở Đức Chúa Jêsus Christ (Sv. Hê. 1:3) và sẽ còn xuất hiện trong tương lai nơi chính Thành Thánh của Đức Chúa Trời trên thế gian này (Sv. Khải. 15:8; 21:11, 23). Đời sống của con người có liên quan đến “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)”. Trong trạng thái phạm tội, con người “Thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Sv. Rô. 3:23). Với đức tin, con người có được “Sự trông cậy về vinh hiển Đức Chúa Trời” (Sv. Rô. 5:2). Khi Cơ Đốc Nhân chúng ta đối đãi tốt với nhau thì “Đức Chúa Trời được vinh hiển”, tức Đức Chúa Trời được tôn cao (Sv. Rô. 15:7). Sống để tôn vinh hiển cho Đức Chúa Trời là nguyên tắc tối thượng cho hành vi Cơ Đốc (Sv. 1Cô. 10:31). “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm.” (1Cô. 10:31) Nhìn chung, “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” là một phạm trù được đề cập bằng nhiều cách khác nhau trong Kinh Thánh. “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” có thể liên quan đến tính vĩ đại của Đức Chúa Trời, sự tốt đẹp của Ngài, quyền năng của Ngài,… trong mọi trường hợp, “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” đều liên quan đến việc nhận biết tính tối cao của Đức Chúa Trời cả trong việc nương cậy Ngài và hầu việc Ngài. Nguyên tắc “Phải sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời” (Hb. םיהלא [paniym ‘elohiym]; Lat. Coram Deo) nghịch lại với mọi sự dạy ngoài đời cũng như trong đạo hiện nay. Nhìn chung, các phương tiện giải trí và truyền thông xã hội luôn xiển dương những lối sống loại bỏ hoàn toàn Đức Chúa Trời và những nổ lực ấy cũng đã thâm nhập và làm xói mòn đời sống Hội Thánh khiến cho không ít Cơ Đốc Nhân sống một đời sống không thể nhận ra Đức Chúa Trời ở đâu cả. Ngay cả một số các nhà lãnh đạo Hội Thánh cũng bị tiêm nhiễm quan điểm và thói tục sống của thế gian khiến cho họ cứ dốc sức tìm quyền lực bằng mọi kiểu, giàu có bằng mọi cách, và nổi tiếng bằng mọi giá! Là những Cơ Đốc Nhân chân chính, chúng ta phải dốc chí trượng phu và mạnh mẽ sống cho sự vinh hiển tối hậu của Đức Chúa Trời, sống trong uy quyền tối cao của Đức Chúa Trời, và sống theo thẩm quyền tất yếu và phổ quát của Đức Chúa Trời; chúng ta phải sống “Coram Deo”… “Hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em…” (1Phi. 3:15) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“HÃY BỀN LÒNG GIẢNG ĐẠO!” (2Ti. 4:1-5) “Nhưng con, phải có tiết độ trong mọi sự, hãy chịu cực khổ, làm việc của người giảng Tin lành, mọi phận sự về chức vụ con phải làm cho đầy đủ.” (2Ti. 4:5) Theo tầm nhìn Thiên Thượng thì việc giảng và việc nghe giảng Lời của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh là cực kỳ quan trọng. Chính theo ý chỉ ấy của Đức Chúa Trời mà Sứ Đồ Phaolô đã viết: “1Ta ở trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng sẽ đoán xét kẻ sống và kẻ chết, nhân sự đến của Ngài và Nước Ngài mà răn bảo con rằng: 2 Hãy giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi. 3 Vì sẽ có một thời kia, người ta không chịu nghe đạo lành; nhưng vì họ ham nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo sư xung quanh mình, 4 bịt tai không nghe lẽ thật, mà xây hướng về chuyện huyễn. 5 Nhưng con, phải có tiết độ trong mọi sự, hãy chịu cực khổ, làm việc của người giảng Tin Lành, mọi phận sự về chức vụ con phải làm cho đầy đủ.” (2Ti. 4:1-5) Tầm quan trọng này có thể được nhận ra trên ba phương diện sau đây: I. VÌ SỰ ĐOÁN PHẠT HẦU ĐẾN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ VIỆC THIẾT LẬP VƯƠNG QUỐC CỦA NGÀI. (2Ti. 4:1-2). “Ta ở trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng sẽ đoán xét kẻ sống và kẻ chết, nhân sự đến của Ngài và Nước Ngài mà răn bảo con rằng: Hãy giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi.” (2Ti. 4:1-2) Qua hai câu Kinh Thánh này có bốn điều được trình bày… 1. Lý Do Giảng: Giúp Chuẩn Bị Về Đời Sống. Từ liệu “răn bảo” (Gr. διαμαρτύρομαι [diamarturomai]; Sv. 1Ti. 5:21; 2Ti. 2:14) trong Tiếng Hy Lạp có nghĩa là “truyền lệnh” theo cách dùng của luật pháp ở tòa án. Chính trong viễn cảnh của “Tòa Lớn Và Trắng” (Sv. Khải. 20:11) Đức Chúa Trời đã dùng ngòi viết của Sứ Đồ Phaolô truyền lệnh giảng Tin Lành cho Timôthê. Đối với Cơ Đốc Nhân là những người đã được cứu như chúng ta thì việc ứng hầu “Tòa Lớn Và Trắng” được miễn trừ nhưng việc phải ứng hầu trước “Tòa Án Đấng Christ” là bắt buộc! (2Cô. 5:10) Tiếp theo sự đoán phạt của Đấng Christ sẽ là việc thiết lập Vương Quốc của Ngài (“Nước Ngài”, C. 1) và chính vì những lý do này mà Lời Ngài phải được giảng ra để mọi người chuẩn bị đời sống mình cho viễn cảnh này. 2. Nội Dung Giảng: Lời Kinh Thánh. Lời nào trong Kinh Thánh phải được giảng? Nhất định ấy phải là “Tin Lành” (Sv. C. 5). Thế nhưng vì văn mạch rộng của đoạn văn này (Ti. 4:1-5) chứa đựng cả 2Ti. 3:16-17 cho nên chúng ta có thể tin rằng mọi lời có cần trong Kinh Thánh đều phải được giảng. 3. Thời Điểm Giảng: Mọi Lúc, Mọi Nơi. Việc giảng Kinh Thánh phải được thực hiện “bất luận gặp thời hay không gặp thời”. Từ ngữ “bất luận” (Gr. ἐφίστημι [ephistemi]) là một mệnh lệnh về sự sẵn sàng. Việc giảng Kinh Thánh không được phép để rơi vào tình trạng trì trệ, bế tắc mà phải sẵn sàng trong mọi lúc ở mọi nơi. 4. Mục Đích Giảng: Giúp Thay Đổi Đời Sống. Vì sao mà người giảng Kinh Thánh phải “đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi”? (C. 2b). Ấy là vì lời Kinh Thánh được giảng ra là để giúp cho người nghe thay đổi đời sống cho phù hợp theo ý chỉ của Đức Chúa Trời để họ tránh khỏi “Tòa Lớn Và Trắng” (Sv. Khải. 20:11) mà được ứng hầu “Tòa Án Đấng Christ” (2Cô. 5:10) để nhận phần thưởng của Ngài. II. VÌ XU HƯỚNG TRÁNH NÉ ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ SỰ DẠY DỖ CỦA NGÀI CỦA NGƯỜI ĐỜI (2Ti. 4:3-4). “Vì sẽ có một thời kia, người ta không chịu nghe đạo lành; nhưng vì họ ham nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo sư xung quanh mình, bịt tai không nghe lẽ thật, mà xây hướng về chuyện huyễn.” (2Ti. 4:3-4) Giảng Kinh Thánh không bao giờ là một công việc luôn được thuận lợi. Người giảng Kinh Thánh phải lường trước “khi gặp thời” và “khi không gặp thời” vì xu hướng chung của người chưa được cứu là tránh né Đức Chúa Trời và sự dạy dỗ của Ngài (Sv. Êph. 4:17-19). Ngay cả giữa vòng các Cơ Đốc Nhân vẫn có những người còn phải chịu lâm lụy với tính xác thịt của mình (Sv. Gal. 5:16) cho nên sự nghiêm huấn của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh không phải lúc nào cũng được ưa chuộng (Sv. 2Ti. 4:3-4). “Đạo lành” (Gr. ὑγιαίνω διδασκαλία [hugiaino didaskalia]) nói về các giáo lý Kinh Thánh hợp Kinh Thánh, nói về sự nghiêm huấn của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh. III. VÌ PHẬN SỰ CỦA NGƯỜI ĐÃ ĐƯỢC ĐỨC CHÚA TRỜI BIỆT RIÊNG RA CHO TIN LÀNH CỦA NGÀI (2Ti. 4:5). “Nhưng con, phải có tiết độ trong mọi sự, hãy chịu cực khổ, làm việc của người giảng Tin Lành, mọi phận sự về chức vụ con phải làm cho đầy đủ.” (2Ti. 4:1-5) Giảng Kinh Thánh không bao giờ là một việc nhàn hạ, trái lại ấy là một việc đòi hỏi sự “chịu khổ” (Gr. κακοπαθέω [kakopatheo]) tức là phải chịu đựng mọi sự gian truân mà Đức Chúa Trời đã dành cho “người giảng Tin Lành” (Gr. εὐαγγελιστής [euaggelistes]) của Ngài theo ơn cao sâu của Ngài mà phận sự của họ là “phải làm cho đầy đủ” (Gr. πληροφορέω [plerophoreo]), tức là phải hoàn thành. Để có thể hoàn thành phận sự của người được biệt riêng ra cho Tin Lành của Đức Chúa Trời thì đời sống của họ không thể tùy tiện mà phái nhất mực “tiết độ” (Gr. νήφω [nepho]), tức là phải hết sức cẩn trọng. Phận sự giảng Lời của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh luôn đòi hỏi người ta có một đời sống giàu phẩm chất giữ mình theo các nguyên tắc Kinh Thánh. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“PHẢI HƯỞNG ỨNG ĐỐI VỚI ĐỨC THÁNH LINH!” (1Cô. 12:7) “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời.” (1Phi. 4:10) Sự hiểu biết về Đức Thánh Linh phải dẫn đến sự hưởng ứng đối với Đức Thánh Linh vì sự hiểu biết về Đức Thánh Linh soi sáng cho Cơ Đốc Nhân nhiều điều, trong đó có việc nhận biết và thực hành các ân tứ thuộc linh đã được Đức Chúa Trời ban cho để họ phục vụ Ngài qua việc phục vụ Dân Sự của Ngài trong Hội Thánh. Sự hưởng ứng đối với Đức Thánh Linh nói về phận sự thực hành các ân tứ thuộc linh của Cơ Đốc Nhân. Theo bản chất, sự hưởng ứng đối với Đức Thánh Linh chính là phận sự thực hành đức tin của người tín hữu của Đức Chúa Jêsus Christ (Gia. 2:26), sự hưởng ứng đối với Đức Thánh Linh một cách tận tụy là một phận sự Cơ Đốc chứ không phải là một sự tùy chọn cá nhân: “10Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời. 11Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen” (1Phi. 4:10-11) Phận sự hưởng ứng đối với Đức Thánh Linh là một đòi hỏi phổ quát đối với mọi Cơ Đốc Nhân vì mỗi tín hữu đều đã được trao ban ân tứ thuộc linh của Đức Chúa Trời: “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy đều được sự ích chung” (1Cô. 12:7) I. Bản Chất Và Mục Đích Của Ân Tứ Thuộc Linh Từ liệu Hy Lạp thường được sử dụng nhiều nhất để nói về ân tứ thuộc linh là charisma, một tiếng danh từ nói về sự ban cho của Đức Chúa Trời theo ý chỉ của Ngài, tức theo Ân Điển của Ngài: “Ơn của Đức Chúa Trời”… “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời” (1Phi. 4:10) Vì công việc của Đức Chúa Trời chỉ có thể được hoàn thành bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, mỗi ân tứ thuộc linh là một sự ủng hộ từ Đức Thánh Linh nhằm hình thành nơi người tín hữu một năng lực đặc biệt để góp phần gây dựng cho các tín hữu khác. Chúng ta có thể tìm thấy từ lời Kinh Thánh một số các nguyên tắc có liên quan đến sự thiết định của Đức Chúa Trời đối với ân tứ thuộc linh của Ngài: 1. Mỗi tín hữu đều có một hoặc nhiều ân tứ thuộc linh. “7Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy đều được sự ích chung... 11Mọi điều đó là công việc của đồng một Đức Thánh Linh mà thôi, theo ý Ngài muốn, phân phát sự ban cho riêng cho mỗi người” (1Cô. 12:7, 11) “Nhưng, đã ban Ân Điển cho mỗi một người trong chúng ta theo lượng sự ban cho của Đấng Christ” (Êph. 4:7) “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời” (1Phi. 4:10) 2. Có những tín hữu có được nhiều hơn một ân tứ thuộc linh. Vì ân tứ thuộc linh có tính phong phú và đa dạng, khả năng tổ hợp các ân tứ thuộc linh cũng rất cao. Mỗi tín hữu được ơn có nhiều ân tứ nhận được một tổ hợp năng lực thuộc linh phù hợp theo trách vụ mà Đức Chúa Trời đã ban cho họ. Sự nhìn nhận về sự tồn tại của các ân tứ này không đồng nhất: Có người cho rằng các ân tứ thuộc linh được ban cho là vĩnh viễn; ngược lại, có người lại tin rằng các ân tứ thuộc linh chỉ là hữu hạn theo tình huống. Cũng có người tin rằng các ân tứ thuộc linh được đề cập trong Rô. 12 và Êph. 4 có tính vĩnh viễn, còn các ân tứ thuộc linh được đề cập trong 1Cô. 12 là những ân tứ chỉ có tính tình huống… 3. Các ân tứ thuộc linh có thể đã được ban cho tại thời điểm người tín hữu nhận được sự tái sinh, nhưng các ân tứ ấy vẫn rất có thể không được người tín hữu ấy nhận biết trong một thời gian dài. Điều này có thể nhận thấy được trong thực tế qua việc có những tín hữu khám phá ra dần dần các ân tứ thuộc linh mà họ được Đức Chúa Trời ban cho. 4. Các ân tứ thuộc linh khác với bông trái Thánh Linh. Bông trái Thánh Linh được sản sinh từ bên trong, hình thành các nét tính cách thuộc linh Cơ Đốc cho người tín hữu, các ân tứ thuộc linh được chuyển giao từ bên ngoài vào (vì đó là sự ban cho). Bông trái Thánh Linh có liên quan đến các nét tính cách giống với Đức Chúa Jêsus Christ, ân tứ thuộc linh có liên quan đến sự hầu việc Đức Chúa Jêsus Christ. Bông trái Thánh Linh về tình yêu thương là nền của mọi ân tứ thuộc linh (Sv. 1Cô. 13). Bông trái Thánh Linh là đời đời cho con người của người tín hữu, ân tứ thuộc linh là chỉ một thời cho sự hầu việc trong Hội Thánh (Sv. 1Cô. 13:8). 5. Ân tứ thuộc linh khác với năng lực tự nhiên. Cả năng lực tự nhiên và ân tứ thuộc linh đều được Đức Chúa Trời ban cho (Gia. 1:17) nhưng khác với các năng lực tự nhiên là điều vốn có một cách tự nhiên, không liên quan đến việc biến cải niềm tin; các ân tứ thuộc linh là những gì chỉ các Cơ Đốc Nhân mới có. Điểm mấu chốt để giúp phân biệt ân tứ thuộc linh với năng lực tự nhiên là ân tứ thuộc linh đến sau khi một người đã được tái sinh, được Đức Thánh Linh ban cho (bằng một cách nào đó) để dùng để góp phần cho việc gây dựng Hội Thánh. Đôi khi ân tứ thuộc linh trùng hợp với năng lực tự nhiên, nhưng vẫn cứ vượt trội hơn về phương diện động cơ, động lực, và động hướng – và nhờ đó mà có một chất lượng mới. Cả năng lực tự nhiên lẫn ân tứ thuộc linh đều cần được phát triển, phục vụ cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời (Sv. 1Cô. 10:31). 6. Ân tứ thuộc linh là quà tặng theo Ân Điển. Ân tứ thuộc linh được ban cho theo sự tể trị hoàn hảo của Đức Chúa Trời qua Đức Thánh Linh (Sv. 1Cô. 12:28-31; Êph. 4:10-11) cho nên không có lý do gì để người nhận được ân tứ thuộc linh khoe mình (1Cô. 4:7). Mỗi tín hữu trong Hội Thánh đều có vai trò độc đáo riêng cho mình theo ý chỉ của Đức Chúa Trời (1Cô. 12:18). Thật ra, điều mà ân tứ thuộc linh đòi hỏi nơi Cơ Đốc Nhân là sự trung tín (1Phi. 4:10), tận tụy (2Ti. 1:6), làm đẹp ý Đức Chúa Trời và chỉ một mình Đức Chúa Trời mà thôi (Gal. 1:10; 1Tê. 2:4). 7. Ân tứ thuộc linh là sự trang bị thuộc linh của Đức Chúa Trời cho Cơ Đốc Nhân để phục vụ Hội Thánh, gây dựng các tín hữu khác một cách có hiệu quả. Ân tứ thuộc linh không nhằm tô điểm cho cá nhân mà là để làm ích cho Hội Thánh (1Cô. 12:7) cho nên chia sẻ ân tứ thuộc linh để gây dựng nhau là một nội dung thông công chính (Sv. Rô. 1:11). Người nhận ân tứ thuộc linh chỉ là công cụ để tôn vinh hiển Đức Chúa Trời qua ân tứ thuộc linh mà họ được nhận (1Phi. 4:10-11) II. Khám Phá Và Phát Triển Ân Tứ Thuộc Linh Của Bản Thân Trong phần lớn các trường hợp, ân tứ thuộc linh của Cơ Đốc Nhân ở dạng tổ hợp các ân tứ có khả năng bổ sung cho nhau. Chẳng hạn, “mục sư, giáo sư”, “lãnh đạo, quản trị”, “truyền giáo, giảng dạy”, “nói tiếng lạ, thông giải tiếng lạ”, “phân biệt các thần, đuổi quỉ”,… Trong 1Cô. 12:4-6 Sứ Đồ PhaoLô có vẻ như đưa ra ba hạng mục ân tứ khác nhau: “sự ban cho” (Gr. χάρισμα [charisma], “ân tứ”), “chức vụ” (Gr. διακονία [diakonia]), và “việc làm” (Gr. ἐνέργημα [energema] “sự tác động”) và đó cũng là những hình thức tổ hợp các ân tứ thuộc linh. Trước khi bắt đầu khám phá các ân tứ thuộc linh của bản thân, nên tự đặt cho mình ba câu hỏi: 1. Tôi đã thực sự nhận được Ân Điển cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus hay chưa? Sở dĩ phải nêu lên câu hỏi này là vì ân tứ thuộc linh chỉ dành cho người tin mà thôi. 2. Tôi có thực sự sống trong mối thông công với Chúa hay không? Câu hỏi này cần phải được trả lời vì ân tứ thuộc linh chỉ có hiệu quả trên nền của bông trái thuộc linh mà thôi. 3. Tôi có thực sự muốn phát triển các ân tứ thuộc linh của mình không? Điều này cần phải được tra xét và phải có vì ân tứ thuộc linh không thể phát huy được tác dụng trong tình trạng bị chôn vùi (vô tình hoặc cố ý). Để có thể khám phá được một cách vững vàng các ân tứ thuộc linh của bản thân, có thể sử dụng một số hướng dẫn cơ bản như sau: 1. “Hỏi” Cầu xin Đức Chúa Trời chỉ cho mình biết các ân tứ thuộc linh nào mà Ngài đã ban cho mình (Php. 4:6-7; Gia. 1:5). Nhất định đây là một sự thỉnh cầu đẹp ý Đức Chúa Trời vì Đức Chúa Trời truyền cho chúng ta phải thực hành các ân tứ thuộc linh Ngài đã ban cho chúng ta (Sv. 1Phi. 4:10-11). 2. “Biết” Nghiên cứu Kinh Thánh cẩn thận để biết đúng và đủ các sự dạy dỗ Kinh Thánh vế ân tứ thuộc linh (Rô. 12; 1Cô. 12-14; Êph. 4;…). Có thể đọc them các sách khảo cứu tốt có liên quan; và trao đổi hiểu biết, kinh nghiệm trên vấn đề này với các tín hữu khác. 3. “Ham” Đức Chúa Trời muốn chúng ta được sống phấn chấn trong sự ham thích trong sạch (Sv. Thi. 37:4). Tự tra xét để biết mình có sự ham muốn như thế nào đối với các ân tứ thuộc linh của mình với lòng dạn dĩ (Sv. 1Ti. 3:1) và dâng lên Đức Chúa Trời nỗi lòng khát khao của mình “Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài” (Php. 2:13) 4. “Thử” Người ta phải thử mới có thể biết được mình sở trường trên phương diện nào. Tương tự, Cơ Đốc Nhân cũng phải biết thử nghiệm đối với những ân tứ thuộc linh đã được biết của mình. Nếu không thực hiện việc thử nghiệm, chúng ta sẽ không làm sao biết chắc được một điều gì đó có phải thực sự là ân tứ thuộc linh của mình hay không. 5. “Bám” Tiến trình thử nghiệm sẽ giúp xác lập năng lực thực hành đối với các ân tứ thuộc linh mà mình có. Bám chặt lấy việc thử nghiệm để nâng cao năng lực thực hành qua việc loại bỏ dần các nhược điểm, nâng cao dần các ưu điểm của bản thân. Cũng phải bám chặt sự nhận xét, đánh giá của những người hiểu biết về mình để tránh mắc bẫy của lòng kiêu ngạo và ảo giác của bản thân. 6. “Giữ” Việc thực hành các ân tứ thuộc linh (nếu quả thật là ân tứ thuộc linh) nhất định sẽ đem lại ba điều này: Sự bình an của bản thân, sự phước hạnh của tha nhân, và sự đáp ứng cho Hội Thánh. Phải giữ lấy một sự thực hành toàn tâm, toàn ý, trung tín để các ân tứ thuộc linh củng cố cho các trách vụ được giao được ngày càng vững vàng hơn. Để phát triển ngày càng cao hơn các ân tứ thuộc linh mà mình có, chúng ta có thể sử dụng các phương tiện sau đây: 1. Thực hành Phải thực hành, bản lãnh chỉ được hình thành nhờ thực hành. Trong việc thực hành, để tránh sai phạm lớn phải biết chọn phạm vi nhỏ để có cơ hội thực hành cho nhuần nhuyễn. 2. Đánh giá Phải có thái độ sẵn sàng tiếp nhận các sự nhận xét, đánh giá khách quan mới mong có được các thông tin có lợi cho các sự điều chỉnh cần thiết. Phải luôn tra xét cong việc bằng ba câu hỏi: Điều gì nên tiếp tục? Điều gì cần được điều chỉnh? Điều gì phải ngưng? 3. Học hỏi Phải biết vận dụng các tri thức và kinh nghiệm của người khác để giảm giá phải trả cho sự non kém của bản thân. III. Sử Dụng Chứ Không Lạm Dụng Ân Tứ Thuộc Linh Việc thực hành các ân tứ thuộc linh của mỗi cá nhân có tầm quan trọng sống còn đối với sự phát triển về số cũng như về lượng của Hội Thánh. Vì vậy, mỗi cá nhân phải hết sức thận trọng trong việc thực hành các ân tứ thuộc linh cá nhân, tránh khỏi càng nhiều các cạm bẫy nguy hiểm càng tốt: 1. Ân tứ thuộc linh được ban cho cá nhân nhưng không dành riêng cho lợi ích cá nhân. Sự gây dựng chung là ưu tiên chính yếu của ân tứ thuộc linh (Sv. 1Cô. 12:7), sự lợi ích cho bản thân là thứ yếu. 2. Ân tứ thuộc linh không thể có được nhờ công cán hay bằng sự van xin. Tự thân khái niệm “ân tứ” cho thấy được rằng ân tứ chỉ được ban cho bởi Ân Điển của Đức Chúa Trời (Êph. 4:7). Sự ban cho ân tứ thuộc linh là công việc của Đức Thánh Linh, “theo ý Ngài muốn” (1Cô. 12:11). 3. Ân tứ thuộc linh được ban cho theo ý chỉ tốt đẹp của Đức Chúa Trời nên không thể là nguyên nhân khiến cho cá nhân tự tôn hay tự ti. Ân tứ thuộc linh phải được xem là sự ủy thác từ Thiên Thượng để thi hành phận sự đối với Đức Chúa Trời chứ không phải là dấu hiệu của trạng thái, trình độ thuộc linh, thành tích,… Mức độ trưởng thành thuộc linh (viên thục) được qui định theo bông trái Thánh Linh chứ không phải theo ân tứ thuộc linh (Sv. Gal. 5:22-23) 4. Ân tứ thuộc linh có thể bị lạm dụng theo sức mạnh của xác thịt. Dấu hiệu cơ bản của việc ân tứ thuộc linh bị lạm dụng theo sự chi phối của sức mạnh của xác thịt ở chỗ ân tứ thuộc linh được thực hành không theo động cơ, động lực, và động hướng mang tính yêu thương (1Cô. 13:1-3). 5. Ân tứ thuộc linh có thể bị làm giả mạo do sự ham muốn của xác thịt hoặc dưới sự ảnh hưởng của Ma Quỉ (Ma. 7:22-23; 2Cô. 11:13-15; 1Ti. 4:1; 2Phi. 2:1) Để có thể sử dụng các ân tứ thuộc linh một cách hợp Kinh Thánh, và để có thể tránh xa các sự sai lạc trong việc thực hành các ân tứ thuộc linh của bản thân, một số nguyên tắc căn bản cần phải được tuân thủ: 1. Động cơ chân thực của ân tứ thuộc linh là vì sự gây dựng Hội Thánh. Gây dựng Hội Thánh là phận sự phổ quát của mọi tín hữu. Mỗi Cơ Đốc Nhân đều có nghĩa vụ phải tham gia tích cực vào lĩnh vực mà mình có khả năng đóng góp tích cực nhất, qua đó ân tứ thuộc linh cá nhân sẽ được bộc lộ ra (Sv. 1Cô. 12:7; 1Phi. 4:10) 2. Động lực chân thực của ân tứ thuộc linh là chính Đức Thánh Linh. Ân tứ thuộc linh phải được thực hành trong sự nương cậy hoàn toàn vào quyền năng Đức Thánh Linh (Sv. Php. 4:13). 3. Động hướng chân thực của ân tứ thuộc linh là theo tình yêu thương. Tình yêu thương là nền chung cho mọi công trình được xây dựng bằng ân tứ thuộc linh (1Cô. 13:1-3). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |