“DÂNG MÌNH CHO SỰ HIỆN DIỆN DIỆU KỲ” (Hê. 13:5-6; Sv. Phục. 31:6; Giô. 1:5) “5Chớ tham tiền;hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu. 6Như vậy, chúng ta được lấy lòng tin chắc mà nói rằng: Chúa giúp đỡ tôi, tôi không sợ chi hết. Người đời làm chi tôi được?” (Hê. 13:5-6; Sv. Phục. 31:6; Giô. 1:5) I. KINH THÁNH “5Chớ tham tiền;hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu. 6Như vậy, chúng ta được lấy lòng tin chắc mà nói rằng: Chúa giúp đỡ tôi, tôi không sợ chi hết. Người đời làm chi tôi được?” (Hê. 13:5-6; Sv. Phục. 31:6; Giô. 1:5) II. GIẢI NGHĨA 1. Cơ Đốc Nhân có sự có của mọi sự có: Sự hiện diện của chính Đức Chúa Trời (Sv. C. 5). (1) “lìa”: Gr. ἀνίημι [aniemi] > “tách rời ra” (2) “bỏ”: Gr. ἐγκαταλείπω [egkataleipo] > “bỏ rơi”, “bỏ mặc” “Ngươi chớ tham nhà kẻ lân cận ngươi, cũng đừng tham vợ người, hoặc tôi trai tớ gái, bò, lừa, hay là vật chi thuộc về kẻ lân cận ngươi” (Xuất. 20:17; Sv. Thi. 10:3) 2. Sự hiện diện của Đức Chúa Trời là sự hiện diện của sự cứu giúp vô giới hạn (Sv. C. 6a). (1) “tin chắc”: Gr. θαῤῥέω [tharrheo] > “tin quyết”, “dạn dĩ” (2) “giúp đỡ”: Gr. βοηθός [boethos] > “Đấng cứu giúp”, “Đấng phù trợ” “Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng” (Hê. 4:16) 3. Cơ Đốc Nhân phải biết nương cậy nơi Đức Chúa Trời, không được phép để cho sự lo sợ chi phối (Sv. C. 6b). (1) “sợ”: Gr. φοβέω [phobeo] > “lo và sợ” (2) “làm chi”: Gr. ποιέω [poieo] > “gây hại” “Hãy vững lòng bền chí; chớ sợ chi và chớ kinh khủng trước mặt các dân đó vì Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi đi cùng ngươi; Ngài chẳng lìa khỏi ngươi, chẳng từ bỏ ngươi đâu” (Phục. 31:6) III. ÁP DỤNG 1. Phải xác quyết về sự hiện diện diệu kỳ của Đức Chúa Trời trong đời sống mình! “Chớ tham tiền;hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu” (Hê. 13:5) 2. Phải dốc lòng nương cậy vào sự hiện diện diệu kỳ của Đức Chúa Trời trong đời sống mình! “Như vậy, chúng ta được lấy lòng tin chắc mà nói rằng: Chúa giúp đỡ tôi, tôi không sợ chi hết. Người đời làm chi tôi được?” (Hê. 13:6) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“DÂNG MÌNH CHO SỰ HIỆN DIỆN THƯỜNG KỲ” (1Cô. 3:16-17; Sv. 1Cô. 6:19-20) “16Anh em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong anh em sao? 17Ví có ai phá hủy đền thờ của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ phá hủy họ; vì đền thờ của Đức Chúa Trời là thánh, mà chính anh em là đền thờ” (1Cô. 3:16-17; Sv. 1Cô. 6:19-20) I. KINH THÁNH “16Anh em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong anh em sao? 17Ví có ai phá hủy đền thờ của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ phá hủy họ; vì đền thờ của Đức Chúa Trời là thánh, mà chính anh em là đền thờ” (1Cô. 3:16-17; Sv. 1Cô. 6:19-20) II. GIẢI NGHĨA 1. Sự hiện diện thường kỳ của Đức Chúa Trời đối với Cơ Đốc Nhân: Ngài thường trú trong thân thể họ (Sv. C. 16). (1) “đền thờ”: Gr. ναός [naos] > “ngôi ngự” (2) “Thánh Linh Đức Chúa Trời”: Gr. πνεῦμα ὁ θεός [pneuma ho theos] > “Thánh Linh của Đức Chúa Trời” (3) “ở trong”: Gr. οἰκέω [oikeo] > “làm thành nhà ở”, “ở cùng” “Và nầy, Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Ma. 28:20b) 2. Vì vậy, Cơ Đốc Nhân phải hết lòng chăm chút cho thân thể mình như là chăm chút cho đền thờ của Đức Chúa Trời (Sv. C. 17a). (1) “phá hủy”: Gr. φθείρω [phtheiro] > “làm thành ô uế”, “làm cho suy tàn” (2) Khi nào Cơ Đốc Nhân mắc tội “phá hủy” đền thờ của Đức Chúa Trời? “15Anh em há chẳng biết thân thể mình là chi thể của Đấng Christ sao? Vậy thì mình có nên lấy chi thể của Đấng Christ mà làm thành chi thể của điếm đĩ chăng? Đức Chúa Trời nào nỡ vậy! 16Anh em há chẳng biết người nào kết hiệp với điếm đĩ, thì trở nên một xác với nó sao? Vì có chép rằng: Hai người sẽ đồng nên một thịt. 17Còn ai kết hiệp với Chúa thì trở nên một tánh thiêng liêng cùng Ngài. 18Hãy tránh sự dâm dục. Mặc dầu người ta phạm tội gì, tội ấy còn là ngoài thân thể; nhưng kẻ buông mình vào sự dâm dục, thì phạm đến chính thân thể mình” (1Cô. 6:15-18) (3) Hễ khi nào Cơ Đốc Nhân để cho thân thể mình vướng vào những sự làm suy tổn vinh hiển của Đức Chúa Trời thì mắc tội “phá hủy” đền thờ của Đức Chúa Trời! “Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Đức Chúa Trời” (1Cô. 16:20) 3. Và phải thường xuyên giữ cho đời sống mình được thánh và nhờ đó mà được tinh anh, đáng tôn trọng (Sv. C. 17b) (1) “thánh”: Gr. ἅγιος [hagios] > “được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời”, “tinh anh”, “đáng trọng” (2) Cơ Đốc Nhân là người đã được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời, họ phải là người tinh anh, đáng trọng… (Sv. Công. 9:13; Rô. 1:7; Hê. 6:10; Khải. 5:8) “Vì chẳng hề có người nào ghét chính thân mình, nhưng nuôi nấng săn sóc nó như Đấng Christ đối với Hội Thánh” (Êph. 5:29) III. ÁP DỤNG 1. Đức Chúa Trời hiện diện cách thường kỳ trong thân thể của các Cơ Đốc Nhân! “Anh em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong anh em sao?” (1Cô. 3:16) 2. Cơ Đốc Nhân có phận sự dâng mình cho Đức Chúa Trời, họ không được phép làm bất cứ sự chi tác hại đến thân thể mình! “Ví có ai phá hủy đền thờ của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ phá hủy họ; vì đền thờ của Đức Chúa Trời là thánh, mà chính anh em là đền thờ” (1Cô. 3:17) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“DÂNG MÌNH CHO SỰ HIỆN DIỆN HY KỲ” (Giê. 23:21-24; Sv. Thi. 139:7-12; Am. 9:2-4) “21Ta chẳng sai những tiên tri nầy, mà chúng nó đã chạy; Ta chẳng phán với, mà đã nói tiên tri. 22Nếu chúng nó có đứng trong sự bàn luận Ta, thì đã khiến dân Ta nghe lời Ta, và đã làm cho dân từ đường dữ việc xấu mà trở lại rồi. 23Đức Giêhôva phán: Ta có phải là Đức Chúa Trời ở gần mà không phải là Đức Chúa Trời ở xa sao? 24Đức Giêhôva phán: Có người nào có thể giấu mình trong các nơi kín cho Ta đừng thấy chăng? Đức Giêhôva phán: Há chẳng phải Ta đầy dẫy các từng trời và đất sao?” (Giê. 23:21-24; Sv. Thi. 139:7-12; Am. 9:2-4) I. KINH THÁNH “21Ta chẳng sai những tiên tri nầy, mà chúng nó đã chạy; Ta chẳng phán với, mà đã nói tiên tri. 22Nếu chúng nó có đứng trong sự bàn luận Ta, thì đã khiến dân Ta nghe lời Ta, và đã làm cho dân từ đường dữ việc xấu mà trở lại rồi. 23Đức Giêhôva phán: Ta có phải là Đức Chúa Trời ở gần mà không phải là Đức Chúa Trời ở xa sao? 24Đức Giêhôva phán: Có người nào có thể giấu mình trong các nơi kín cho Ta đừng thấy chăng? Đức Giêhôva phán: Há chẳng phải Ta đầy dẫy các từng trời và đất sao?” (Giê. 23:21-24; Sv. Thi. 139:7-12; Am. 9:2-4) II. GIẢI NGHĨA 1. Chưa biết sống chân chính là chưa có đời sống dâng mình (Sv. C. 21-22) (1) “sai”: Hb. חלשׁ [shalach] > “cử đi”, “phái đi” (2) “đứng”: Hb. דמע [‘amad] > “ở trong”, “thuộc về” (3) “sự bàn luận”: Hb. דוס [cowd] > “sự chỉ bảo” “Bấy giờ Ngài phán cùng những người Giuđa đã tin Ngài, rằng: Nếu các ngươi hằng ở trong đạo Ta, thì thật là môn đồ Ta” (Gi. 8:31) 2. Chưa biết sống kính sợ là chưa có đời sống dâng mình (Sv. C. 23) (1) “Đức Chúa Trời”: Hb. םיהלא [‘elohiym] > “Đấng cầm quyền”, “Đấng xét đoán” (2) “ở gần”: Hb. בורק [qarowb] > “trong tầm tay”, “gần” (3) “ở xa”: Hb. קוחר [rachowq] > “quá vói”, “xa tầm tay” “12Ấy vậy, hỡi những kẻ rất yêu dấu của tôi, như anh em đã vâng lời luôn luôn, chẳng những khi tôi có mặt mà thôi, lại bây giờ là lúc tôi vắng mặt, hãy càng hơn nữa, mà lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình. 13Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài” (Phlp. 2:12-13) 3. Chưa biết sống trung thực là chưa có đời sống dâng mình (Sv. C. 24) (1) “giấu”: Hb. רתס [cathar] > “làm cho khuất, lấp” (2) “thấy”: Hb. האר [ra’ah] > “nhìn thấy”, “nhận ra” (3) “đầy dẫy”: Hb. אלמ [male’] > “nơi nào cũng có” “3Nầy tại sao chúng ta biết mình đã biết Ngài, ấy là tại chúng ta giữ các điều răn của Ngài. 4Kẻ nào nói: Ta biết Ngài, mà không giữ điều răn Ngài, là người nói dối, lẽ thật quyết không ở trong người” (1Gi. 2:3-4) III. ÁP DỤNG 1. Đừng ngông cuồng, phải chân chính! “21Ta chẳng sai những tiên tri nầy, mà chúng nó đã chạy; Ta chẳng phán với, mà đã nói tiên tri. 22Nếu chúng nó có đứng trong sự bàn luận Ta, thì đã khiến dân Ta nghe lời Ta, và đã làm cho dân từ đường dữ việc xấu mà trở lại rồi” (Giê. 23:21) 2. Đừng khinh lờn, phải kính sợ! “Đức Giêhôva phán: Ta có phải là Đức Chúa Trời ở gần mà không phải là Đức Chúa Trời ở xa sao?” (Giê. 23:23) 3. Đừng giả dối, phải trung thực! “Đức Giêhôva phán: Có người nào có thể giấu mình trong các nơi kín cho Ta đừng thấy chăng? Đức Giêhôva phán: Há chẳng phải Ta đầy dẫy các từng trời và đất sao?” (Giê. 23:24) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“BÀY TỎ CÁCH HẾT LÒNG” (Thi. 98:4; Sv. 98:1-9) “Hỡi cả trái đất, hãy cất tiếng reo mừng cho Đức Giêhôva,_Nức tiếng vui vẻ và hát ngợi khen!” (Thi. 98:4; Sv. 98:1-9) I. KINH THÁNH “Hỡi cả trái đất, hãy cất tiếng reo mừng cho Đức Giêhôva,_Nức tiếng vui vẻ và hát ngợi khen!” (Thi. 98:4; Sv. 98:1-9) II. GIẢI NGHĨA 1. Chúc tụng Đức Chúa Trời là phận sự phổ cập của mọi dân tộc (Thi. 98:4a)! (1) “cả trái đất”: Hb. ץרא [‘erets] > “các dân tộc trong thế gian và mọi sự trên địa cầu” (2) “cất tiếng reo mừng”: Hb. חצפ [patsach] > “la lớn lên vì mừng” (3) “Đức Giêhôva”: Hb. הוהי [Yᵉhovah] > “Đấng hằng hữu”, “Chúa hằng hữu” Tất cả mọi dân tộc đều chịu chung một sự đòi hỏi phổ cập... “1Hãy hát một bài ca mới cho Đức Giêhôva;_Hỡi cả trái đất, khá hát xướng cho Đức Giêhôva..._3Hãy thuật sự vinh hiển Ngài giữa các nước,_Truyền các công việc lạ lùng Ngài giữa các dân..._7Hỡi các họ hàng của muôn dân,_Đáng tôn vinh hiển và năng lực cho Đức Giêhôva” (Thi. 96:1, 3, 7) “18Vả, cơn giận của Đức Chúa Trời từ trên trời tỏ ra nghịch cùng mọi sự không tin kính và mọi sự không công bình của những người dùng sự không công bình mà bắt hiếp lẽ thật. 19Vì điều chi có thể biết được về Đức Chúa Trời thì đã trình bày ra cho họ, Đức Chúa Trời đã tỏ điều đó cho họ rồi, 20bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được, 21vì họ dẫu biết Đức Chúa Trời, mà không làm sáng danh Ngài là Đức Chúa Trời, và không tạ ơn Ngài nữa; song cứ lầm lạc trong lý tưởng hư không, và lòng ngu dốt đầy những sự tối tăm” (Rô. 1:18-21) 2. Chúc tụng Đức Chúa Trời là một phận sự cấp tập của mọi tấm lòng (Thi. 98:4b)! (1) “nức tiếng”: Hb. חצפ [patsach] > “làm cho niềm vui bùng phát ra thành tiếng lớn” (2) “vui vẻ”: Hb. ןנר [ranan] > “la lớn, hát lớn lên vì mừng” (3) “hát ngợi khen”: Hb. רמז [zamar] > “hát chúc tụng”, “hát tôn vinh”, “hát về sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” Tất cả mọi tấm lòng đều chịu chung một sự đòi hỏi cấp tập... “2Hãy ngợi khen Ngài vì các việc quyền năng Ngài!_Hãy ngợi khen Ngài tùy theo sự oai nghi cả thể của Ngài!_6Phàm vật chi thở, hãy ngợi khen Đức Giêhôva!_Halêlugia!” (Thi. 150:2, 6) “Mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rô. 3:23) “...Vì họ dẫu biết Đức Chúa Trời, mà không làm sáng danh Ngài là Đức Chúa Trời, và không tạ ơn Ngài nữa; song cứ lầm lạc trong lý tưởng hư không, và lòng ngu dốt đầy những sự tối tăm” (Rô. 1:21) III. ÁP DỤNG 1. Chúng ta đã được định để bày tỏ cách hết lòng đối với Đức Chúa Trời! “3Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời, 4trước khi sáng thế, Ngài đã chọn chúng ta trong Đấng Christ, đặng làm nên thánh không chỗ trách được trước mặt Đức Chúa Trời, 5bởi sự thương yêu của Ngài đã định trước cho chúng ta được trở nên con nuôi của Ngài bởi Đức Chúa Jêsus Christ, theo ý tốt của Ngài, 6để khen ngợi sự vinh hiển của ân điển Ngài đã ban cho chúng ta cách nhưng không trong Con yêu dấu của Ngài!” (Êph. 1:3-6) 2. Đức Chúa Trời đáng được chúng ta bày tỏ cách hết lòng trên mọi phương diện! “Hãy ngợi khen Ngài vì các việc quyền năng Ngài!_Hãy ngợi khen Ngài tùy theo sự oai nghi cả thể của Ngài!” (Thi. 150:2) 3. Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta phải bày tỏ cách hết lòng! “Hỡi cả trái đất, hãy cất tiếng reo mừng cho Đức Giêhôva,_Nức tiếng vui vẻ và hát ngợi khen!” (Thi. 98:4) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“BÀY TỎ CÁCH HIỆP NHẤT” (1Ti. 2:1-7) “1Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, 2cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn. 3Ấy là một sự lành và đẹp mắt Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta, 4Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật. 5Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, là Người; 6Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. Ấy là lời chứng đã làm đúng kỳ 7(ta nói thật, không nói dối), vì lời chứng ấy, ta đã được cử làm Thầy Giảng, làm Sứ Đồ và Giáo Sư cho Dân Ngoại, để dạy họ về đức tin và về lẽ thật” (1Ti. 2:1-7) I. KINH THÁNH “1Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, 2cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn. 3Ấy là một sự lành và đẹp mắt Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta, 4Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật. 5Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, là Người; 6Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. Ấy là lời chứng đã làm đúng kỳ 7(ta nói thật, không nói dối), vì lời chứng ấy, ta đã được cử làm Thầy Giảng, làm Sứ Đồ và Giáo Sư cho Dân Ngoại, để dạy họ về đức tin và về lẽ thật” (1Ti. 2:1-7) II. GIẢI NGHĨA 1. Theo thánh ý của Đức Chúa Trời, sự cầu nguyện là hình thức bày tỏ tập trung nhất (Sv. C. 1-3). (1) “trước hết”: Gr. πρῶτον [proton] > “chính yếu”, “nguyên tắc chính” (2) “khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn”… - “khẩn nguyện”: Gr. δέησις [deesis] > “nguyện vọng thiết tha” - “cầu xin”: Gr. προσευχή [proseuche] > “sự cầu nguyện”, “sự bày tỏ đối với Đức Chúa Trời” - “kêu van”: Gr. ἔντευξις [enteuxis] > “sự cầu thay” - “tạ ơn”: Gr. εὐχαριστία [eucharistia] > “việc bày tỏ lòng biết ơn” (3) “cho mọi người”: Gr. πᾶς [pas] > “từng người” (4) “sự lành”: Gr. ἀπόδεκτος [apodektos] > “đẹp ý Đức Chúa Trời” “16Hãy vui mừng mãi mãi, 17cầu nguyện không thôi, 18phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy” (1Tê. 5:16-18) 2. Theo thánh ý của Đức Chúa Trời, mọi sự bày tỏ đều phải được qui chiếu vào sự cứu rỗi và lẽ thật của Ngài trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ (Sv. C. 4-5). (1) “được cứu rỗi”: Gr. σώζω [sozo] > “được giải thoát khỏi sự ô tội và án tội” (2) “hiểu biết lẽ thật”: Gr. ἐπίγνωσις ἀλήθεια [epignosis aletheia] > “hiểu biết về qui chuẩn của Đức Chúa Trời” (3) “Đấng Trung Bảo”: Gr. μεσίτης [mesites] > “người trung gian” “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Công. 4:12) 3. Về sự bày tỏ hiệp nhất, tất cả vấn đề đều ở đức tin và lẽ thật (Sv. C. 6-7) (1) “đức tin”: Gr. πίστις [pistis] > “sự hiểu biết, tin quyết, và kỳ vọng” (2) “lẽ thật”: Gr. ἀλήθεια [aletheia] > “qui chuẩn của Đức Chúa Trời” “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài” (Hê. 11:6) “4Chỉ có một thân thể, một Thánh Linh, như anh em bởi chức phận mình đã được gọi đến một sự trông cậy mà thôi; 5chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép báptêm; 6chỉ có một Đức Chúa Trời và một Cha của mọi người, Ngài là trên cả mọi người, giữa mọi người và ở trong mọi người” (Êph. 4:4-6) III. ÁP DỤNG 1. Chỉ có sự cầu nguyện bởi đức tin và theo lẽ thật mới là sự bày tỏ hiệp nhất và duy nhất đẹp ý Đức Chúa Trời! “1Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, 2cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn. 3Ấy là một sự lành và đẹp mắt Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta” (1Ti. 2:1-4) 2. Lẽ thật chứ không phải là chuyện huyễn! “Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật” (1Ti. 2:4) 3. Đức tin chứ không phải là kinh nghiệm! “6Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. Ấy là lời chứng đã làm đúng kỳ 7(ta nói thật, không nói dối), vì lời chứng ấy, ta đã được cử làm Thầy Giảng, làm Sứ Đồ và Giáo Sư cho Dân Ngoại, để dạy họ về đức tin và về lẽ thật” (1Ti. 2:6-7) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“BÀY TỎ CÁCH HỢP THỨC” (Côl. 3:15-17) “15Nguyền xin sự bình an của Đấng Christ cai trị trong lòng anh em, là bình an mà anh em đã được gọi đến đặng hiệp nên một thể; lại phải biết ơn.1 6Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời. 17Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Jêsus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha” (Côl. 3:15-17) I. KINH THÁNH “15Nguyền xin sự bình an của Đấng Christ cai trị trong lòng anh em, là bình an mà anh em đã được gọi đến đặng hiệp nên một thể; lại phải biết ơn.16Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời. 17Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Jêsus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha” (Côl. 3:15-17) II. GIẢI NGHĨA 1. Đời sống thờ phượng hiệp nghi là đời sống bình an. Đức Chúa Trời muốn đời sống Cơ Đốc Nhân phải được thấm nhuần trong sự an tịnh của Ngài (C. 15). (1) Dấu hiệu bao quát: “cai trị” - Gr. βραβεύω [brabeuo] > “điều khiển”, “làm vua, làm chúa” “Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó” (Rô. 6:12) (2) Yếu tố bao quát: “hiệp một” - Gr. σῶμα [soma] > “thân thể” (3) Cảm thức bao quát: “biết ơn” - Gr. εὐχάριστος [eucharistos] > “hiểu biết và nhìn nhận ơn Chúa” 2. Đời sống thờ phượng hiệp nghi là đời sống khôn ngoan. Đó là đời sống được điều khiển bằng các nguyên tắc Kinh Thánh (C. 16). (1) Chất liệu cho đời sống: “lời của Đấng Christ” - Gr. λόγος ὁ Χριστός [logos ho Christos] > “lời phán của Đấng Christ” (2) Sản phẩm của đời sống: “dạy”, “khuyên”, và “chúc tụng” - Gr. διδάσκω [didasko] > “hướng dẫn” - Gr. νουθετέω [noutheteo] > “thúc giục” - Gr. ᾄδω [ado] > “chúc tụng” + Gr. ψαλμός [psalmos] > “Thi Thiên” + Gr. ὕμνος [humnos] > “Thánh Ca” + Gr. ᾠδή πνευματικός [ode pneumatikos] > “Ca Khúc Thuộc Linh” 3. Đời sống thờ phượng hiệp nghi là đời sống tri ân. Tấm lòng của Cơ Đốc Nhân phải luôn chan chứa sự tri ân đối với Đức Chúa Trời (C. 17). (1) Hành vi thể hiện: “nói hay làm” - Gr. ποιέω [poieo] > “tạo ra” + Gr. λόγος [logos] > “lời lẽ” + Gr. ἔργον [ergon] > “công việc” (2) Bản lãnh thể hiện: “nhân danh Đức Chúa Jêsus” - Gr. ὄνομα [onoma] > “thân thế và sự nghiệp” (3) Ý thức thể hiện: “tạ ơn” - Gr. εὐχαριστέω [eucharisteo] > “bày tỏ lòng tri ân” III. ÁP DỤNG 1. Phải quyết chí giữ mình trong sự bình an của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ! “Nguyền xin sự bình an của Đấng Christ cai trị trong lòng anh em, là bình an mà anh em đã được gọi đến đặng hiệp nên một thể; lại phải biết ơn” (Côl. 3:15) 2. Phải nuôi mình trong ý thức tìm kiếm và vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ! “Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời” (Côl. 3:16) 3. Phải đầy lòng tri ân Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ! “Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Jêsus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha” (Côl. 3:17) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“BÀY TỎ CÁCH CHUẨN MỰC” (1Cô. 14:32-33; Sv. 14:26-33) “ 32Tâm thần của các đấng tiên tri suy phục các đấng tiên tri. 33Vả, Đức Chúa Trời chẳng phải là Chúa sự loạn lạc, bèn là Chúa sự hòa bình” (1Cô. 14:32-33; Sv. 14:26-33) I. KINH THÁNH “ 32Tâm thần của các đấng tiên tri suy phục các đấng tiên tri. 33Vả, Đức Chúa Trời chẳng phải là Chúa sự loạn lạc, bèn là Chúa sự hòa bình” (1Cô. 14:32-33; Sv. 14:26-33) II. GIẢI NGHĨA 1. Sự chuẩn mực là thiên định… (1) Sự chuẩn mực là một yêu cầu của mọi sự khải thị trong và qua Kinh Thánh (Sv. 1Cô. 1:1-3) (2) Sự chuẩn mực là một yêu cầu của mọi mệnh lệnh trong và qua Hội Thánh (Sv. 1Cô. 4:17; 7:17) (3) Sự chuẩn mực là một yêu cầu đối với mọi Cơ Đốc Nhân (Sv. 1Cô. 11:16; 14:36) 2. Chuẩn mực cho đời sống thờ phượng là sự suy phục… (1Cô. 14:32) (1) “tâm thần”: Gr. πνεῦμα [pneuma] > “linh, năng lực tương giao với Đức Chúa Trời” (2) “suy phục”: Gr. ὑποτάσσω [hupotasso] > “ở dưới, thuộc dưới sự điều khiển” (3) “đấng tiên tri”: Gr. προφήτης [prophetes] > “người phát ngôn của Đức Chúa Trời” 3. Chuẩn mực cho đời sống thờ phượng là sự trật tự… (1Cô. 14:33a) (1) “sự loạn lạc”: Gr. ἀκαταστασία [akatastasia] > “sự lộn lạo” (2) Sự rối loạn luôn là đặc trưng gắn liền với sự sa bại và điều ác! (Sv. Sáng. 11:1-9; Gal. 1:6-8; Gia. 3:16) “Thôi! Chúng Ta hãy xuống, làm lộn xộn tiếng nói của chúng nó, cho họ nghe không được tiếng nói của người nầy với người kia” (Sáng. 11:7; Sv. 1-9) “Thật chẳng phải có tin lành khác, nhưng có mấy kẻ làm rối trí anh em, và muốn đánh đổ Tin Lành của Đấng Christ” (Gal. 1:7; Sv. 1:6-8) “Vì ở đâu có những điều ghen tương tranh cạnh ấy, thì ở đó có sự lộn lạo và đủ mọi thứ ác” (Gia. 3:16) 4. Chuẩn mực cho đời sống thờ phượng là sự an tịnh… (1Cô. 14:33b) (1) “sự hòa bình”: Gr. εἰρήνη [eirene] > “sự an tịnh” (2) Sự an tịnh là một mỹ đức xuất phát từ Đức Chúa Trời! “Cầu xin Đức Giêhôva đoái xem ngươi và ban bình an cho ngươi!” (Dân. 6:26) III. ÁP DỤNG 1. Phải có sự suy phục Đức Chúa Trời mới đạt được chuẩn mực thờ phượng Ngài! “Tâm thần của các đấng tiên tri suy phục các đấng tiên tri” (1Cô. 14:32) 2. Không bao giờ có sự hiện của Đức Chúa Trời trong sự rối loạn hay hỗn loạn! “Vả, Đức Chúa Trời chẳng phải là Chúa sự loạn lạc, bèn là Chúa sự hòa bình” (1Cô. 14:33) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“BÀY TỎ CÁCH HIỆP NHẤT” (1Ti. 2:1-7) “1Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, 2cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn. 3Ấy là một sự lành và đẹp mắt Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta, 4Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật. 5Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, là Người; 6Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. Ấy là lời chứng đã làm đúng kỳ 7(ta nói thật, không nói dối), vì lời chứng ấy, ta đã được cử làm Thầy Giảng, làm Sứ Đồ và Giáo Sư cho Dân Ngoại, để dạy họ về đức tin và về lẽ thật” (1Ti. 2:1-7) I. KINH THÁNH “1Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, 2cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn. 3Ấy là một sự lành và đẹp mắt Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta, 4Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật. 5Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, là Người; 6Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. Ấy là lời chứng đã làm đúng kỳ 7(ta nói thật, không nói dối), vì lời chứng ấy, ta đã được cử làm Thầy Giảng, làm Sứ Đồ và Giáo Sư cho Dân Ngoại, để dạy họ về đức tin và về lẽ thật” (1Ti. 2:1-7) II. GIẢI NGHĨA 1. Theo thánh ý của Đức Chúa Trời, sự cầu nguyện là hình thức bày tỏ tập trung nhất (Sv. C. 1-3). (1) “trước hết”: Gr. πρῶτον [proton] > “chính yếu”, “nguyên tắc chính” (2) “khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn”… - “khẩn nguyện”: Gr. δέησις [deesis] > “nguyện vọng thiết tha” - “cầu xin”: Gr. προσευχή [proseuche] > “sự cầu nguyện”, “sự bày tỏ đối với Đức Chúa Trời” - “kêu van”: Gr. ἔντευξις [enteuxis] > “sự cầu thay” - “tạ ơn”: Gr. εὐχαριστία [eucharistia] > “việc bày tỏ lòng biết ơn” (3) “cho mọi người”: Gr. πᾶς [pas] > “từng người” (4) “sự lành”: Gr. ἀπόδεκτος [apodektos] > “đẹp ý Đức Chúa Trời” “16Hãy vui mừng mãi mãi, 17cầu nguyện không thôi, 18phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy” (1Tê. 5:16-18) 2. Theo thánh ý của Đức Chúa Trời, mọi sự bày tỏ đều phải được qui chiếu vào sự cứu rỗi và lẽ thật của Ngài trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ (Sv. C. 4-5). (1) “được cứu rỗi”: Gr. σώζω [sozo] > “được giải thoát khỏi sự ô tội và án tội” (2) “hiểu biết lẽ thật”: Gr. ἐπίγνωσις ἀλήθεια [epignosis aletheia] > “hiểu biết về qui chuẩn của Đức Chúa Trời” (3) “Đấng Trung Bảo”: Gr. μεσίτης [mesites] > “người trung gian” “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Công. 4:12) 3. Về sự bày tỏ hiệp nhất, tất cả vấn đề đều ở đức tin và lẽ thật (Sv. C. 6-7) (1) “đức tin”: Gr. πίστις [pistis] > “sự hiểu biết, tin quyết, và kỳ vọng” (2) “lẽ thật”: Gr. ἀλήθεια [aletheia] > “qui chuẩn của Đức Chúa Trời” “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài” (Hê. 11:6) “4Chỉ có một thân thể, một Thánh Linh, như anh em bởi chức phận mình đã được gọi đến một sự trông cậy mà thôi; 5chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép báptêm; 6chỉ có một Đức Chúa Trời và một Cha của mọi người, Ngài là trên cả mọi người, giữa mọi người và ở trong mọi người” (Êph. 4:4-6) III. ÁP DỤNG 1. Chỉ có sự cầu nguyện bởi đức tin và theo lẽ thật mới là sự bày tỏ hiệp nhất và duy nhất đẹp ý Đức Chúa Trời! “1Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, 2cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn. 3Ấy là một sự lành và đẹp mắt Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta” (1Ti. 2:1-4) 2. Lẽ thật chứ không phải là chuyện huyễn! “Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật” (1Ti. 2:4) 3. Đức tin chứ không phải là kinh nghiệm! “6Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. Ấy là lời chứng đã làm đúng kỳ 7(ta nói thật, không nói dối), vì lời chứng ấy, ta đã được cử làm Thầy Giảng, làm Sứ Đồ và Giáo Sư cho Dân Ngoại, để dạy họ về đức tin và về lẽ thật” (1Ti. 2:6-7) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“BÀY TỎ CÁCH CHÂN THỰC” (1Sa. 16:7; Sv. 1Sa. 16:1-13) “Nhưng Đức Giêhôva phán cùng Samuên rằng: Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó, vì Ta đã bỏ nó. Đức Giêhôva chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giêhôva nhìn thấy trong lòng” (1Sa. 16:7; Sv. 1Sa. 16:1-13) I. KINH THÁNH “Nhưng Đức Giêhôva phán cùng Samuên rằng: Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó, vì Ta đã bỏ nó. Đức Giêhôva chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giêhôva nhìn thấy trong lòng” (1Sa. 16:7; Sv. 1Sa. 16:1-13) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức Chúa Trời biết mỗi người cách trực tiếp “Nhưng Đức Giêhôva phán cùng Samuên rằng: Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó” (1Sa. 16:7a; Sv. Thi. 139:15-16) (1) “bộ dạng”: Hb. הארמ [mar’eh] > “ngoại hiện” (2) “hình vóc”: Hb. המוק [qowmah] > “ngoại hình” (3) Đức Chúa Trời đã biết mỗi người sẽ như thế nào từ khi họ vừa mới được thai dựng! “15Khi tôi được dựng nên trong nơi kín,_Chịu nắn nên cách xảo tại nơi thấp của đất,_Thì các xương cốt tôi không giấu được Chúa._16Mắt Chúa đã thấy thể chất vô hình của tôi;_Số các ngày định cho tôi,_Đã biên vào sổ Chúa trước khi chưa có một ngày trong các ngày ấy” (Thi. 139:15-16) 2. Đức Chúa Trời biết mỗi người cách chính xác “vì Ta đã bỏ nó” (1Sa. 16: 7b; Sv. Châm. 16:1-2) (1) “bỏ”: Hb. סאמ [ma’ac] > “không dùng” (2) Đức Chúa Trời không bao giờ nhầm lẫn về con người! “Các đường lối của người đều là trong sạch theo mắt mình;_Song Đức Giêhôva cân nhắc cái lòng” (Châm. 16:2) - “cân nhắc”: Hb. ןוכ [kuwn] > “xác định” 3. Đức Chúa Trời biết mỗi người cách sâu xa “Đức Giêhôva chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giêhôva nhìn thấy trong lòng” (1Sa. 16:7c; Sv. Ma. 7:21-23) (1) “xem”: Hb. האר [ra’ah] > “tra xét” (2) “lòng”: Hb. בבל [lebab] > “ngôi ngự và là xuất phát điểm của mọi cảm xúc và hành vi” (3) Sự hiểu biết của Đức Chúa Trời đối với mỗi người là sự hiểu biết sâu xa hơn hết! “21Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng Ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào Nước Thiên Đàng đâu; nhưng chỉ kẻ làm theo ý muốn của Cha Ta ở trên trời mà thôi. 22Ngày đó, sẽ có nhiều người thưa cùng Ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri sao? Nhân danh Chúa mà trừ quỉ sao? Và lại nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao? 23Khi ấy, Ta sẽ phán rõ ràng cùng họ rằng: Hỡi kẻ làm gian ác, Ta chẳng biết các ngươi bao giờ, hãy lui ra khỏi Ta!” (Ma. 7:21-23) III. ÁP DỤNG 1. Việc Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng là một tin dữ cho kẻ dữ! “vì Ta đã bỏ nó” (1Sa. 16: 7b) 2. Việc Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng làmột tin lành cho người lành! “Nhưng Đức Giêhôva phán cùng Samuên rằng: Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó” (1Sa. 16:7a) 3. Việc Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng là lẽ cần cho việc chúng ta phải gìn giữ tấm lòng chân thực đối với Ngài! “Đức Giêhôva chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giêhôva nhìn thấy trong lòng” (1Sa. 16:7c) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“ĐÁP ỨNG QUA SỰ HẦU VIỆC” (Php. 3:12-16) “12Ấy không phải tôi đã giựt giải rồi, hay là đã đến nơi trọn lành rồi đâu, nhưng tôi đương chạy hầu cho giựt được, vì chính tôi đã được Đức Chúa Jêsus Christ giựt lấy rồi. 13Hỡi anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, 14nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ. 15Vậy, hễ những người trọn vẹn trong chúng ta, phải có ý tưởng đó; và nếu anh em tưởng đàng khác, Đức Chúa Trời cũng sẽ lấy sự đó soi sáng cho anh em. 16Duy chúng ta đã đạt đến bậc nào, thì chúng ta phải đồng đi vậy” (Php. 3:12-16) I. KINH THÁNH “12Ấy không phải tôi đã giựt giải rồi, hay là đã đến nơi trọn lành rồi đâu, nhưng tôi đương chạy hầu cho giựt được, vì chính tôi đã được Đức Chúa Jêsus Christ giựt lấy rồi. 13Hỡi anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, 14nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ. 15Vậy, hễ những người trọn vẹn trong chúng ta, phải có ý tưởng đó; và nếu anh em tưởng đàng khác, Đức Chúa Trời cũng sẽ lấy sự đó soi sáng cho anh em. 16Duy chúng ta đã đạt đến bậc nào, thì chúng ta phải đồng đi vậy” (Php. 3:12-16) II. GIẢI NGHĨA 1. Để có thể dốc sức hầu việc phải có chí quyết tâm (C. 12) (1) Bằng một sự nhìn nhận thực tế “Ấy không phải tôi đã giựt giải rồi, hay là đã đến nơi trọn lành rồi đâu” (Phlp. 3:12a) - “giựt giải rồi”: Gr. λαμβάνω [lambano] > “nhận được phần thưởng vì đã hoàn thành phận sự” (Sv. 1Cô. 9:24-27) (2) Bằng một sự nổ lực thực tiễn “nhưng tôi đương chạy hầu cho giựt được” (Phlp. 3: 12b) - “chạy”: Gr. διώκω [dioko] > “theo đuổi cách hết sức” (3) Bằng một sự xác định thực sự “vì chính tôi đã được Đức Chúa Jêsus Christ giựt lấy rồi” (Phlp. 3: 12c) - “giựt”: Gr. καταλαμβάνω [katalambano] > “cai quản” (Sv. Rô. 14:7-9) 2. Để có thể dốc sức hầu việc phải có đức kiên trì (C. 13-14) (1) Bằng việc không nuôi ảo tưởng (C. 13) “Hỡi anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích” (Phlp. 3:13) - “tưởng”: Gr. λογίζομαι [logizomai] > “kể như”, “cho rằng” (2) Bằng việc bám sát hiện thực (C. 14a) “nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước” (Phlp. 3: 14a) - “bươn”: Gr. ἐπεκτείνομαι [epekteinomai] > “rướn lên” (3) Bằng việc hoàn thành sự kêu gọi Thiên Thượng (C. 14b) “tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Phlp. 3:14b) - “mục đích”: Gr. σκοπός [skopos] > “điểm đến cuối cùng” 3. Để có thể dốc sức hầu việc phải có lòng kết ước (C. 15-16) (1) Phải nuôi chí (C. 15a) “Vậy, hễ những người trọn vẹn trong chúng ta, phải có ý tưởng đó” (Phlp. 3:15a) - “trọn vẹn”: Gr. τέλειος [teleios] > “trưởng thành” (2) Phải bền chí (C. 15b) “và nếu anh em tưởng đàng khác, Đức Chúa Trời cũng sẽ lấy sự đó soi sáng cho anh em” (Phlp. 3:15b) - “soi sáng”: Gr. ἀποκαλύπτω [apokalupto] > “bày tỏ” (3) Phải vững chí (C. 16) “Duy chúng ta đã đạt đến bậc nào, thì chúng ta phải đồng đi vậy” (Phlp. 3:16) - “đồng đi”: “cùng sống và nghĩ như nhau”… (Sv. Phlp. 2:1-4) > “στοιχειν κανονι [stoicheo kanon]”: Hiệp lực > “αυτο φρονειν [ autos phroneo]”: Đồng tâm III. ÁP DỤNG 1. Phải nhận thức rõ về chức phận hầu việc! “Ấy không phải tôi đã giựt giải rồi, hay là đã đến nơi trọn lành rồi đâu, nhưng tôi đương chạy hầu cho giựt được, vì chính tôi đã được Đức Chúa Jêsus Christ giựt lấy rồi” (Phlp. 3:12) 2. Phải xác định đúng về mục đích hầu việc! “Nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Phlp. 3:14) 3. Phải nuôi chí về nhiệt tình hầu việc! “Duy chúng ta đã đạt đến bậc nào, thì chúng ta phải đồng đi vậy” (Phlp. 3:16) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |