“PHẬN SỰ TRI ÂN” (Lu. 17:11-19) “Phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa, vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy.” (1Tê. 5:18) Có một câu chuyện kể về hai người bạn vừa đi, vừa nói chuyện vui vẻ với nhau trên một cánh đồng. Đột nhiên họ nhận ra rằng có một con bò điên đang hung hăng lao về hướng họ. Không cần ai bảo ai, cả hai cùng cố sức chạy về phía một trang trại có rào chắn ở gần đó. Con bò lên cơn điên vẫn rượt theo họ rất gấp. Càng chạy, hai người càng thấy khó có hy vọng thoát khỏi tình huống hiểm nghèo. Một trong hai người là người chưa tin Chúa, anh này hổn hển nhắc người tín đồ kia hãy cầu nguyện, may ra “tai qua nạn khỏi”! Khổ nỗi, người tín đồ lại là người không có thói quen cầu nguyện nên tỏ ra rất lúng túng. Cuối cùng, anh này cũng nhớ được một lời cầu nguyện mà cha anh vẫn thường dùng nên tự động thốt lên: “Chúa ôi, xin ban cho con lòng tri ân Ngài về những gì Ngài cho phép xảy ra trên đời sống của con!”… Tất nhiên là người chưa tin Chúa kia không thể nào hiểu thấu được triết lý của lời cầu nguyện ấy, và khó lòng mà chấp nhận nó được. Thế nhưng, liệu có phải tất cả các Cơ Đốc Nhân đều có thể nói “Amen” với một lời cầu nguyện như thế không? I. PHẬN SỰ TRI ÂN Chúng ta có thể học sự dạy dỗ của Kinh Thánh về phận sự tri ân ở nhiều nơi; tuy nhiên, câu chuyện về “Mười Người Phung” (Lu. 17:11-19) là một sự dạy dỗ rất phong phú về thái độ tri ân mà Cơ Đốc Nhân phải có. Đối với con cái Đức Chúa Trời, thái độ tri ân không thể là một cái gì đó “theo mùa”, “tùy tiện” mà phải là một thái độ thường xuyên. Tri ân là lối sống của Cơ Đốc Nhân để qua đó Cơ Đốc Nhân tự khẳng định mình là Cơ Đốc Nhân: “Phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa, vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy” (1Tê. 5: 18). Theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, thái độ tri ân không phải chỉ là “thiện chí” của một người mà là phận sự bắt buộc đối với Đức Chúa Trời: Hoặc người ta có lòng tri ân Đức Chúa Trời và như vậy là đáp ứng thuận với huấn mệnh của Ngài, hoặc người ta không có lòng tri ân Đức Chúa Trời và bởi đó mà phạm tội cùng Ngài. Hãy chú ý đến địa vị của “Mười Người Phung”: “11Đức Chúa Jêsus đương lên thành Giêrusalem, trải qua bờ cõi xứ Samari và Galilê. 12Nhằm khi vào làng kia, có mười người phung đến đón rước Ngài, đứng đằng xa, 13lên tiếng rằng: Lạy Jêsus, lạy Thầy, xin thương xót chúng tôi cùng!” (Cc. 11-13). Chúng ta có thể có một số nhận xét về những người phung này. Trước hết, Sứ Đồ Luca cho biết rằng họ “đứng đằng xa” (C. 12). Trong xã hội Cựu Ước, chẳng còn chứng bệnh nào đáng sợ hơn bệnh phung. Sự đau đớn mà các bệnh nhân phung phải chịu thật ghê gớm, nhưng đó chưa phải là điều ghê gớm nhất. Điều kinh khủng nhất đối với bệnh nhân phung là phải chịu cách ly với xã hội họ đang sống. Bệnh nhân phung không được tiếp xúc với bất cứ ai trong gia đình mình, và họ không được để cho bất cứ người nào giáp mặt, vì Luật Pháp Cựu Ước kể họ là ô uế. Một người phung phải chấp nhận mọi bất tiện của bịnh chứng và tình trạng cách ly, họ phải sống trong nỗi dằn vặt của người không biết đến bao giờ mới được sum họp lại với những con người thân thương trong gia đình, với các sinh hoạt quen thuộc của xã hội mà họ đã được sinh ra và lớn lên. Ngay cả các cộng đoàn tôn giáo của địa phương cũng không hề dành cho họ bất cứ một sự dung nạp nào cả. Trái lại, theo sự qui định tôn giáo, mỗi khi họ di chuyển trên đường, để tránh cho người khác khỏi phải chạm mặt, họ phải vừa đi vừa la lớn: “Ô uế! Ô uế!...”. Thật chẳng còn gì khủng khiếp hơn! Trên một phương diện, hoàn cảnh quá khứ của chúng ta khi chưa tiếp nhận sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus, và chưa được tái sanh, cũng có điểm tương đồng. Chúng ta hoàn toàn ở trong sự mù tối thuộc linh, hoàn toàn bị cách ly với Đức Chúa Trời, và vì vậy phải luôn sống trong một tình trạng tranh chiến triền miên dưới nhiều hình thức chẳng những với đồng loại của mình mà cũng còn với ngay chính bản thân mình nữa. Kinh Thánh khẳng định tình trạng bi đát của chúng ta lúc chưa được tái sanh: “28Tại họ không lo nhìn biết Đức Chúa Trời, nên Đức Chúa Trời đã phó họ theo lòng hư xấu, đặng phạm những sự chẳng xứng đáng. 29Họ đầy dẫy mọi sự không công bình, độc ác, tham lam, hung dữ, chan chứa những điều ghen ghét, giết người, cãi lẫy, dối trá, giận dữ; 30hay mách, gièm chê, chẳng tin kính, xấc xược, kiêu ngạo, khoe khoang, khôn khéo về sự làm dữ, không vâng lời cha mẹ; 31dại dột, trái lời giao ước, không có tình nghĩa tự nhiên, không có lòng thương xót. 32Dầu họ biết mạng lịnh của Đức Chúa Trời tỏ ra những người phạm các tội dường ấy là đáng chết, thế mà họ chẳng những tự làm thôi đâu, lại còn ưng thuận cho kẻ khác phạm các điều ấy nữa” (Rô. 1:28-32). Trên một phương diện, “Mười Người Phung” trong sự trước thuật này còn có mặt tích cực hơn những người dầu rất sáng láng về ngoại hình nhưng lại mù tối thuộc linh. “Mười Người Phung” trong câu chuyện này là những người “có lòng khó khăn”(Ma. 5:3), họ biết hoàn cảnh ngặt nghèo mà họ không thể tự cứu được mình: “Lạy Jêsus, lạy Thầy, xin thương xót chúng tôi cùng!” (C. 13). “Mười Người Phung” trong câu chuyện này biết rằng Luật Pháp cách ly họ nhưng Đức Chúa Jêsus lại là Đấng sẵn sàng tiếp cận họ để cho họ có thể tiếp nhận Ngài. Đức Chúa Jêsus tiếp nhận mọi người theo hiện trạng vốn có của họ, miễn là họ đến với Ngài bằng tấm lòng của người “có lòng khó khăn”; tức là sự nhận biết về tình trạng bất lực của bản thân, ăn năn, và kêu cầu Ngài. Được đến với Đức Chúa Jêsus để được Ngài thương xót quả thật là một điều đáng để tri ân. Nếu lòng chúng ta bị nguội lạnh về sự tri ân, hãy biết rằng chúng ta vốn đã được chuộc cho khỏi bị hư mất và đã được nhận làm con nuôi của Đức Chúa Trời : “4Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới Luật Pháp, 5để chuộc những kẻ ở dưới Luật Pháp, và cho chúng ta được làm con nuôi Ngài” (Gal. 4:4-5). II. ĐỂ BIẾT TRI ÂN Đức Chúa Jêsus đã đến thế gian để cứu vớt tội nhân. Con đường của Đức Chúa Jêsus là con đường hạ mình. Con đường của Ngài cũng là con đường vâng lời. Sự hạ mình và vâng phục của Đức Chúa Jêsus là mẫu mực cho Cơ Đốc Nhân noi theo: “5Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có. 6Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ, 7chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; 8Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Phil. 2:5-8). Bản chất của con người cũ không phải là con người hạ mình và vâng phục, con đường xưa là con đường mà sự tự cất mình lên “làm cho mình bằng Đấng Rất Cao” (Ês. 14:14) đã ảnh hưởng, và là “con cái bội nghịch, dòng dõi nói dối” (Ês. 57:4). Động cơ và năng lực hạ mình và vâng phục chỉ thực sự bắt đầu có trong một người “có lòng khó khăn” (Ma. 5:3) là người bắt đầu nhận thức được nhu cần thuộ c linh của mình. Người phung Samari không thể nào “trở lại, lớn tiếng ngợi khen Đức Chúa Trời” (C. 15), không thể nào “lại đến sấp mặt xuống đất, nơi chân Đức Chúa Jêsus, mà tạ ơn Ngài”(C. 16) nếu như người ấy chưa từng cất tiếng van xin Đức Chúa Jêsus rằng “Lạy Jêsus, lạy Thầy, xin thương xót chúng tôi cùng!” (C. 13), chưa tùng “thấy mình đã được sạch” (C. 15), chưa từng bắt đầu có “đức tin” (C. 19) đặt nơi Đức Chúa Jêsus. Để có thể biết tri ân, một sự tự nhận thức hợp Kinh Thánh cần phải được thực hiện: “9Hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:9-10). Không còn cách nào khác! Con đường dẫn đến sự tri ân luôn luôn là con đường hạ mình và vâng phục. Chưa ai thấy những người đang ở trong một tâm trạng “tự đắc”, “tự mãn” biết hạ mình! Chưa ai thấy những con người đang ở trong một tâm trạng “tự kỷ”, “tự cường” lại biết vâng phục bao giờ! Cho đến chừng nào mà người ta vẫn còn say sưa trong những điều họ có, họ vẫn còn chưa có lòng tri ân. Chỉ khi nào người ta biết nghĩ về sự thiếu thốn của mình họ mới biết vâng theo sự đòi hỏi của Ân Điển: “Khi Ngài thấy họ, liền phán rằng: Hãy đi, tỏ mình cùng Thầy Tế Lễ. Họ đương đi thì phung lành hết thảy” (C. 16). Điều đáng cho chúng ta lưu ý ở đây là Kinh Thánh chép rằng “họ đương đi thì phung lành hết thảy”. “Mười Người Phung” được lành giữa lúc họ vâng lời Đức Chúa Jêsus để đến tỏ mình cùng Thầy Tế Lễ; họ được lành khi họ chịu vâng phục Đức Chúa Jêsus. “Mười Người Phung” đã không được lành nhờ giấy chứng nhận sạch phung của Thầy Tế Lễ, nhưng họ đã được lành nhờ vâng lời Ngài mà đến với Thầy Tế Lễ. Thẩm quyền Hội Thánh không cứu được Cơ Đốc Nhân, nhưng Cơ Đốc Nhân tự chứng mình là Cơ Đốc Nhân bằng việc hạ mình vâng lời Đức Chúa Jêsus trong sự kết ước tận hiến của chính họ trong Hội Thánh. Được Đức Chúa Trời “xỏ tai” (Thi. 40:6, Sv. Xuất. 21:5-6) là có lòng vâng phục theo ý muốn của Ngài: “Chúa không thích đẹp hy sinh hoặc của lễ chay:_Chúa đã xỏ tai tôi._Chúa không có đòi của lễ thiêu hay là của lễ chuộc tội” (Thi. 40:6). Vâng lời Đức Chúa Trời là một việc quan trọng không những vì thái độ ấy dẫn đến lòng tri ân mà còn giúp biết tri ân đúng đối tượng. III. ĐẤNG PHẢI TRI ÂN Giấy chứng nhận sạch phung của Thầy Tế Lễ cấp cho người phung hết sức quan trọng trong xã hội Cựu Ước vì đó là tài liệu bắt buộc phải có để một người phung có thể tái hội nhập vào gia đình và cộng đồng. Tuy nhiên, theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh thì Thầy Tế Lễ không phải là đối tượng chính để tri ân. Trong nhiều trường hợp, thái độ vô ơn đối với một người nào đó có thể biểu hiện ra tấm lòng vô ơn đối với Đức Chúa Trời; thế nhưng Đức Chúa Trời luôn luôn là đối tượng tri ân chung cuộc của Cơ Đốc Nhân: “15Có một người trong bọn họ thấy mình đã được sạch, bèn trở lại, lớn tiếng ngợi khen Đức Chúa Trời; 16lại đến sấp mặt xuống đất, nơi chân Đức Chúa Jêsus, mà tạ ơn Ngài. Vả, người đó là người Samari” (Lu. 17: 15-16). Cơ Đốc Nhân nếu thực sự là Cơ Đốc Nhân thì Đức Chúa Trời luôn luôn là Đấng tối cao để họ tri ân thể theo bản chất vốn có của Ngài: “…5Ta là Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, tức là Đức Chúa Trời kỵ tà, hễ ai ghét Ta, Ta sẽ nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba, bốn đời, 6và sẽ làm ơn đến ngàn đời cho những kẻ yêu mến Ta và giữ các điều răn Ta” (Xuất. 20:5b-6). “Ta là Đức Giêhôva: Ấy là Danh Ta. Ta chẳng nhường sự vinh hiển Ta cho một đấng nào khác, cũng không nhường sự tôn trọng Ta cho những tượng chạm” (Ês. 42:8). Thái độ tri ân đối với duy nhất Đức Chúa Trời chứng minh được đức tin của một người đặt nơi Ngài, và chính nhờ một đức tin như thế mà Cơ Đốc Nhân mới có thể đồng đi với Ngài trong linh trình trên đời tạm này: “Ngài lại phán rằng:Đứng dậy, đi; đức tin ngươi đã cứu ngươi” (Lu. 17:18b). Để có lòng tri ân đúng đối tượng là Đức Chúa Trời, Cơ Đốc Nhân phải kinh nghiệm được Ngài qua việc biết vâng lời Ngài. Cơ Đốc Nhân không thể sống hạ mình và vâng phục theo mẫu mực của Đức Chúa Jêsus nếu họ xao lãng phận sự bắt buộc là thái độ tri ân. Trên một phương diện, Cơ Đốc Nhân là một nhân chủng đặc biệt; họ có lòng tri ân đối với Đức Chúa Trời và sống cho sự vinh hiển của Ngài: “…Anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức Thầy Tế Lễ Nhà Vua, là Dân Thánh, là Dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài” (1Phi. 2:9). “Hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được trở nên con cái của Đức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy Đạo Sự Sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian” (Phil. 2:15). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“PHẢI VÂNG LỜI CHÚA” (Ma. 7:24-27) “Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời Ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan cất nhà mình trên vầng đá.” (Ma. 7:24) Không phải tất cả những người tự nhận rằng mình thuộc về Đức Chúa Trời đều sẽ được Đức Chúa Trời nhìn nhận. Có một viễn cảnh rất ấn tượng mà chúng ta phải quan tâm: “22Ngày đó, sẽ có nhiều người thưa cùng Ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri sao? Nhân danh Chúa mà trừ quỉ sao? Và lại nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao? 23Khi ấy, Ta sẽ phán rõ ràng cùng họ rằng: Hỡi kẻ làm gian ác, Ta chẳng biết các ngươi bao giờ, hãy lui ra khỏi Ta” (Ma. 7:22-23). Ấy là vì không phải tất cả những người xưng rằng mình giảng Lời Đức Chúa Trời đều giảng dạy theo ý muốn của Ngài. Tương tự, không phải tất cả những người nghe giảng đều làm theo Lời Đức Chúa Trời. Đối với một số người, giữa việc nghe Lời Đức Chúa Trời với việc vâng theo Lời Ngài vẫn thường có một sự bất định, một khoảng cách: “24Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời Ta phán đây, thì giống một người khôn ngoan cất nhà mình trên vầng đá. 25Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy; song không sập, vì đã cất trên đá. 26Kẻ nào nghe lời Ta phán đây, mà không làm theo, khác nào như người dại cất nhà mình trên đất cát. 27Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy, thì bị sập, hư hại rất nhiều” (Ma. 7:24-27). Dầu vậy, với ẩn dụ về việc xây nhà trên đá hay trên cát mà Đức Chúa Jêsus giảng dạy trong phân đoạn Kinh Thánh này, bài học về phận sự phải vâng lời Đức Chúa Trời là một yêu cầu tất yếu. I. ĐỜI SỐNG MỖI NGƯỜI LÀ MỘT CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG Mỗi người đều tự xây cho mình một “ngôi nhà”, vì công việc của cả đời người sẽ gắn kết lại thành một chỗ ở cho họ: Ai biết tìm sự sống đời đời và sống bằng sự sống đời đời sẽ được vào ở Thiên Đàng, ai từ chối sự sống đời đời sẽ đời đời đắm chìm trong Hỏa Ngục: “Hỡi các ngươi được Cha Ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy Nước Thiên Đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất” (Ma. 25:34). “Hỡi kẻ bị rủa, hãy lui ra khỏi Ta; đi vào lửa đời dời đã sắm sẵn cho Ma Quỉ và những quỉ sứ nó” (Ma. 25:41). Ngay cả giữa vòng những người đang có sự sống đời đời là Chúa Cứu Thế Jêsus Christ (Gi. 17:3) cũng vẫn còn có những người không biết chuyên tâm cho việc xây dựng ngôi nhà của mình. Bằng một sự thờ ơ, hờ hững, họ đang xây cho mình một công trình hết sức tạm bợ. Công trình mà những người đang theo Chúa một cách vô tâm, vô tứ xây dựng chỉ là những lều, trại rất mong manh “Khác nào như người dại cất nhà mình trên đất cát” (C. 26). Tuy nhiên, cũng có những người đang theo Chúa một cách đáng khen. Họ biết sống một đời sống có kỷ luật: Tách ly với thế gian (1Gi. 2:15-17), và tận hiến cho Đức Chúa Trời (Rô. 12:1-3). Tất cả những gì họ đang cố gắng trong đời sống này là để làm đẹp ý Đức Chúa Trời. Những người như thế đang xây dựng cho mình một ngôi nhà bền vững, ngôi nhà “Đời đời tại trên trời”. Ngôi nhà họ đang xây là lâu đài hạnh phúc đích thực chẳng những cho đời này mà còn cho cõi đời đời nữa (2Cô 5:1-5). Mỗi người nhất định sẽ phải ở trong ngôi nhà mà mình đã xây. Không ai có thể thoát khỏi kết quả - hoặc hậu quả - công việc cả đời của mình được: “Bởi vì chúng ta thảy đều phải ứng hầu trước tòa án Đấng Christ, hầu cho mỗi người nhận lãnh tùy theo điều thiện hay điều ác mình đã làm lúc còn trong xác thịt” (2Cô. 5:10). Tùy theo cách người ta sống những ngày tháng trên thế gian này, ngôi nhà của mỗi người sẽ là nơi nương náu bền vững, hoặc sẽ chỉ là một đống đổ nát sẵn sàng đổ sập xuống đầu họ lúc nào không biết! (Sv. Lu. 12:20-21). II. NỀN MÓNG CÓ TÁC DỤNG QUYẾT ĐỊNH SỰ AN TOÀN CỦA CÔNG TRÌNH Hình tượng mà Đức Chúa Jêsus đem vào làm ẩn dụ ở đây rất có thể là những hình ảnh có thể trực quan được cho những người đang nghe Ngài giảng lúc bấy giờ. Xét bối cảnh của đoạn văn Kinh Thánh này, người ta có thể nghĩ rằng Đức Chúa Jêsus đang giảng ở Ghênêxarét hoặc một nơi nào gần đấy (Ma 14:34; Mác 6:53). Ghênêxarét khá nổi tiếng với đất đai màu mỡ, tên của xứ bằng Tiếng Hêbơrơ có nghĩa là “Vườn Tráng Lệ” (Ganne Sarim). Xứ này rất đẹp, uốn dài theo bờ biển chừng 5 km, nhưng rất hẹp: Từ mép nước cho đến chân núi chưa được 2 km nên có rất nhiều công trình phải được xây dựng trên sườn núi. Những ngôi nhà được xây dựng trên sườn núi cheo leo ở đây thường phải được đặt nền trên những chỗ có nền đá ổn định mới có thể chịu nổi dòng chảy xiết từ trên cao đổ xuống vào những ngày mưa lớn. Những khu vực có một nền đá ổn định vốn có tính ổn định được chứng tỏ qua rất nhiều năm. Dầu vậy, chen giữa những khu vực như thế còn có những vùng trông bằng phẳng, nhưng thấp hơn, và không có nền đá là những nơi nhiều con suối trong hệ thống núi đồi ở đây và các dòng chảy khi có mưa lớn có thể xâm phạm vào. Chọn một nền móng cho việc xây nhà là một việc quan trọng. Khi đề cập đến điều này, những người đang nghe Đức Chúa Jêsus giảng có thể hiểu được sự việc một cách nhanh chóng và sâu sắc vì trong kinh nghiệm sống cũng như theo quan cảnh chứng kiến được ở Ghênêxarét, ai cũng phải nhìn nhận rằng một ngôi nhà chỉ có thể an toàn nếu nó được lập nền móng trên một nơi vững chắc, ổn định mà thôi. Việc thiết kế sai cho nền móng của một ngôi nhà có thể dẫn đến việc làm hư ngôi nhà ấy. Dầu sao, một ngôi nhà bị hư hay bị sụp đổ cũng còn có cơ hội xây dựng lại được. Thế nhưng nếu đặt niềm tin sai chỗ - hoặc chỉ có một niềm tin mờ nhạt - không có tác dụng thực hành, người ta có thể bị mất cả linh hồn là điều không gì có thể đổi lại được. Sự an ninh cho một linh hồn phụ thuộc vào việc người ta đáp ứng như thế nào đối với Lời Chúa: “31Nếu các ngươi hằng ở trong Đạo Ta, thì thật là môn đồ Ta; 32các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi” (Gi. 8:31-32). Phước hạnh và sự vâng lời Chúa luôn luôn đi cặp theo với nhau. Đức Chúa Trời chỉ có thể ban phước cho những người Ngài có thể ban phước là người biết tôn trọng và vâng theo Lời Ngài: “Nhưng kẻ nào xét kỹ Luật Pháp trọn vẹn, là Luật Pháp về sự tự do, lại bền lòng suy gẫm lấy, chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó, thì kẻ đó sẽ tìm được phước trong sự mình vâng lời” (Gia. 1:25). III. NỀN MÓNG CỦA CÔNG TRÌNH PHẢI ĐƯỢC XÂY ĐÚNG CHỖ VÀ CHỊU ĐƯỢC THỬ THÁCH (C. 26, 27) Trong điều kiện bình thường, mọi ngôi nhà trông đều tốt như nhau. Đôi khi những ngôi nhà không xây trên nền đá lại có vẻ thuận tiện cho việc sinh sống và sự đi lại hơn! Vấn đề ở chỗ không phải khí hậu, thời tiết lúc nào cũng tốt. Hết nắng tất phải đến mưa, đó là qui luật muôn thuở của thiên nhiên. Khi có mưa dầm lâu ngày, hàng loạt biến đổi cơ học, hóa học, vật lý diễn ra làm thay đổi cấu trúc địa chất, làm biến động địa mạo hết sức mạnh mẽ, sâu rộng. Nước chảy xiết từ trên sườn núi xuống có thể khoét vào những lớp đất có cấu trúc không bền nằm giữa các tầng đá và cuốn trôi đi. Thêm vào đó còn có cả mưa dồi, gió dập tạo ra những ảnh hưởng lớn trên các công trình xây dựng nữa. Trong những thời kỳ thử thách như thế, công trình xây dựng nào có nền móng không bền vững tất phải bị “Hư hại rất nhiều”. Trước hết, “Vầng Đá” (C. 24), hay “Đá” (C. 25) chỉ về chính Đức Chúa Jêsus. “Đất cát” (C. 26) nói về nổ lực của con người. Theo Lu. 6:46-49 là một đoạn văn Kinh Thánh tương hiệp với đoạn văn chúng ta đang học: “Kẻ nào đến cùng Ta” (Lu. 6:47)… “Giống như một người kia cất nhà, đào đất cho sâu, xây nền trên Vầng Đá” (Lu. 6:48) chỉ về đức tin đặt nơi Đức Chúa Jêsus. Chỉ có thể có kết quả tốt đẹp nếu người ta chịu đặt niềm tin mình nơi Chúa Cứu Thế Jêsus, tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình: “Ai tin Con, thì được sự sống đời đời; ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó” (Gi. 3:36). Thứ hai, nếu một công trình xây dựng phải chịu nổi thử thách thì đức tin của mỗi cá nhân cũng phải kinh qua thử thách. Đức Chúa Jêsus phán rằng “Nếu ai muốn theo Ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo Ta” (Lu. 9:23). Lời Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết rằng “Hết thảy mọi người muốn sống cách nhơn đức trong Đức Chúa Jêsus Christ, thì sẽ bị bắt bớ” (2Ti. 3:12). Sự thử thách là một phần tất yếu trong cuộc sống của người theo Chúa. “Cất nhà mình trên Vầng Đá” là thực sự có đức tin nơi Đức Chúa Jêsus, đồng thời cũng có nghĩa là “Châm rễ và lập nền trong Ngài” (Côl. 2:7) để có thể chịu đựng được thử thách chứ không phải chỉ là hạng người “Nghe Đạo, liền vui mừng chịu lấy; song trong lòng không có rễ, chỉ tạm thời mà thôi, đến khi vì Đạo mà chịu sự cực khổ, sự bắt bớ, thì liến vấp phạm” (Ma. 13:20-21). “Không có rễ” cũng chính là “Cất nhà mình trên đất cát” (Ma. 7:26), “Bị sập, hư hại rất nhiều” (Ma. 7:27) cũng chính là “Vấp phạm” (Ma. 13:21). IV. NỀN BỀN VỮNG CỦA ĐỨC TIN CHÍNH LÀ SỰ VÂNG LỜI CHÚA (C. 24, 25) Điều đáng cho chúng ta để ý là “Người dại” trong ẩn dụ này không phải là người không có đức tin đặt nơi Đức Chúa Jêsus. Trong các câu 24 và 26, dầu rằng “Nghe” (Gk. akouo) không mang nghĩa trọn vẹn như “nghe” trong Ma. 10:14 nhưng hàm ý “nghe, hiểu, và chấp nhận chứ không bác bỏ”. Hành động “Nghe” của “Người dại” được Đức Chúa Jêsus nêu lên ở đây cho thấy họ có sự ưng thuận với lẽ thật ở một chừng mực nhất định (Sv. Công. 2:22; Khải. 1:3; Gi. 5:24). Như vậy vấn đề chính là ở chỗ “Làm theo” (C. 24) hay “Không làm theo” (C. 26) những sự dạy dỗ đã được nghe. Ẩn dụ mà Đức Chúa Jêsus dạy có một bài học về sự thực hành đức tin. “Vầng Đá” (C. 24), hay “Đá” (C. 25) không những chỉ về Đức Chúa Jêsus mà còn làm hình bóng cho sự bền lòng thực hành những điều đã tin nhận. “Đất cát” (C. 26) không chỉ nói về nổ lực của con người mà còn làm hình bóng cho cảm xúc nhất thời của con người đối với chân lý Thiên Thượng nữa. Thực tế là luôn luôn có những người cũng tỏ ra cảm ứng rất thuận lợi trước các sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời nhưng họ không biết đem những gì đã được nghe ứng dụng vào đời sống thường ngày của mình. Điều Đức Chúa Trời trông đợi là chúng ta phải được giải thoát khỏi xiềng xích của Ma Quỉ, thế gian, và sức mạnh của tội lỗi nội tại trong bản thân bằng việc chúng ta nhờ sức Ngài để thực hành Lời Ngài (Gi. 8:32; 15:3). Đức Chúa Jêsus đã dùng ẩn dụ này để dạy dỗ chúng ta đừng nên dừng lại ở một sự xưng nhận bề ngoài về lòng trung thành của chúng ta đối với Ngài. Những kẻ giả danh cũng hoàn toàn có thể xưng nhận như thế được (Ma. 7:22-23). Tất cả sẽ vô dụng nếu thiếu sự vâng lời (Lu. 6:46). Đức tin phải có việc làm minh chứng cho đức tin (Gia. 2:17). Không phải tự thân việc Ápraham dâng con mình là Ysác lên bàn thờ khiến cho Ápraham được xưng công bình. Việc làm ấy minh chứng cho một đức tin trọn vẹn vốn có trong con người của Ápraham, và bởi đức tin ấy mà Ápraham được Đức Chúa Trời xưng công bình (Gia. 2:21-23). Chỉ những ai biết đứng trên vầng đá thực hành đức tin đã đặt nơi “Vầng Đá” Đức Chúa Jêsus Christ mới minh chứng được cho đức tin mà mình đã xưng nhận, và mới có thể kết quả một cách bền vững ở trong Ngài. Những người như thế được kể là “Người khôn ngoan” (Gk. phrominos # sophos: “hiểu biết đường lối thực hành”): “Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời Ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan cất nhà mình trên vầng đá” (C. 24). Ngược lại, xúc cảm nhất thời không giúp sinh bông trái trên đời sống người theo Chúa được. Phải biết duy trì và biến đổi xúc cảm đối với Chúa thành nếp sống vâng lời Ngài luôn luôn thì mới có thể khỏi bị kể là hạng “Người dại” (Gk. moros: “không tin kính”). Mọi hành vi của người ta khi sống trên thế gian này sẽ hình thành cho họ một chổ ở: Hoặc vui sướng vinh hiển đời đời, hoặc “Chịu sự xấu hổ nhơ nhuốc đời đời” (Đa. 12:2). Đó là một sự thật, và là một tất yếu khách quan đối với con người trên thế gian này tùy theo cách đáp ứng của họ đối với Cứu Chúa của thế gian là Đức Chúa Jêsus Christ. Ngay cả những người đã đặt niềm tin của nơi Đức Chúa Jêsus cũng cần phải thận trọng trong cách bước theo Chúa của mình. Việc xưng nhận niềm tin sẽ trở thành vô nghĩa và vô ích nếu người ta không hết lòng làm theo những gì Đức Chúa Trời phán với họ. Sự vâng lời Đức Chúa Trời của mỗi người nói lên được họ là hạng người nào theo cách nhìn nhận của Ngài. Quan trọng hơn thế, sự vâng lời Chúa quyết định hiện tại và tương lai đời đời của người theo Chúa. Xóa bỏ sự bất cập giữa “Nghe và làm theo” để luôn luôn vâng lời Đức Chúa Trời không phải là một sự chọn lựa tùy ý mà phải là một phận sự bắt buộc đối với mỗi người chúng ta. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“PHẢI THÀNH TÂM VÀ TRUNG TÍN” (Giô. 24:14-15) “Vậy, bây giờ hãy kính sợ Đức Giêhôva, và phục sự Ngài cách thành tâm và trung tín…” (Giô. 24:14) Sách Giôsuê mở đầu bằng những lời như thế này: “1Sau khi Môise, tôi tớ của Đức Giêhôva, qua đời, Đức Giêhôva phán cùng con trai của Nun, tôi tớ của Môise, mà rằng: 2Môise, tôi tớ Ta, đã chết; bây giờ ngươi và cả dân sự này hãy đứng dậy đi qua sông Giôđanh, đặng vào xứ mà Ta ban cho dân Ysơraên… 10Bấy giờ Giôsuê truyền lịnh cho các quan trưởng của Dân Sự mà rằng: 11Hãy chạy khắp trại quân, truyền lịnh nầy cho Dân Sự rằng: Hãy sắm sẵn thực vật, vì trong ba ngày nữa các ngươi sẽ đi ngang qua sông Giôđanh nầy, đặng đánh lấy xứ mà Giêhôva Đức Chúa Trời các ngươi ban cho mình làm sản nghiệp” (Giô. 1:1-2, 10-11). Giôsuê đã thành tâm và trung tín trong chức nghiệp hầu việc mà Đức Chúa Trời ủy thác cho mình cho đến hơi thở cuối cùng. Lời của Giôsuê nói ra theo ý muốn của Đức Chúa Trời đã được Dân Sự nghe và làm theo, và họ đã chiếm được xứ mà Đức Chúa Trời hứa ban cho họ. Giữa vòng Hội Thánh ngày nay, lời của đầy tớ Đức Chúa Trời có còn được Dân Sự của Ngài lắng nghe, giữ lấy, và làm theo một cách thành tâm và trung tín hay không? NGHE LỜI PHẢI NGHE Những lời dặn dò cuối cùng của một người trước lúc lâm chung luôn luôn quan trọng. Trong một chừng mực nhất định, những lời cuối cùng là một cách tóm tắt hoài bão của cả một đời người bằng việc đề cập những điều bức xúc nhất. Chẳng hạn, Giôsép nói trong những lời cuối cùng của mình như sau: “24Em sẽ chết, nhung Đức Chúa Trời sẽ đến viếng anh em thật; đem các anh em về xứ mà Ngài đã thề hứa cùng Ápraham, Ysác, và Giacốp. 25Giôsép biểu các con trai của Ysơraên thề mà rằng: Quả thật, Đức Chúa Trời sẽ đến viếng các anh em; xin anh em hãy dời hài cốt tôi khỏi xứ nầy” (Sáng. 50:24-25). Chúng ta cũng có thể nhắc đến những lời cuối cùng của Môise tổng kết một chặng đường dài thoát khỏi xứ nô lệ.: “Ồ! Ysơraên, ngươi có phước dường bao!_Hỡi dân được Đức Giêhôva cứu rỗi, ai giống như ngươi?_Ngài là cái thuẫn giúp đỡ ngươi,_Thanh gươm khiến cho ngươi nên vinh hiển._Kẻ thù nghịch ngươi sẽ đến dua nịnh ngươi;_Còn ngươi, ngươi sẽ lấy chân giày đạp các nơi cao của chúng nó” (Phục. 33:29) Sứ Đồ Phaolô cũng có những lời cuối cùng cho Hội Thánh qua việc dặn dò người môn đồ của mình là Timôthê: “Nguyền xin Chúa ở cùng tâm thần con! Cầu xin Ân Điển ở cùng các anh em!” (2Ti. 4:22). Những lời cuối cùng của Giôsuê chứa đựng cả một sự thúc giục đầy nhức nhối cho mỗi ngươi chúng ta suy gẫm, hầu làm nền tảng để chúng ta xây dựng đời sống tin kính của mình. Theo thời điểm của đoạn văn Kinh Thánh này (Giô. 24: 14-15), đó chính là lúc Giôsuê sắp qua đời, là lúc Giôsuê muốn dặn dò Dân Sự Đức Chúa Trời về phận sự bao quát nhất của họ: “14Vậy, bây giờ hãy kính sợ Đức Giêhôva, và phục sự Ngài cách thành tâm và trung tín; hãy bỏ xa các thần mà tổ phụ các ngươi hầu việc bên kia sông, và tại xứ Êdíptô, phải phục sự Đức Giêhôva. 15Nếu chẳng thích cho các ngươi phục sự Đức Giêhôva, thì ngày nay hãy chọn ai mà mình muốn phục sự, hoặc các thần mà tổ phụ các ngươi đã hầu việc bên kia sông, hoặc các thần dân Amôrít trong xứ mà các ngươi ở; nhưng ta và nhà ta sẽ phục sự Đức Giêhôva” (Giô. 24:15-15). Đoạn văn này là sự kêu gọi thiết tha đối với Dân Sự Đức Chúa Trời. Đây là một sự kêu gọi được đặt dưới dạng giao ước. Sứ điệp của Giôsuê là sứ điệp kêu gọi lòng trung thành kết ước của các Cơ Đốc Nhân trong đời sống theo Chúa của họ. Sứ điệp này vẫn còn nguyên giá trị cho mỗi Cơ Đốc Nhân trong Hội Thánh! TRẢ GIÁ PHẢI TRẢ Để sống thành tâm và trung tín cho Đức Chúa Trời, có một giá mà người tín hữu phải trả, Giôsuê tuyên bố rõ ràng : “Nếu chẳng thích cho các ngươi phục sự Đức Giêhôva…” Từ liệu “chẳng thích” được sử dụng ở đây là một từ liệu Hêbơrơ (Hb. ra’ah’) có nghĩa khá rộng: “Dở”, “không thuận lợi”, hay “kém”, “xấu” hoặc ngay cả đến “tai họa” như Môise đã dùng khi nhấn mạnh với Dân Sự Đức Chúa Trời về con đường mà họ chọn để theo: “Hãy xem, ngày nay ta đặt trước mặt ngươi sự sống và phước lành, sự chết và tai họa (Hb. ra’ah)” (Phục. 30:15). Và, sự phước lành hay sự rủa sả là tùy ỏ sự chọn lựa cá nhân: “Ngày nay ta bắt trời và đất làm chứng cho các ngươi rằng ta đã đặt trước mặt các ngươi sự sống và sự chết, sự phước lành và sự rủa sả. Vậy, hãy chọn sự sống hầu cho ngươi và dòng dõi ngươi được sống” (Phục. 30:19). Từ liệu này có nghĩa rộng vì nó không hàm ý trực tiếp về điều ác, điều xấu, hay sự tai họa mà thường thường có nghĩa là “không vui lòng’, “không thấy thú vị”, “miễn cưỡng”,… do các sự khó khăn thể chất hay tinh thần tạo ra. Giôsuê nhận thức được rằng Dân Sự Đức Chúa Trời đã phải trải qua vô vàn khó khăn, thử thách trên bước đường theo Ngài nên từ liệu được dùng ở đây là để nói về hậu quả bất lợi trên tâm lý, thần kinh của con người. Giôsuê lãnh đạo một tập thể phải lặn lội suốt 40 năm trong sa mạc và các miền cận sa mạc. Họ đã phải chịu đựng khí hậu khắc nghiệt. Họ đã trải qua những ngày, tháng đói cơm, khát nước. Họ đã phải đối diện từ nguy hiểm này đến nguy hiểm khác của quân thù. Họ đã phải vâng lệnh vượt sông giữa mùa nước tràn bờ. Họ đã phải chịu cắt bì giữa lúc quân thù đang kề cận một bên và vì vậy mà chỉ một đám binh tầm thường cũng đã thắng được họ. Họ đã thất bại ê chề tại thành Ahi vì tội lỗi giữa vòng Dân Sự. Họ cũng đã phải chứng kiến cái chết đau đớn của những người thân của mình khi họ không chịu vâng lời Đức Chúa Trời… Dầu rằng Dân Sự Đức Chúa Trời đã chiến đấu và chiến thắng nhưng những mất mác quá khứ và hiện tại vẫn thường xuyên gặm nhấm khiến họ mỏi mòn. Dầu họ có một mối tương giao thường trực và gần gũi với Đức Chúa Trời nhưng không phải nhờ đó mà họ được miễn trừ cái giá phải trả. Trái lại, giá phải trả của một Cơ Đốc Nhân thật là thật: “Hãy nhớ lời Ta đã nói cùng các ngươi. Đầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Ta, ắt họ cũng bắt bớ các ngươi; bằng họ đã giữ lời Ta, ắt cũng giữ lời các ngươi” (Gi. 15:20). Cơ Đốc Nhân thật không ngại giá phải trả để vâng lời Cứu Chúa yêu dấu của mình, họ xả thân cho mối tương giao mật thiết mà Đấng Sáng Tạo và Tể Trị đã đẹp ý chiếu cố đối với họ là loài thọ tạo hữu hạn của Ngài. Cơ Đốc Nhân thật không xem các yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với họ là quá cao. Cơ Đốc Nhân thật sống xả thân nhờ sự giàu có vô lượng vô biên thể theo thuộc tính vốn có của Đức Chúa Trời chứ không lợi dụng sự giàu có, rời rộng của Đức Chúa Trời cho sự giàu sang ích kỷ và tạm bợ của mình trên thế gian này. Đức Chúa Trời không thể nào là chỗ lợi dụng của ai được cả! Người ta sống là để làm đẹp ý Đức Chúa Trời chứ không phải Đức Chúa Trời hiện hữu là để chìu theo ý muốn của người ta! Cách duy nhất để người ta có thể hưởng lợi từ sự giàu có vô lượng, vô biên của Đức Chúa Trời là dấn thân cho Ngài: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (Ma. 6:33). “… 24Nếu ai muốn theo Ta, thì phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. 25Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ Ta mà mất sự sống thì sẽ được lại. 26Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Vậy thì ngươi lấy chi mà đổi linh hồn mình lại?” (Ma. 16:24-26). Để có thể chấp nhận giá phải trả, Cơ Đốc Nhân cần phải có một tấm lòng trung thực. Tất cả vấn đề là ở tấm lòng (Châm. 4:23): Thích hay không thích! TRÁNH CÁM DỖ PHẢI TRÁNH Giôsuê đã vạch trần một sự thật: “Nếu chẳng thích cho các ngươi phục sự Đức Giêhôva…” Nếu đã có điều “không thích” thì tất phải có điều “thích”. Một khi Giôsuê đã nêu lên vấn đề “chẳng thích” thì có nghĩa là không phải tất cả mọi Cơ Đốc Nhân đều thành tâm, trung tín phục sự Đức Chúa Trời của mình; mà cũng còn có những người, dầu vẫn được nhìn nhận là Cơ Đốc Nhân, thích những điều gì đó không phù hợp theo “ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời” (Rô. 12:2). Đó chính là những người không biết rằng giữa thế gian này, làm một Cơ Đốc Nhân là làm một “người dại”: “13Chúng tôi là kẻ ngu dại vì cớ Đấng Christ, nhưng anh em được khôn ngoan trong Đấng Christ; chúng tôi yếu đuối, anh em mạnh mẽ; anh em quí trọng, chúng tôi khinh hèn. 11Cho đến bây giờ, chúng tôi vẫn chịu đói khát, trần mình, bị người ta vả trên mặt, lưu lạc rày đây mai đó. 12Chúng tôi dùng chính tay mình làm việc khó nhọc; khi bị rủa sả, chúng tôi chúc phước; khi bị bắt bớ, chúng tôi nhịn nhục, 13khi bị vu oan, chúng tôi khuyên dỗ; chúng tôi như rác rến của thế gian, cặn bã của loài người, cho đến ngày nay” (1Cô. 4:10-13). Thành thật mà nhìn nhận, phần lớn chúng ta đã đánh mất tầm nhìn này. Giữa vòng Cơ Đốc Nhân, có không ít người khát khao một cách điên cuồng sự vinh thân, phì gia. Về mặt danh nghĩa là người theo Chúa nhưng trên phương diện thực tế họ chạy theo các tiêu chuẩn thế gian. Giữa vòng Dân Sự Đức Chúa Trời ngày nay, nan đề không phải ở chỗ thiếu “người khôn” mà là có quá nhiều “người khôn”; họ không “khôn” theo Đức Chúa Trời mà “khôn” theo tiêu chuẩn thế gian. Tại sao? Đây là câu trả lời của Kinh Thánh: “Bởi vì sự rồ dại của Đức Chúa Trời là khôn sáng hơn người ta, và sự yếu đuối của Đức Chúa Trời là mạnh hơn người ta” (1Cô. 1:25). “15Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian, thì sự kính mến Đức Chúa Trời chẳng ở trong người ấy. 16Vì mọi sự trong thế gian, như sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời đều chẳng từ Cha mà đến, nhưng từ thế gian mà ra. 17Vả thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (1Gi. 2:15-17). Sự khôn ngoan theo ý riêng luôn luôn đem người ta ra khỏi ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống của họ, chính vì thế mà Giôsuê khẳng định: “14Vậy,… hãy bỏ xa các thần mà tổ phụ các ngươi hầu việc bên kia sông, và tại xứ Êdíptô... 15… hoặc các thần dân Amôrít trong xứ mà các ngươi ở…” (Giô. 24:15-15). Tôn giáo đích thực phải là một cuộc hạnh ngộ vô tận giữa cá nhân với chân thần duy nhất là Đức Chúa Trời, là cuộc tận hiến cá nhân để tận hưởng phước hạnh thiên thượng. Tôn giáo đích thực không phải chỉ là ý tưởng để theo đuổi, không phải chỉ là khái niệm để trầm tư, và nhất định không phải là trang sức để tô điểm hay công cụ để thu đoạt. “Hãy bỏ xa các thần mà tổ phụ các ngươi hầu việc bên kia sông, và tại xứ Êdíptô…” Đó chính là những đam mê ngày xưa khi còn ở trong đêm dài tội lỗi, khi chưa được cứu: “17Vậy, nầy là điều tôi nói và điều tôi nhân danh Chúa mà rao ra: Ấy là anh em chớ nên ăn ở như người ngoại đạo nữa, họ theo sự hư không của ý tưởng mình, 18bởi sự ngu muội ở trong họ, và vì lòng họ cứng cỏi nên trí khôn tối tăm, xa cách sự sống của Đức Chúa Trời. 19Họ đã mất cả sự cảm biết, đành bỏ mình trong một đời buông lung, đem lòng mê đắm không biết chán mà phạm hết mọi điều ô uế. 20Nhưng anh em học cho biết Đấng Christ thì chẳng phải như vậy, 21vì anh em đã nghe Đạo Ngài, và được dạy dỗ trong Ngài (y theo lẽ thật trong Đức Chúa Jêsus) 22rằng anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành, 23mà phải làm nên mới trong tâm chí mình, 24và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và thánh sạch của lẽ thật” (Êph. 4:17-24). Tôn giáo đích thực không bao giờ có thể là một thứ thời trang để gắn thêm vào người cho thêm rườm rà “hoa lá cành”. Tôn giáo đích thực phải có tác dụng của một cuộc lột xác trên đời sống cá nhân. Tôn giáo đích thực phải có tác dụng trả lại vẻ khôi ngô, tuấn tú vốn có của “Hoàng Tử Cóc” và trả lại vẻ mỹ miều thiên tiên của “Cô Tấm” trong chuyện đời xưa… “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (2Cô. 5:17). Mặt khác, “trước cổng Thiên Đàng vẫn còn đường đi Địa Ngục”! Cám dỗ vẫn cứ còn đeo đuổi người đã được cứu để vô hiệu hóa đời sống theo Chúa của họ, làm cho đời sống của họ không có bông trái cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Đó chính là “các thần dân Amôrít trong xứ mà các ngươi ở…”! Đây chính là lời cảnh báo của Giôsuê về những tội lỗi còn vấn vương trên đời sống các Cơ Đốc Nhân: “1Thế thì, vì chúng ta được nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây rất lớn, chúng ta cũng nên quên hết gánh nặng và tội lỗi dễ vấn vương ta, lấy lòng nhịn nhục theo đòi cuộc chạy đua đã bày ra cho ta, 2nhìn xem Đức Chúa Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin, tức là Đấng vì sự vui mùng đã đặt trước mặt mình, chịu lấy thập tự giá, khinh điều sỉ nhục, và hiện nay ngồi bên hữu ngai Đức Chúa Trời” (Hê. 12:1-3). Lời thách thức mà Giôsuê đặt ra trước Dân Sự của Đức Chúa Trời là lời kêu gọi về sự thành tâm và trung tín. Để được ở trong Đạo của Đức Chúa Trời, thành tâm và trung tín là những yếu tố không thể nào thiếu được. Cơ Đốc Nhân phải luôn luôn tỉnh thức trên từng bước đi của mình; biết rõ điều gì cần phải nghe và chấp nhận giá phải trả, điều gì cần phải nghe và làm theo, điều gì cần phải nghe và tránh không phạm vào. Cơ Đốc Nhân phải phấn đấu hết lòng để giữ vững lòng trung thành sắc son đối với Đấng yêu thương và cứu chuộc mình, hoàn thành sự kêu gọi vinh quang từ Thiên Thượng: “Vậy, bây giờ hãy kính sợ Đức Giêhôva, và phục sự Ngài cách thành tâm và trung tín…” (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“PHẢI TẬN HIẾN ĐỜI SỐNG CÁ NHÂN” (Rô. 12:1-2) “Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Ðức Chúa Trời là thể nào.” (1Phi. 4:10) Lời Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh kêu gọi chúng ta phải có đời sống tách ly và tận hiến. Chúng ta phải tách ly ra khỏi sự bất khiết của thế gian, nhưng chỉ có thế thì chưa đủ. Nếu chỉ có tách ly khỏi thế gian không thôi, chúng ta dễ bị rơi vào một trạng thái trống không có thể khiến cho đời sống cá nhân chúng ta có những thái độ và hành động bất khiết thuộc linh như kiêu ngạo, phản kháng, vạch lá tìm sâu... Để đời sống tin kính của mỗi cá nhân không có “tư tưởng cao quá lẽ” mà là có một “tâm tình tầm thường, y theo lượng đức tin mà Đức Chúa Trời đã phú cho từng người”, cùng với việc tự phân rẽ mình ra khỏi sự bất khiết của thế gian, nhất thiết chúng ta cũng phải có sự tận hiến mình cho Đức Chúa Trời (Rô. 6:11-13; 12:1-3). Sự tận hiến đời sống cá nhân cho Đức Chúa Trời nói về việc chúng ta dâng mình cho Đức Chúa Jêsus và dâng cuộc sống của chúng ta cho Ngài (2Cô. 5:15). Chính từ việc dâng đời sống cá nhân cho Chúa mà Ngài mới có thể được biểu hiện qua đời sống của chúng ta (Gal. 2:20). Vốn đã tiếp nhận Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa, chúng ta có bổn phận của người tín hữu là tận hiến hoàn toàn cho Chúa và công việc của Chúa trong thế gian này (Rô. 12:1; Sv. Ês 6:8). Chúng ta làm sự ấy bằng quyết định của tấm lòng và bằng sự cầu nguyện. Sứ Đồ Phaolô cho thấy việc tận hiến này có các phương diện sau đây: I. TẬN HIẾN LÀ GÌ? (Câu 1) Người tin theo Chúa không còn là “chủ nhân” của chính mình nữa (Rô. 14:8). 1. Bản Chất Của Việc Tận Hiến Việc tận hiến có bản chất của sự dâng hiến. Tận hiến là hành động đầu phục Đức Chúa Trời một cách đầy đủ và thỏa đáng để được chuyển hóa cho giống Đức Chúa Jêsus, và để được sử dụng vào công việc và ý chỉ của Ngài. Tận hiến là chúng ta dâng cho Đức Chúa Trời toàn bộ con người của chúng ta: Dâng đời sống của chúng ta, tài sản của chúng ta, thân thể của chúng ta cho Đức Chúa Trời để trở nên điều Ngài muốn, để làm những gì Ngài muốn chúng ta làm, và để đi bất cứ nơi nào Ngài muốn chúng ta đi. Chúng ta thực hiện việc dâng hiến này bằng [1] sự quyết định của tấm lòng và [2] biến quyết định này thành hành động qua sự cầu nguyện (Ês. 6:8), và sự vâng lời (Lu. 6: 46). 2. Tính Chất Của Việc Tận Hiến Việc tận hiến đời sống cá nhân giống với việc dâng cho Đức Chúa Trời một của lễ. Đó chính là hành vi dâng cho Ngài một điều gì đó quí giá mà chúng ta có (2Sa. 24:24). Tận hiến đời sống cá nhân là kết ước dâng cho Chúa chính tự thân chúng ta, là dâng cho Chúa một sự sở hữu cá nhân quí giá nhất của chúng ta. Sứ Đồ Phaolô kể sự dâng hiến này như thể là: a. Một Của Lễ Sống Tại lúc được cứu rỗi, chúng ta đã chết đối với các ác bá thuộc linh ngày xưa và đã được làm nên sống động cho Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jêsus là Chủ Nhân mới của chúng ta (Gal. 2:20 > Rô. 6:11). Chúng ta phải nhìn nhận lẽ thật thuộc linh này và càng trở nên thuận phục Đức Chúa Trời nhiều lần hơn là ngày trước đi theo tội lỗi, thế gian, và Satan. b. Một Của Lễ Thánh Bằng sự kết ước tận hiến đời sống cá nhân, chúng ta tự phân rẽ ra khỏi tội lỗi để dâng mình cho Đức Chúa Trời và thể hiện mục đích sống của chúng ta là làm đồ dùng công nghĩa của Đức Chúa Trời chứ chẳng còn là công cụ của sự tà ác nữa (Rô. 6: 12-13 > 2Ti. 2: 21). c. Một Của Lễ Đẹp Lòng Đức Chúa Trời Sự kết ước tận hiến đời sống cá nhân làm đẹp lòng Đức Chúa Trời (Sv. Êph. 5:10 > 2Cô. 5: 9). Sự kết ước ấy cho phép Ngài tiếp sức, dẫn dắt, và sử dụng chúng ta làm theo ý muốn của Ngài và qua đó làm sáng danh Ngài (Êph. 2: 10). 3. Lý Do Của Việc Tận Hiến Việc tận hiến đời sống cá nhân để hầu việc Đức Chúa Trời là một điều phải lẽ. Sự việc rằng hầu việc Chúa là phải lẽ có ít nhất ba nguyên nhân: Thứ nhất, Đó là một nghĩa vụ hợp lý. Chúng ta phải theo sát sự dạy bảo và dẫn dắt của Chúa như đã được ban cho qua Kinh Thánh chứ không phải chỉ chờ sự mách bảo của Ngài và nhờ sự phỏng đoán của chúng ta (Êph. 5:10 > Êph. 5:17). Thứ hai, Đó là một nghĩa vụ bắt buộc. Việc tự dâng mình chúng ta cho Đức Chúa Trời là điều phải lẽ vì Đức Chúa Jêsus đã ban chính mình Ngài cho chúng ta (Ma. 20:28 > 2Cô. 5:15). Thứ ba, Đó là một nghĩa vụ khôn ngoan. Việc dâng mình làm đồ dùng cho sự công bình của Đức Chúa Trời vì sự vinh hiển của Ngài, và để làm ích cho bản thân cũng như cho tha nhân, hiển nhiên là khôn ngoan hơn là làm công cụ cho sự không công bình, bất xứng đối với Đức Chúa Trời, có hại cho chính mình và cho cả người khác (Rô. 6:1 > 2Ti. 2:21). 4. Mục Đích Của Sự Tận Hiến Việc tận hiến đời sống cá nhân là nhằm mục đích hầu việc Đức Chúa Trời. Người ta không thể hầu việc Đức Chúa Trời mà không có sự kết ước tận hiến cả đời sống mình. Sự thật bi đát là nếu thiếu một sự kết ước như vậy, người ta sẽ cứ tiếp tục ở trong vòng ảnh hưởng và sự phục vụ cho các ác bá thuộc linh cũ của mình mà thôi (Sv. Êph. 4:22-24). 5. Động Cơ Của Việc Tận Hiến Sứ Đồ Phao-lô đã thiết tha kêu gọi các độc giả của mình thực hiện việc “dâng thân thể” của mỗi cá nhân “làm của lễ sống và thánh”. Đây là điều bức thiết vì [1] luôn có sự đe dọa của các kẻ thù thuộc linh (1Phi. 5:8), vì [2] tầm quan trọng của công việc Chúa (Êph. 5:27), và vì [3] trách nhiệm làm con dân của Đức Chúa Trời (2Cô. 5:10). Sứ Đồ Phaolô còn viện dẫn đến Ân Điển Thiên Thượng, nhờ đó Đức Chúa Trời đã tha cho chúng ta khỏi án phạt của tội lỗi. Chính vì thế nên chúng ta mắc nợ Đức Chúa Trời mọi sự (2Cô. 5:14-15). II. LÀM GÌ ĐỂ TẬN HIẾN? (Câu 2) Khi chúng ta tận hiến đời sống cá nhân mình cho Chúa, chúng ta bày tỏ sự sẵn lòng tuân thủ theo sự dạy dỗ và đòi hỏi của Ngài (Ma. 11:29b). Hãy để ý hai sự đòi hỏi sau đây: 1. Phải Chấm Dứt Làm Theo Đời Này (Câu 2a) Sự kết ước của chúng ta với Đức Chúa Trời đòi hỏi rằng chúng ta phải chấm dứt làm theo nếp sống tà ác của đời này cùng mọi loại suy nghĩ và thái độ không tin kính. Làm theo đời này là mặc lấy một nếp sống không phù hợp với những gì dân Chúa phải có (Êph. 2:10 >1Phi. 2:9), và không bày tỏ sự giống Chúa, tức là sự sống đời đời (Êph 5:8, 17 > Côl. 3:10). 2. Phải Luôn Luôn Làm Theo Ý Muốn Của Đức Chúa Trời (Câu 2b) “Biến hóa” nói về sự thể hiện ra bên ngoài một thực tại vốn có ở bên trong. Có Chúa Jêsus trong đời sống, chúng ta phải để cho Ngài thể hiện chính Ngài qua thái độ, tính cách và hành vi của chúng ta (Gal. 4:19 > 2:20). Chúng ta làm điều này bằng việc dâng mình cho Ngài mỗi ngày và bằng việc thực hành nếp sống đạo theo Kinh Thánh hầu bày tỏ được Ngài (Rô. 13:12-14 > Êph. 5:17-20 > Côl. 3:1-4 > Ma 5:48). Điều này đòi hỏi chúng ta phải học biết ý Chúa và làm theo một cách hết lòng trong quyền năng của Đức Thánh Linh hầu làm sáng danh Chúa. Đời sống và sự hầu việc Cơ Đốc đòi hỏi phải có sự kết ước của chúng ta với Đức Chúa Trời và ý muốn của Ngài, chẳng phải chỉ khởi sự rồi thôi mà phải duy trì mỗi ngày. Chúng ta cũng phải đầu phục Ngài trở lại mỗi khi chúng ta có sự mắc mướu với sự cám dỗ của các kẻ thù thuộc linh (Gia. 4:7-10). Chỉ duy nhất Chúa Jêsus là có toàn quyền điều khiển chúng ta mà thôi. Đấng đang nâng đỡ muôn vật và tể trị toàn vũ trụ này có thể gánh vác đời sống của chúng ta tốt hơn là tự chúng ta làm lấy. Sự kết ước hàng ngày của chúng ta với Đức Chúa Trời cho phép Đức Chúa Trời ban phước cho chúng ta và sử dụng chúng ta làm nguồn phước cho tha nhân. Xao lãng sự kết ước này sẽ làm cho chúng ta có thể bị tổn hại bởi tay các kẻ thù thuộc linh của chúng ta. III. TÁC DỤNG CỦA VIỆC TẬN HIẾN TRÊN ĐỜI SỐNG CÁ NHÂN (Câu 3) Đời sống tận hiến đem lại cho người tín hữu một bản sắc và bản lĩnh mới. 1 Việc Tận Hiến Giúp Giải Thoát Khỏi Chủ Nghĩa Duy Ngã Tin Lành có tác dụng giải thoát chúng ta ra khỏi chủ nghĩa duy ngã; chúng ta sẽ dần dần không còn dám tự xem là đáng phải được ca ngợi mà chỉ còn biết quan tâm đến việc nhận biết và làm theo ý muốn của Ðức Chúa Trời trên đời sống mình (Gal. 2:20). Đó chính là một “Tâm tình tầm thường, y theo lượng đức tin mà Ðức Chúa Trời đã phú cho từng người”. 2. Việc Tận Hiến Giúp Nhận Thực Được Tự Ngã Bằng việc chú tâm hoàn toàn vào ý chỉ khôn ngoan của Đức Chúa Trời (Câu 2b): “Thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng, và trọn vẹn của Đức Chúa Trời”), một sự tự thức khiêm tốn và tự nhiên (không gượng ép) được hình thành trên đời sống chúng ta. Trên bước đường tăng trưởng đức tin, nhờ ơn Thiên Thượng, mỗi ngày chúng ta sẽ càng thực lòng nhận biết được nhiều hơn những khiếm khuyết của bản thân, chúng ta sẽ giảm dần việc tự đánh giá quá cao về mình, và rồi sẽ thôi không còn có “Tư tưởng cao quá lẽ” nữa. 3. Việc Tận Hiến Giúp Tiếp Nạp Quyền Năng Thiên Thượng Việc tận hiến đời sống cá nhân sẽ đem lại quyền năng cho chúng ta. Tính cá nhân của chúng ta sẽ không còn bị chủ nghĩa tự ngã độc tôn cầm tù khi tấm lòng của chúng ta biết chọn đi theo con đường hạ mình mà Ðức Chúa Jêsus đã nêu gương (Phil. 2:5-8). Ngược lại, các phẩm chất cá nhân cao đẹp của mỗi người (Gal. 5:22-23) sẽ được phát triển theo một chiều kích mới. Tương phản với tinh thần tự tôn, tự đại mà người đời hết sức khát khao và đề cao; tính hạ mình Cơ Ðốc giúp cho Cơ Ðốc Nhân thoát khỏi vô số ràng buộc của thế gian, giũ bỏ được các lề thói cũ, và tiếp nạp cho họ một nhân cách Cơ Đốc với nếp nghĩ, cách làm được định hình, định hướng nhờ Lời Đức Chúa Trời và quyền năng Đức Thánh Linh (2Cô. 5:17). Một khi đời sống cá nhân được tận hiến cho Đức Chúa Trời, Ngài sẽ bởi Đức Thánh Linh mà ban quyền năng Thiên Thượng để trang bị cho họ sống làm đẹp ý Ngài như chính Đức Chúa Jêsus đã làm (Gi. 5:19). Không ồn ào, dữ dội như người thế gian; các Cơ Ðốc Nhân lặng lẽ nhưng mạnh mẽ phi thường trong từng bước đi khiêm hạ của mình trên con đường tận hiến đời sống cá nhân. Nhờ biết xem thân thể mình như đã được dâng lên cho Ðức Chúa Trời trên bàn thờ Ngài, người tín hữu Cơ Ðốc thoát ly được những ràng buộc của các lề thói thế gian để không ngừng được tăng trưởng theo mẫu mực của Đức Chúa Jêsus. Nhờ biết dâng chính “Thân thể mình làm của lễ sống và thánh”, tư duy, ý chí và tình cảm của người tín hữu được ở trong một mối thông công thường xuyên với Ðức Thánh Linh nên không hề thiếu quyền năng để sống đời sống đức tin thực hành. Một đời sống Cơ Ðốc bình dị, thanh tao, đẹp ý Ðức Chúa Trời chỉ có thể đến với người dám vâng lời để “Thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Ðức Chúa Trời là thể nào”. Đời sống của Cơ Đốc Nhân chẳng những là một đồi sống tách ly khỏi sự bất khiết của thế gian mà còn phải là một đời sống tận hiến cho Đức Chúa Trời nữa. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“PHẢI CÓ MỘT ĐỜI SỐNG KẾT ƯỚC” (1Phi. 4:10) “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời.” (1Phi. 4:10) Tháng Ba năm 1981, Tổng thống Hoa Kỳ là Ronald Reagan đã bị Hinclev, Jr. bắn bị thương phải nằm bệnh viện mất mấy tuần. Mặc dầu Tổng Thống Reagan là chuyên gia hàng đầu của cả nước, là Nguyên Thủ Quốc Gia, nhưng việc ông gác công việc lại để nằm điều trị ở bệnh viện chỉ ảnh hưởng rất ít đến toàn bộ công việc của Chính Phủ mà thôi. Tổng Thống vắng mặt, không làm việc được, nhưng Chính Phủ vẫn hoạt động được. Thế nhưng, hãy thử tưởng tượng tất cả những người quét rác của nước Hoa Kỳ đồng loạt đình công một thời gian cũng bằng thời gian Tổng Thống nằm bệnh viện: Việc gì sẽ xảy ra? Chắc chắn cả nước sẽ tràn ngập rác, và sẽ có người chết vì rác! Vậy có ai là người không cần thiết hay không? Đức Chúa Trời không muốn chúng ta làm những thành viên thụ động trong Hội Thánh. Ngài không muốn chúng ta là những con người nhàn cư, vô sự. Đức Chúa Trời đã định rằng mỗi thành viên của Hội Thánh đều là một thành viên hoạt động, tích cực. Ngài trao ban cho mỗi người chúng ta một chức năng trong Hội Thánh của Ngài, không miễn trừ bất cứ một ai. Chức phận đầy tớ thuộc về mọi thành viên trong Hội Thánh, mọi cá nhân trong Hội Thánh đều có một vị trí đặc biệt trong chương trình của Đức Chúa Trời, đều hữu dụng đối với kế hoạch của Ngài trong Hội Thánh: “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời” (1Phi. 4:10). I. KẾT ƯỚC PHẢI LÀ MỘT NHU CẦN “Tôi không có ơn như…”, đó là câu nói chúng ta thường nghe ở các tín hữu khi họ tự đem mình so sánh với người khác trong Hội Thánh. Điều ấy có thể đúng. Thế nhưng chỉ cần đổi khác một chữ thôi, câu nói sẽ thành ra sai hoàn toàn đối với sự dạy dỗ của Kinh Thánh: Đừng bao giờ nói “Tôi không có ơn gì…”. Khi một người thực lòng tiếp nhận Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình, người ấy được Đức Thánh Linh ngự vào đời sống của họ; và vì có Đức Thánh Linh ở cùng, họ có được ít nhất một ân tứ thuộc linh nào đó để làm ích cho chính bản thân họ cũng như cho toàn Hội Thánh. Đây là lời Kinh Thánh phán: “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi người cho ai nấy được sự ích chung” (1Cô. 12:7). Thật ra, vấn đề ở chỗ không phải người ta thiếu ơn mà là thiếu sự kết ước: Kết ước với Đức Chúa Trời và kết ước với tha nhân, trong đó có Hội Thánh của Ngài. Trên thực tế, có nhiều người tự nhận rằng mình đã được cứu, đã thuộc về Đức Chúa Trời nhưng họ vẫn còn thuộc về cái tôi của họ. Tín hữu thật phải là người chấp nhận gian truân để kết ước sống theo ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống mình, dốc lòng làm đẹp ý Ngài trong mọi sự, tin quyết rằng ý chỉ tốt đẹp của Đức Chúa Trời trên đời sống mình nhất định sẽ được hoàn thành. Sự kết ước không những là một đòi hỏi của Đức Chúa Trời mà còn là một nhu cần bức thiết của mỗi tín hữu, vì đó là dấu hiệu cơ bản của đời sống Cơ Đốc Nhân. Nếu hơn hai ngàn năm trước, sự kết ước của Cơ Đốc Nhân đã cần; ngày nay sự kết ước của Cơ Đốc Nhân chúng ta càng cần hơn thế. Trong suốt cả thư tín này (1Phi.), Sứ Đồ Phierơ vừa đặt nền tảng vừa nhấn mạnh nhu cần kết ước của đời sống Cơ Đốc Nhân theo dòng thời gian: “Ngợi khen Đức Chúa Trời, là Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài lấy lòng thương xót cả thể khiến chúng ta lại sanh, đặng chúng ta nhờ sự Đức Chúa Jêsus sống lại từ trong kẻ chết mà có sự trông cậy sống… để được sự cứu rỗi gần hiện ra trong kỳ sau rốt” (1Phi. 1:3, 5); “Anh em vui mừng về điều đó, dầu hiện nay anh em vì sự thử thách trăm bề buộc phải buồn bã ít lâu” (1Phi. 1:6); “Chẳng phải bởi vật hay hư nát như bạc hoặc vàng mà anh em đã được chuộc khỏi sự ăn ở không ra chi của tổ tiên truyền lại cho mình, bèn là bởi huyết báu Đấng Christ, dường như huyết của Chiên Con không lỗi không vít, đã định sẵn trước buổi sáng thế, và hiện ra trong cuối các thời kỳ vì cớ anh em” (1Phi. 1:18-20). Đó là những sự dạy dỗ, khích lệ mang tính chất mạt thế luận (dạy về thời kỳ cuối cùng). Mạt thế luận sẽ vô nghĩa khi Cơ Đốc Nhân chỉ biết trông đợi suông, chỉ “hô khẩu hiệu” chứ không kết ước, không hành động: “Vậy, anh em hãy bền chí như thể thắt lưng, hãy tiết độ, lấy sự trông cậy trọn vẹn đợi chờ ơn sẽ ban cho mình trong khi Đức Chúa Jêsus hiện ra” (1Phi. 1:13); “Hỡi kẻ rất yêu dấu, anh em như người ở trọ, kẻ đi đường, tôi khuyên phải kiêng những điều xác thịt ưa thích, là điều chống trả với linh hồn. Phải ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, hầu cho họ, là kẻ vẫn gièm chê anh em như người gian ác, đã thấy việc lành anh em, thì đến ngày Chúa thăm viếng, họ ngợi khen Đức Chúa Trời” (1Phi. 2:11-12); “Nhưng họ sẽ khai trình với Đấng đã sẵn sàng xét đoán kẻ sống và kẻ chết”. (1Phi. 4:5) Tất cả các sự dạy dỗ mà Sứ Đồ Phierơ đưa ra trong thư này đều nằm trong mối quan hệ với thời kỳ cuối cùng và nhằm kêu gọi phải có hành động thực tế. Đó là một thực tại khách quan. Bất luận muốn hay không, ngày phán xét sẽ đến và đã gần đến rồi, mọi người sẽ phải khai trình mọi việc với Đức Chúa Trời là Đấng Tối Cao. Để sẵn sàng và được ơn trong sự khai trình tương lai, Cơ Đốc Nhân phải có đời sống kết ước mật thiết với Đức Chúa Trời: “7Sự cuối cùng của muôn vật đã gần, vậy hãy khôn ngoan tỉnh thức mà cầu nguyện” (1Phi. 4:7). Trong thế giới ngày nay, có nhiều chủ nghĩa, nhiều học thuyết hô hào xây dựng các mối quan hệ xã hội tốt đẹp. Quan hệ xã hội giữa con người với nhau sẽ không thể thực sự tốt đẹp trong một bản chất tội lỗi, đã bị sa bại, hư hoại. Chỉ khi nào con người được tái sinh nhờ sự tha tội bởi sự ăn năn, sống trong sự nương cậy nơi Đấng Sáng Tạo và yêu thương mình, nhiên hậu, người ta mới có thể có sự kết ước tốt đẹp với tha nhân trong đó có anh em, chị em chung cùng một đức tin trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời: “8Nhứt là trong vòng anh em phải có lòng yêu thương sốt sắng; vì sự yêu thương che đậy vô số tội lỗi. 9Người nầy người khác phải tiếp đãi nhau, chớ có cằn rằn” (1Phi. 4: 8-9). Về cơ bản, tình yêu thương của Cơ Đốc Nhân là tình yêu thương hỗ tương giữa những người đã được cứu, có chung một mái nhà thuộc linh là Hội Thánh - bất chấp quá khứ, địa vị,… của mỗi người: “22Anh em đã vâng theo lẽ thật làm sạch lòng mình, đặng có lòng yêu thương anh em cách thật thà, nên hãy yêu nhau sốt sắng hết lòng; 23Anh em đã được lại sanh, chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hư nát, là bởi lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời” (1Phi. 1:22-23). Biểu hiện cơ bản và tập trung của tinh thần kết ước Cơ Đốc giữa các Cơ Đốc Nhân với nhau là tấm lòng rộng rãi. Các Cơ Đốc Nhân có sự kết ước chân thực luôn biết vui vẻ chia sẻ cơm ăn, áo mặc cùng mọi sự dạy dỗ thuộc linh để giúp làm sống động, tươi mới anh em, chị em mình trong Hội Thánh. Sự “yêu thương sốt sắng hết lòng” ở Cơ Đốc Nhân không cho phép họ viện cớ để từ chối nhau. II. ĐỂ CÓ MỘT SỰ KẾT ƯỚC ĐẸP Ý CHÚA Làm thế nào mà người ta có thể sẵn sàng phục vụ, không tránh né, không từ chối được? Có nhiều yếu tố, nhưng không thể thiếu các yếu tố sau đây: Thứ nhất, biết rằng mình đã được Đức Chúa Trời ban ơn (1Cô. 12:7). Trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời, ai là người được Ngài ban ơn (thuộc thể và thuộc linh)? “Tất cả mọi người”, không thiếu một ai; Thứ hai, biết rằng nhiệm vụ đối với những gì mình hiện có là nhiệm vụ quản lý (1Phi. 4:10). Trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời, ai là người phải lấy trong những gì mình có (thuộc thể và thuộc linh) để chia sẽ với người khác? “Tất cả mọi người”, không miễn trừ một ai. Thứ ba, mục đích cao nhất của các ân tứ và thân năng được Đức Chúa Trời ban cho là để sử dụng cho việc gây dựng Hội Thánh, tôn vinh hiển về Đức Chúa Trời Ba Ngôi. “Tất cả mọi người” đều có thể làm được như thế: “Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen” (1Phi. 4:11). Cái gì làm cho con diều bay được? Cái khung của con diều có thể nói “Nhờ tôi”. Đuôi của con diều cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Giấy bồi thành con diều cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Sợi dây giữ cho con diều bay cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Gió cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Đứa bé cầm sợi dây thả diều cũng có thể nói “Nhờ tôi”… Thật ra, con diều bay được là nhờ tất cả những điều ấy hợp lại với nhau, mỗi điều ấy giữ một vai trò nhất định của mình. Nếu khung diều hỏng, đuôi diều mắc vào cành cây, giấy bồi diều rách, dây thả diều dứt, hay gió ngừng thổi,… nhất định con diều sẽ không còn bay được nữa. Muốn cho công việc Chúa trong Hội Thánh được thành công, từng người chúng ta phải hoàn thành xuất sắc phần công việc của mình. Chúng ta có thể làm chứng, chăm sóc, giảng, dạy,… và vô số việc khác để giúp cho Hội Thánh thành công và phát triển miễn là chúng ta biết hiệp tác với nhau trong tinh thần đồng đội, trong đó Đội Trưởng chính là Đức Chúa Trời: “Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta…” (Rô. 12:6); “Vả, chúng tôi là bạn cùng làm việc với Đức Chúa Trời; anh em là ruộng của Đức Chúa Trời cày, nhà của Đức Chúa Trời xây” (1Cô. 3:9). Khi đến dự một buổi nhóm thờ phượng, phần đông đều trông mong đến giờ giảng luận để nghe diễn giả trình bày về tình yêu thương và ý muốn của Đức Chúa Trời. Trong các ân tứ thuộc linh, ơn giảng luận vẫn thường được trân trọng một cách đặc biệt và vẫn được xem là ân tứ “Số Một”. Thật ra, mỗi người ngay khi bước đến với một buổi nhóm, trước giờ giảng luận của diễn giả khá lâu, đều đã có thể giảng về tình yêu thương và ý muốn của Đức Chúa Trời đối với Hội Thánh của Ngài! Trước khi diễn giả bước lên tòa giảng, mỗi người trong quí vị đều phải giảng, có thể giảng, và đã giảng: Quí vị giảng một sứ điệp bằng lời chào mừng nhau một cách vui vẻ thật thà ngay tại nhà gửi xe! Quí vị giảng một sứ điệp khi vui vẻ đưa tay đón người đến sau ngồi vào chỗ gần với mình chứ không phải chỉ đưa mắt nhìn họ như ngầm bảo “Hãy lại đằng kia mà ngồi đi!” Quí vị giảng một sứ điệp khi hát thánh ca tôn vinh Chúa một cách vui mừng và thiết tha! Quí vị giảng một sứ điệp khi quí vị tỏ ra chăm chú lắng nghe một cách trân trọng những lời làm chứng về ơn phước của Đức Chúa Trời trên đời sống của anh, chị, em mình trong Hội Thánh! Quí vị giảng một sứ điệp khi quí vị nồng nhiệt chào đón khách đến thăm Hội Thánh! Quí vị giảng một sứ điệp khi đi nhóm quí vị có mang theo Kinh Thánh, và quí vị chăm chú tra xem Kinh Thánh khi nghe giảng! Quí vị còn có thể giảng nhiều điều khác đến nỗi không sao kể hết được. Đó chính là những biểu hiện thực hành của những đời sống biết kết ước trong Hội Thánh! Phẩm chất Cơ Đốc một khi được bày tỏ ra một cách thực hành sẽ tác động mạnh mẽ hơn bất cứ điều gì được nói bằng môi miệng. Đối với những ai biết vâng lời Đức Chúa Trời, nhiệt tình sử dụng các ân tứ thuộc linh đã được ban cho, họ không cần phải lo sợ thất bại; vì đây là lời hứa dành cho họ: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phil. 4:13). Tất cả chúng ta đều có ít nhất một sự ban cho nào đó của Đức Chúa Trời để sử dụng vào việc gây dựng Hội Thánh của Ngài. Chúng ta phải có đời sống kết ước với Đức Chúa Trời và với Dân Sự của Ngài. Cơ Đốc Nhân phải là người chấp nhận gian truân để kết ước sống theo ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống mình, dốc lòng làm đẹp ý Ngài trong mọi sự, tin quyết rằng ý chỉ tốt đẹp của Đức Chúa Trời trên đời sống mình nhất định sẽ được hoàn thành. Nếu quí vị cảm thấy những gì đang có trong tay mình sao mà yếu ớt quá; hãy nói chuyện với Samsôn để biết bí quyết nào khiến yếu biến thành mạnh. Nếu quí vị cảm thấy điều mình có trong tay ít quá, không làm sao chia sẻ được; hãy đi hỏi thăm người đàn bà góa đã dâng hai đồng tiền ăn một phần tư xu để được biết phải làm thế nào. Nếu quí vị thấy sao khó buông bỏ những gì hiện có trong tay quá; hãy nói chuyện với Anne để biết nhờ đâu mà bà dám dâng cho Đức Chúa Trời đứa con cầu duy nhất của mình. Nếu người ta chê cười về những gì quí vị hiện có trong tay là tầm thường; hãy nói chuyện với Đavít để nhớ lại bài học về cái trành ném đá đã giết tên khổng lồ Gôliát. Nếu quí vị thấy những gì có trong tay làm cho mình đau quá; hãy thưa với Đức Chúa Jêsus để được xem dấu đinh trên tay của Ngài và được Ngài dùng sự đau đớn mà làm cho trở nên trọn lành! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“PHẢI LÀM THEO LỜI KINH THÁNH” (Gia. 1:22-25) “Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình…” (Gia. 1:22) Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời được khải thị thành văn để bày tỏ ý chỉ và chương trình của Đức Chúa Trời cho nhân loại. Đối với người thực sự kính sợ Đức Chúa Trời, Lời Kinh Thánh có một vai trò không gì có thể thay thế được trong đời sống của họ: “Bàn tay Chúa đã làm tôi và nắn hình tôi_ Xin hãy ban cho tôi trí hiểu, để tôi học điều răn Chúa... _Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi,_Ánh sáng cho đường lối tôi” (Thi. 119:73, 105). Đối với chúng ta cũng vậy, Lời Kinh Thánh và chức phận môn đồ của chúng ta là hai điều không thể tách rời nhau: “31Nếu các ngươi hằng ở trong Đạo Ta, thì thật là môn đồ Ta; 32các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi” (Gi. 8:31-32). Dầu vậy, phải chăng là tất cả mọi người chúng ta đều có cùng một cách nhìn nhận và thực hành đối với Lời Kinh Thánh như chúng ta đáng phải có? I. MỘT THỰC TRẠNG KHÔNG ĐÁNG CÓ “Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình” (Gia. 1:22) Trên thực tế, có rất nhiều người nghe Lời Kinh Thánh nhưng không đủ sức giữ mình cho khỏi bị rơi vào tình trạng “nghe suông”. Họ nghe chỉ để mà nghe, hoặc chỉ vì phải nghe. Có lắm người sau khi buổi nhóm kết thúc, họ chẳng còn biết nghĩ gì hơn là về nhà càng sớm càng tốt. Nhiều người cũng có nghĩ thoáng qua về bài giảng một chút, nhưng ngay sau đó họ liền xóa bỏ chủ đề vừa được giảng dạy ra khỏi tâm trí mình. Thật ra, cũng có một số ít người sau khi nghe giảng xong, họ biểu hiện được sự thích thú đối với những gì đã được nghe. Dầu vậy, ngay đối với những người như thế, sự thỏa lòng cũng chỉ có trong những điều nào họ cảm thấy ưa thích mà thôi. Tuy nhiên, mục đích của việc giảng dạy không phải là để làm vừa lòng người nghe. Mục đích của sự giảng dạy là để cho người nghe được bổ ích, được gây dựng, và được cảm ứng để sống một đời sống công chính, tin kính, phong phú. Sự tôn kính cao nhất mà một người Mục Sư có thể có được không phải bằng việc nói cho họ biết rằng bài giảng của họ được người nghe thích thú như thế nào. Sự tôn quí đích thực mà người Mục Sư có thể có và cần phải có được thể hiện qua việc người nghe được thay đổi đời sống ra sao qua bài giảng. Chúng ta đang sống trong một thế giới có khuynh hướng thực hành, trọng thực dụng. Trong một thế giới như thế, sứ mệnh từ bục giảng cần phải mang tính điều chỉnh, có tác dụng gây dựng. Công việc từ trên bục giảng phải nhằm thăng tiến cho việc hành động theo Lời Kinh Thánh trong đời sống hàng ngày của người tin. Giúp cho các tín hữu nắm bắt được các nguyên tắc Kinh Thánh để sống đời sống đắc thắng là một ưu tiên mà cả các tín hữu lẫn các lãnh đạo Hội Thánh đều phải tôn trọng: “Kẻ nào xét kỹ Luật Pháp trọn vẹn, là Luật Pháp về sự tự do, lại bền lòng suy gẫm lấy, chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó, thì kẻ đó sẽ tìm được phước trong sự mình vâng lời” (Gia. 1:25). Những người chỉ biết nghe suông, hoặc chú ý rất ít đến những gì được nghe, và ngay cả những người nghe nhưng chỉ thấy thích những phần nào đó theo sở thích riêng của mình đều là những người chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa của một đời sống tin kính thực sự. Thật ra, những người như thế là nạn nhân của một sự tự lừa dối tai hại cho rằng “nghe” như thế là đủ để hoàn thành nghĩa vụ Cơ Đốc Nhân của mình. Đối với những người chỉ biết “lấy nghe làm đủ”, sự xưng nhận Cơ Đốc của họ chỉ là một sự trống rỗng. Cho dầu cấu trúc giáo lý của họ có thể rất chính thống, xúc cảm của họ có thể rất Tin Lành, nhưng những điều ấy không bổ ích được gì cho họ cả. Làm sao những điều như thế được xem là bổ ích khi chúng không hề được thực hành, giúp đem lại quyền năng, và thăng tiến được đời sống thánh khiết? Cơ Đốc Nhân là người sống thực hành các nguyên tắc Cơ Đốc của Kinh Thánh. Cơ Đốc Nhân chân chính không thể là một người “lấy nghe làm đủ”. Người “lấy nghe làm đủ” là người “tự lừa dối mình”, là người đang ở trên con đường thoái hóa thuộc linh. II. MỘT BÀI HỌC KHÔNG ĐƯỢC QUÊN “Vậy kẻ nào nghe và làm theo lời Ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan cất nhà mình trên vầng đá” (Ma. 7:24). Sự minh họa tốt nhất cho lẽ thật Kinh Thánh này chính là ẩn dụ nói về người xây nhà khôn ngoan và người xây nhà dại dột mà Đức Chúa Jêsus đã giảng dạy cho các môn đồ Ngài và được trước thuật trong Ma. 7:24-27. Trong đoạn Kinh Thánh ấy, Đức Chúa Jêsus đã chuyển chủ đề từ sự xét đoán đối với người dạy sang sự xét đoán đối với người nghe. Người dạy có trách nhiệm của việc dạy, và người nghe phải chịu trách nhiệm về thái độ nghe của mình. Bài học mà chúng ta có thể đúc kết từ sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus trong ẩn dụ ấy thật phong phú: 1. Sống Là Thực Hiện Một Công Trình Xây Dựng. Xét cho cùng, ai nấy đều xây dựng cho mình một ngôi nhà bằng chính các hoạt động sống của mình. Niềm tin, sự suy nghĩ, lời nói, và việc làm của mỗi người kết nối, tác động qua lại với nhau đan kết lại thành sự bình an hay bất an cho đời sống. Người ta phải sống trong những gì mình tạo ra, đó chính là nơi “cư trú” của mỗi người trong đời này. Có những người chỉ biết làm cho mình những lều, lán sơ sài. Nhưng cũng có những người chịu khó theo đuổi những thiết kế đặc sắc vừa mỹ quan, vừa trường tồn - đó là những người biết làm theo lời phán của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh: “24Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời Ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan cất nhà mình trên vầng đá. 25Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy; song không bị sập, vì đã cất nhà trên đá” (Ma. 7:24-25). Dầu người ta xây gì và xây như thế nào, họ vẫn phải ở vào công trình xây dựng của mình. Hoặc là một nơi cứ trú vững vàng, bình an; hoặc là một cấu trúc mất cân đối sẵn sàng sụp đổ bất cứ lúc nào. Chúng ta không thể nào tránh thoát các hậu quả của những công việc mình đã làm: “26Kẻ nào nghe lời Ta phán đây, mà không làm theo, khác nào người dại cất nhà mình trên đất cát. 27Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy, thì bị sập, hư hại rất nhiều” (Ma. 7:26-27). 2. Sự Bền Vững Của Một Công Trình Xây Dựng Tùy Thuộc Vào Nền Móng. Sự khắc họa của Đức Chúa Jêsus trong ẩn dụ này có tính chất sống động, gần gũi với môi trường sống của Ngài lúc ấy: Naxarét vốn được xây dựng trên các ngọn đồi, có nhiều ngôi nhà nằm chênh vênh trên các sườn núi đá. Tại Ghênêxarét là nơi Ngài đang giảng dạy cũng có một kiểu nền móng xây dựng tương tự. Đối với các công trình xây dựng này, nếu nền móng bị xâm thực theo một cách nào đó thì hiểm họa sụp đổ nhất định phải xảy ra. Hình ảnh về hai hạng người được Đức Chúa Jêsus đưa ra là để cảnh tỉnh chúng ta: “… Người khôn ngoan cất nhà mình trên vầng đá…(Ma. 7:24b) “ Người dại cất nhà mình trên đất cát” (Ma. 7: 26b). Đức Chúa Jêsus muốn cho chúng ta thấy rằng việc tạo cho được một nền móng vững chắc cho niềm tin của mình phải là một việc quan trọng, đáng để chúng ta lưu tâm. Trở thành hạng người nào trong hai hạng người này là do sự chọn lựa của chúng ta. 3. Nền Móng Phải Được Thử Nghiệm. Mới nhìn qua, nhà xây trên nền cát trông cũng “ổn” như nhà xây trên nền đá mà thôi. Thế nhưng vấn đề ở chỗ việc gì sẽ xảy ra khi giông bão ập đến? Ai cũng biết rằng chỉ những nền móng nào thực sự vững chãi, không chứa đựng những yếu tố phá ngầm ở bên trong, công trình đó mới có thể tồn tại lâu dài được. Chỉ có thế biết niềm tin và đời sống Cơ Đốc vững hay không vững trong và sau những tình huống, biến cố mang tính thử thách mà thôi. Hai loại nhà của hai hạng người cũng chính là hai loại niềm tin của hai hạng Cơ Đốc Nhân: “…Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy; song không bị sập…” (Ma. 7:25). “Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy, thì bị sập, hư hại rất nhiều” (Ma. 7:27). 4. Nền Móng Của Đức Tin Là Sự Làm Theo Lời Kinh Thánh. Đức Chúa Jêsus cảnh tỉnh chúng ta về sự xưng nhận niềm tin một cách hời hợt. Đức tin sống động nơi Đức Chúa Jêsus là một đức tin chứng tỏ được rằng nó thực hữu bằng việc tự chứng qua bông trái trong đời sống mình. Hai hạng người “khôn” và “dại” trong ẩn dụ mà Đức Chúa Jêsus dùng để dạy dỗ được qui định bằng việc họ “làm theo” hay “không làm theo”: “Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời Ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan…” (Ma. 7:24a). “Kẻ nào nghe lời Ta phán đây, mà không làm theo, khác nào người dại” (Ma. 7:26a). III. ÁP DỤNG: CON ĐƯỜNG CỦA PHƯỚC HẠNH “Nhưng kẻ nào xét kỹ Luật Pháp trọn vẹn, là Luật Pháp về sự tự do, lại bền lòng suy gẫm lấy, chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó, thì kẻ đó sẽ tìm được phước trong sự mình vâng lời” (Gia. 1:25). Sứ Đồ Giacơ sử dụng một sự minh họa khác nữa để dạy dỗ chúng ta: Lời Kinh Thánh là tấm gương thuộc linh cho chúng ta soi vào, thấy được sự phản chiếu của linh hồn chúng ta, nhận biết thực trạng đời sống đức tin chúng ta để nhờ Ân Điển của Đức Chúa Trời mà sống vâng lời Ngài. Con đường phước hạnh của đời sống Cơ Đốc được Sứ Đồ Giacơ mô tả bằng một số các sự tương phản giữa hai hạng người nghe: 1. Tương Phản Giữa “Thấy” (C. 24) Và “Xét kỹ” (C.25). Người “lấy nghe làm đủ” soi gương nhưng chỉ liếc qua chứ không chú tâm. Đối với hạng người này, việc họ nghe bài giảng chỉ là sự nghe máy móc do âm thanh tác động trên thính giác, họ không nhận được sự phản ánh và yêu cầu của Lời Kinh Thánh đối với đời sống mình. Người “làm theo lời” nghe Lời Kinh Thánh với một động cơ tốt và thái độ nghiêm túc. Họ có lỗ tai thuộc linh, nhận biết được sự phản ánh của Kinh Thánh về tình trạng của mình và phương hướng mà Kinh Thánh muốn mình phải theo. Những người này nghe Lời Kinh Thánh với một tình cảm yêu quí, trân trọng. 2. Tương Phản Giữa “Đi” (C. 24) Với “Suy gẫm” (C. 25). Vì không hề có sự dự định, người “lấy nghe làm đủ” xem bài giảng là tẻ nhạt, họ mong buổi nhóm chóng qua, những gì đã nghe sớm được quên lãng. Người “làm theo lời” có một ý chí khác hẳn: Họ tiếp tục xem xét sự việc cho thấu đáo với một sự thú vị trong lòng. Những gì đã được giảng dạy chiếm một vị trí đặc biệt, không dễ gì bị xóa nhòa. Đối với những người này, Đức Thánh Linh có cơ hội tiếp tục làm việc với họ trên những gì họ đã nghe đến nỗi nhiều khi chứng giải cho họ vượt quá những gì đã được nghe, đem lại cho họ những sự kiến giải vừa sâu sắc vừa mang tính thực hành. 3. Tương Phản Giữa “Quên” (C. 24) Với “Hết Lòng Giữ Theo” (C. 25). Thiếu vắng cả tình cảm lẫn ý chí đối với Lời Kinh Thánh, người “lấy nghe làm đủ” nhanh chóng gạt bỏ những điểm hoen ố, khiếm khuyết trong đời sống mà Kinh Thánh phản ánh cho họ thấy. Thế nhưng người “làm theo lời” biết tiếp tục và thận trọng đối với những gì mà Đức Chúa Trời đã cho con mắt thuộc linh của họ thấy được qua Lời Ngài. Hạng người này nhận biết được rằng phận sự trọn đời của mình là “Xét kỹ Luật Pháp trọn vẹn, là Luật Pháp về sự tự do, lại bền lòng suy gẫm lấy, chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó”. Bởi Ân Điển của Đức Chúa Trời, những người như thế bước đi trên con đường của phước hạnh, họ đạt được cả sự tự thức lẫn sự tự chủ, họ “Tìm được phước trong sự mình vâng lời” (C. 25). “Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình” (C. 22) không phải chỉ là mệnh lệnh của riêng đoạn Kinh Thánh này, đây là mệnh lệnh của cả Kinh Thánh. Bí quyết để có hạnh phúc thật là vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời trong Lời Kinh Thánh. Ngày nay chúng ta được như thế này chính là nhờ Lời Đức Chúa Trời khải thị cho chúng ta qua Kinh Thánh: “Các ngươi đã được trong sạch, vì lời Ta đã bảo cho” (Gi. 15:3). Lời Chúa là dành cho chúng ta nghe; chúng ta nghe Lời Chúa là để nhận lấy cho đời sống mình; và nhận lấy cho đời sống mình một cách trọn nghĩa chính là làm theo những điều Kinh Thánh dạy dỗ: “Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình…Chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó…” (Gia. 1:22, 25) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“PHẢI CHĂM LO CÔNG VIỆC” (Lu. 2:41-52) “… Chúng tôi khuyên anh em… ráng tập ăn ở cho yên lặng, săn sóc việc riêng mình, lấy chính tay mình làm lụng, như chúng tôi đã dặn bảo anh em…” (1Tê. 4:11) Khi tạo dựng nên Ađam và đặt vào vườn Êđen, Đức Chúa Trời cũng đồng thời ban cho con người việc làm (Sáng. 2:15). Dầu vất vả, cực nhọc, sự lao động vẫn có ích cho con người (Truyền. 2:24). Sự lao động mở ra cơ hội cho con người thể hiện năng lực và sự sáng tạo của mình; đem lại cho họ và người nhà họ sự bảo đảm về cuộc sống vật chất cũng như đạt được một số mục tiêu để đóng góp cho sự thịnh vượng chung của đất nước và cho cả nhân loại. Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta phải theo đuổi công việc mưu sinh của mình theo những nguyên tắc Kinh Thánh nào để có thể hoàn thành nghĩa vụ lao động của chúng ta mà vẫn được đẹp ý Đức Chúa Trời? I. PHẢI “LO VIỆC CHA” Sự kiện nổi bật khi Đức Chúa Jêsus lên 12 tuổi được Kinh Thánh trước thuật là việc Ngài bắt đầu tập trung vào việc chăm lo công việc mà Cha Ngài đã giao. Tuy nhiên, lúc bấy giờ chẳng ai hiểu điều ấy cả! “49Ngài thưa rằng: Cha Mẹ kiếm tôi làm chi? Há chẳng biết tôi phải lo việc Cha tôi sao? 50Nhưng hai người không hiểu lời Ngài nói chi hết.” (C. 49-50) Trong đoạn văn chúng ta đang nghiên cứu, Đức Chúa Jêsus được 12 tuổi. Đối với một người Do Thái bình thường, tuổi 12 là tuổi chuyển từ sự dạy dỗ của mẹ sang sự dạy dỗ của cha. Ở tuổi 12, một “bé trai” Do Thái bắt đầu tập làm “đàn ông” trong công việc. Từ tuổi 12, một nam thiếu niên Do Thái phải bắt đầu học một công việc gì đó theo ý muốn của cha mình. Từ tuổi 12, một nam thiếu niên Do Thái cũng phải có phận sự tháp tùng cha mình lên Giêrusalem dự lễ hàng năm. Từ tuổi 12, một nam thiếu niên Do Thái bắt đầu tập áp dụng những gì được mẹ dạy dỗ cho đời sống mình. “41Vả, hằng năm cứ đến ngày Lễ Vượt Qua, Cha Mẹ Đức Chúa Jêsus thường đến thành Giêrusalem. 42Khi Ngài lên mười hai tuổi, theo lệ thường ngày lễ, cùng lên thành Giêrusalem.” (C. 41-42) Công việc của mỗi người đều khác nhau. Nhưng chúng ta sẽ bắt đầu một công việc từ đâu? Trước hết, chúng ta cần được “cho phép”, tức cần phải có được sự chuẩn thuận, để khởi đầu một công việc. Đức Chúa Jêsus đã đến để làm theo ý muốn của Đức Chúa Cha, Ngài có hướng đi và giữ vững hướng đi của mình. Trong khi đó, những người chung quanh đi theo hướng riêng của họ, và đó là lý do khiến có sự lạc điệu trong đời sống, ngay cả giữa một gia đình: “43Các ngày lễ qua rồi, Cha Mẹ trở về, con trẻ là Jêsus ở lại thành Giêrusalem, mà Cha Mẹ không hay chi hết. 44Hai người tưởng rằng Ngài cũng đồng đi với bạn đi đường, đi trót một ngày, rồi mới tìm hỏi trong đám bà con quen biết; 45nhưng không thấy Ngài, bèn trở lại thành Giêrusalem mà tìm.” (C. 43-45) Cũng có khi một công việc được bắt đầu nhờ “thừa hưởng”. Trong việc kinh doanh, chúng ta cũng đã từng biết có những công việc mang cả tên người sáng lập lẫn tên người đương nhiệm, tên của cả cha và con, và đó là những công việc mang dấu ấn của sự kêu gọi và chuyển giao rất rõ nét. Trong cương vị Cơ Đốc Nhân, tức trong gia đình Cơ Đốc, chúng ta cũng được kế thừa “việc Cha” một cách tương tự. Một khi thực sự được ở trong “việc Cha”, người ta thường rất tự nhiên, thành thạo, và tận tụy. Đó chính là trường hợp của Đức Chúa Jêsus năm Ngài lên 12 tuổi: “46Khỏi ba ngày, gặp lại Ngài trong Đền Thờ đang ngồi giữa mấy thầy thông thái, vừa nghe vừa hỏi. 47Ai nấy nghe, đều lạ khen về sự khôn ngoan và lời đối đáp của Ngài.” (C. 46-47) Tận tụy cho “việc Cha” là một điều phải lẽ, đó là một đức hạnh cao quí. Tuy nhiên, nhận thức cho được một người đang ở trong công việc nào không phải là điều dễ dàng! Và, sống trong đời, chúng ta phải đồng thời hoàn thành nhiều “công việc” khác nhau sao cho hài hòa. Đức Chúa Jêsus là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Ngài là Đức Chúa Trời, nhưng để cứu độ nhân loại Ngài đã phải đến thế gian làm người, sống kiếp người, đồng thời làm trọn mọi loại “việc Cha” theo ý chỉ Thiên Thượng: “48Khi Cha Mẹ thấy Ngài, thì lấy làm lạ, và Mẹ hỏi rằng: Hỡi con, sao con làm cho hai ta thể nầy? Nầy, Cha và Mẹ đã khó nhọc lắm mà tìm con… 51Đoạn, Ngài theo về thành Naxarét và chịu lụy Cha Mẹ. Mẹ Ngài ghi các lời ấy vào lòng. 52Đức Chúa Jêsus khôn ngoan càng thêm, thân hình càng lớn, càng được đẹp lòng Đức Chúa Trời và người ta.” (C. 48, 51-52) Đức Chúa Jêsus phán rằng Ngài phải lo việc Cha Ngài. Cha Ngài đã giao cho Ngài việc gì? “Đức Chúa Jêsus phán rằng: Đồ ăn của Ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai Ta đến, và làm trọn công việc Ngài.” (Gi. 4:34) II. PHẢI RÁNG “SĂN SÓC VIỆC RIÊNG” Người ta ăn là để nuôi sống bản thân, đồ ăn đem lại sự sống thuộc thể cho thân thể; trên một phương diện, đồ ăn là sự sống cho thân thể. Đức Chúa Jêsus muốn dạy chúng ta rằng sự sống của chúng ta phải là làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Chúng ta sống là để làm đẹp ý Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, dưới nguyên tắc bao quát này, liệu chúng ta có được Kinh Thánh dạy cho biết một nguyên tắc nào khác về “công việc riêng” của chúng ta hay không? “… Chúng tôi khuyên anh em… ráng tập ăn ở cho yên lặng, săn sóc việc riêng mình, lấy chính tay mình làm lụng, như chúng tôi đã dặn bảo anh em…” (1Tê. 4:11) Lời dạy của Sứ Đồ Phaolô dành cho chúng ta là phải hết sức (“ráng”) chuyên tâm (“săn sóc”) “việc riêng mình”. Tất nhiên “việc riêng mình” có nghĩa chẳng phải là “việc người khác” nhưng nhận thức cho đúng việc gì là “việc riêng mình” là một điều rất quan trọng. Đối với Cơ Đốc Nhân, “việc riêng mình” phải chắc là việc được Đức Chúa Trời chuẩn thuận, và vì vậy, “việc riêng mình” của Cơ Đốc Nhân hoàn toàn khác với “việc riêng” của người chưa được cứu. “Việc riêng mình” của Cơ Đốc Nhân không còn thuần túy là “việc riêng” như ngày xưa khi chưa được cứu. “Việc riêng mình” của Cơ Đốc Nhân phải là bộ phận của “việc Cha” trong đời sống của họ trên đời này vì cả đời sống họ đã trở nên của lễ cho Đức Chúa Trời: “Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em.” (Rô. 12:1) “Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta.” (Côl. 3:23) Chúng ta vốn biết rằng Satan luôn muốn chúng ta bị lôi cuốn vào công việc của nó, nhưng mỗi một chúng ta đều có phận sự phải hoàn thành “việc Cha”. Ác Giả là Satan luôn muốn chúng ta bị vùi lấp trong nhiều việc khác để xao lãng “việc Cha”. Ý muốn của Đức Chúa Trời là chúng ta phải toàn tâm toàn trí cho công việc mà Đức Chúa Trời đã đặt để chúng ta vào để nổ lực phấn đấu trong sự nương cậy nơi Ngài và chỉ duy nhất nơi Ngài. Cơ Đốc Nhân chẳng những có quyền theo đuổi sinh kế mà họ còn phải tận tụy trong công việc Đức Chúa Trời đã cho phép họ hoạt động trong đời này để làm sinh kế nữa: “7Chính anh em biết điều mình phải làm để học đòi chúng tôi; vì chúng tôi không có ăn ở sái bậy giữa anh em, 8chưa từng ăn dưng của ai, nhưng đêm ngày làm lụng khó nhọc, để khỏi lụy một người nào trong anh em hết. 9Chẳng phải chúng tôi không có quyền lợi được ăn dưng, nhưng muốn làm gương cho anh em, để anh em bắt chước. 10Khi chúng tôi ở cùng anh em, cũng đã rao bảo cho anh em rằng: Nếu ai không khứng làm việc, thì cũng không nên ăn nữa . 11Vả, chúng tôi nghe trong anh em có kẻ ăn ở bậy bạ, chẳng hề làm lụng, trở chăm những sự vô ích thôi. 12Chúng tôi nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ, bảo và khuyên những kẻ đó phải yên lặng mà làm việc, hầu cho ăn bánh của mình làm ra.” (2Tê. 3:7-12) Kinh Thánh dạy Cơ Đốc Nhân phải sống chăm chỉ, lương thiện, trung tín, và hào phóng với mọi người… “Hãy siêng năng mà chớ làm biếng; phải có lòng sốt sắng; phải hầu việc Chúa.” (Rô. 12:11) “Tôi từng bày bảo luôn cho anh em rằng phải chịu khó làm việc như vậy, để giúp đỡ người yếu đuối, và nhớ lại lời chính Đức Chúa Jêsus có phán rằng: Ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh.” (Công. 20:35) “Kẻ vốn hay trộm cắp chớ trộm cắp nữa; nhưng thà chịu khó, chính tay mình làm nghề lương thiện, đặng có vật chi giúp cho kẻ thiếu thốn thì hơn.” (Êph. 4:28) “9Hãy khuyên những tôi tớ phải vâng phục chủ mình, phải làm cho đẹp lòng chủ trong mọi việc, chớ cãi trả, 10chớ ăn cắp vật chi, nhưng phải hằng tỏ lòng trung thành trọn vẹn, để làm cho tôn quí Đạo Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta, trong mọi đường.” (Tít 2:9-10) III. “NHƯNG TRƯỚC HẾT, HÃY TÌM KIẾM NƯỚC ĐỨC CÚA TRỜI” Nguyên tắc Kinh Thánh cho thấy rằng Cơ Đốc Nhân “phải lo việc Cha” nhưng đồng thời cũng phải ráng “săn sóc việc riêng” của nhà mình để mưu cầu sinh kế, chẳng những cho bản thân mà cũng còn cho cả gia đình. Vậy, nguyên tắc Kinh Thánh nào giúp cho Cơ Đốc Nhân giữ được quân bình giữa hai lĩnh vực hoạt động này? Trước hết, chúng ta cần nhắc lại nguyên tắc làm ích, nguyên tắc tự do, nguyên tắc gây dựng, và nguyên tắc vinh hiển: “Mọi sự tôi có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều có ích; mọi sự tôi có phép làm, nhưng chẳng để sự gì bắt phục được tôi.” (1Cô. 6:12) “Mọi sự đều có phép làm nhưng chẳng phải mọi sự đều có ích; mọi sự đều có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đếu làm gương tốt.” (1Cô. 10:23) “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm.” (1Cô. 10:31) Satan không bao chịu giờ ngồi yên để chúng ta làm trọn những điều Đức Chúa Trời kỳ vọng nơi chúng ta. Satan vừa không muốn chúng ta được làm ích, vừa không muốn chúng ta được tự do, cũng chẳng muốn anh chị em trong Chúa của chúng ta được gây dựng, và luôn luôn tìm cách làm cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời bị tổn hại. Vả lại, tự thân chúng ta cũng không có đủ khả năng làm được những điều chúng ta muốn (Gal. 5:17) vì chúng ta hoàn toàn bất lực trong thân xác này (Rô. 7:14). Chúng ta luôn đứng trước nguy cơ bị cám dỗ, không những chỉ bởi Satan mà còn bởi tư dục và thế gian nữa, và đó là điều Đức Chúa Trời muốn chúng ta không bị mắc mướu (1Gi. 2:15-17). Nguyên tắc bao quát mà chúng ta phải theo là cứ giữ vững địa vị công nghĩa mà mình đã được lập, sống vững vàng đời sống công nghĩa thực hành, bền đỗ trong tiến trình nên thánh: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Ma. 6:33) Trong các nhân vật Kinh Thánh, thành công trên phương diện mưu sinh không ai bằng được Gióp; cũng chẳng ai phải chịu tổn thất lớn như Gióp; và cũng ít ai kinh nghiệm Chúa được sâu sắc như Gióp: “Ngài chẳng xây mặt khỏi người công bình;_Song Ngài khiến họ đồng ngồi cùng các vua trên ngôi mãi mãi,_Và họ được cao trọng.” (Gióp 36:7) Chính nhờ có được một sự kinh nghiệm sâu đậm như thế mà Gióp đã có thể mạnh mẽ xác quyết: “Dẫu Chúa giết ta, ta cũng còn nhờ cậy nơi Ngài;_Nhưng ta sẽ binh vực tánh hạnh ta trước mặt Ngài.” (Gióp 13:15) Thái độ của Gióp cũng chính là thái độ mà Đức Chúa Trời muốn mỗi chúng ta phải có trước mọi thành bại trong những công việc mà chúng ta đã được chứng giải là “việc Cha”, cho dầu đó là công việc trong lĩnh vực mưu sinh, “việc riêng mình”! Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD
“NOI THEO DẤU CHÂN CHÚA JESUS” (1Phi. 2:21-25) “Anh em được kêu gọi đến sự đó, vì Đấng Christ cũng đã chịu khổ cho anh em, để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em noi dấu chân Ngài.” (1Phi. 2:21) “Dấu chân” là một điều không được quen thuộc cho lắm đối với đời sống ở thành phố, nhất là một thành phố lớn như nơi chúng ta đang sống! Muốn hiểu được tầm quan trọng của “dấu chân”, người ta phải đi trên chân của mình trong một cuộc thám hiểm mà lòng họ khát khao; trên một miền đất xa lạ hoàn toàn không có một phương tiện đáng tin cậy nào khác ngoài dấu chân để lại trên đất của người dẫn đường; trong những tình huống mà những sự nguy hiểm luôn rình rập, chỉ cần một sơ xuất nhỏ cũng có thể dẫn đến nguy hiểm chết người… Khi nào phải lái xe theo một người dẫn đường để đến một địa điểm nào đó ở một khu phố lạ với những con đường phức tạp, rất đông người qua lại; bỗng nhiên bị kẹt lại ở phía sau, không còn nhìn thấy biển số xe của người dẫn đường được nữa; rơi vào tình trạng hoang mang không biết nên đi theo con đường nào… Khi ấy sẽ hiểu được ý nghĩa của “dấu chân”! Trên bước đường theo Chúa, “dấu chân Ngài” là một điều cực kỳ quan trọng: “Anh em được kêu gọi đến sự đó, vì Đấng Christ cũng đã chịu khổ cho anh em, để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em noi dấu chân Ngài” (C. 21). CÓ MỘT CON ĐƯỜNG PHẢI ĐI “Anh em đã được kêu gọi đến sự đó…”, đây là lời Sứ Đồ Phierơ viết ra theo sự dạy dỗ của Đức Thánh Linh. Trong mạch văn của sự dạy dỗ này, có ít nhất hai điều đã được đề cập trong phần trước: (1) Trách nhiệm bản thân, và (2) Phận sự xã hôi. Đời sống mới trong Đức Chúa Jêsus của một người thật sự tin nhận Ngài là một cuộc đổi đời vì một người như thế vốn đã được tái sanh “chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hư nát, là bời Lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời” (1Phi. 1:23). “Đời mới” của Cơ Đốc Nhân không thể được duy trì mà thiếu linh lương là Lời Kinh Thánh: “1Vậy anh em đã từ bỏ mọi điều độc ác, mọi điều gian giảo, mọi thứ giả trá, lòng ghen ghét và sự nói hành, 2thì hãy ham thích sữa thiêng liêng của Đạo, như trẻ con mới đẻ vậy, hầu cho anh em nhờ đó lớn lên mà được rỗi linh hồn” (1Phi. 2:1-2). Đời sống mới trong Đức Chúa Jêsus của một người thật sự tin nhận Ngài là một đời sống đầy bông trái thuộc linh, tỏa ra những hương vị ngọt ngào phản ánh các mỹ đức của Đấng Tối Cao đã cứu chuộc, yêu thương, và dắt dẫn họ từ trong nếp nghĩ cho đến lời nói, việc làm: “Anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài” (1Phi. 2:9). Trách nhiệm cá nhân và phận sự xã hội của Cơ Đốc Nhân quyện vào nhau, thể hiện ra trong đời sống của họ thành một thể thống nhất. Sự vị kỷ trong đời sống Cơ Đốc Nhân phải được khống chế, để rồi sự vị tha được thể hiện ra theo đủ các chiều kích phải có của nó: “11Hỡi anh em rất yêu dấu, anh em như người ở trọ, kẻ đi đường, tôi khuyên phải kiêng những điều xác thịt ưa thích, là điều chống trả với linh hồn. 12Phải ăn ở ngay lành giữa Dân Ngoại, hầu cho họ, là kẻ vẫn gièm chê anh em như người gian ác, đã thấy việc lành anh em, thì đến ngày Chúa thăm viếng, họ ngợi khen Đức Chúa Trời” (1Phi. 2:11-12). Đời sống Cơ Đốc là đời sống vâng phục. Chẳng phải chỉ có vâng phục Đức Chúa Trời, Cơ Đốc Nhân còn phải vâng phục trật tự xã hội mà Đức Chúa Trời đã thiết lập: “13Vì Cớ Chúa, hãy phục theo mọi phép tắc loài người lập lên, hoặc vua, như đấng rất cao, 14hoặc các quan, như người vua sai ra để phạt kẻ làm dữ và khen người làm lành… 17Hãy kính mọi người; yêu anh em; kính sợ Đức Chúa Trời; tôn trọng vua” (1Phi. 2:13-14, 17). Đức vâng phục của Cơ Đốc Nhân được phản ánh ngay cả trong quan hệ sản xuất của xã hội: “18Hỡi kẻ làm tôi tớ, hãy lấy lòng rất kính sợ mà phục theo chủ mình, chẳng những phục người chủ hiền lành mà thôi, lại phải phục người chủ khó tánh nữa. 19Vì nhân cớ lương tâm đối với Đức Chúa Trời, mà chịu khốn nạn trong khi bị oan ức, ấy là một ơn phước. 20Vả, mình làm điều ác, bị đánh mà hay nhịn chịu, thì có đáng khoe gì? Nhưng nếu anh em làm lành mà nhịn chịu sự khốn khó, ấy là một ơn phước trước mặt Đức Chúa Trời” (1Phi. 2:18-20). CÓ MỘT CON ĐƯỜNG CHÚA ĐÃ ĐI Nếu Đức Chúa Jêsus chỉ là một vị thầy lỗi lạc cũng như bao vĩ nhân khác trong thế gian này; nếu Ngài cũng chỉ có thể đưa ra những lời kêu gọi suông chứ không có gì khác hơn thì chúng ta, những người tin theo Ngài, cũng sẽ chẳng được gì hơn là những lời giáo huấn cao thượng bất khả thi. Điều khác biệt giữa Cơ Đốc Giáo với các tôn giáo khác là quyền năng Thiên Thượng. Sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus không phải chỉ là những lời lý thuyết suông, chính Ngài đã nêu gương cho những người tin Ngài thực hành theo: “Đấng Christ cũng đã chịu khổ cho anh em, để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em noi dấu chân Ngài…” (1Phi. 2:21). “Gương” (Gk. Hupogrammos) được đề cập ở đây là một từ liệu Hylạp nói về một khuôn mẫu cho người khác dựa vào đó để làm theo giống như một người tập viết đồ theo nét chữ của thầy mình viết ra . Những gì Đức Chúa Jêsus kêu gọi chúng ta làm, Ngài đều đã làm mẫu cho chúng ta: “22Ngài chưa hề phạm tội, trong miệng Ngài không thấy có chút chi dối trá; 23Ngài bị rủa mà chẳng rủa lại, chịu nạn mà không hề ngăm dọa, nhưng cứ phó mình cho Đấng xử đoán công bình” (1Phi. 21-23). Sống đời sống Cơ Đốc là sống trong quyền năng của Đức Chúa Trời bởi Đức Chúa Jêsus. Để sống được đời sống Cơ Đốc, người ta phải tiếp nhận sự sống Cơ Đốc trước: “Ngài gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ, hầu cho chúng ta là kẻ đã chết về tội lỗi, được sống cho sự công bình; lại nhân những lằn đòn của Ngài mà anh em được lành bịnh” (1Phi. 2:24). Đức Chúa Jêsus không những chỉ ra cho chúng ta chân lý mà chính Ngài là chân lý và là con đường đem chúng ta đến chân lý: “Vậy, Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha” (Gi. 14:6). Đức Chúa Jêsus không phải chỉ dạy suông cho chúng ta những điều cao thượng mà Ngài ban cho chúng ta linh năng để sống sự sống Thiên Thượng ngay trong đời thường: “Hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài” (Gi. 1:12). CÓ MỘT CON ĐƯỜNG ĐẸP Ý CHÚA Con đường Đức Chúa Jêsus đã đi là con đường sống đẹp ý Cha Ngài. Đức Chúa Jêsus sống để làm đẹp ý Đức Chúa Cha và rồi lưu lại cho chúng ta một mẫu mực, đồng thời cũng ban luôn cho chúng ta năng lực, để chúng ta noi theo. Mẫu mực ấy là mẫu mực về đức tin. Dấu chân của Đức Chúa Jêsus là dấu chân về đức tin. Dấu chân Ngài không phải chỉ toàn bằng những bước đi hanh thông giữa tiếng tung hô ngưỡng mộ. Dấu chân Đức Chúa Jêsus đã từng đi lắm khi phải chịu cả sự hằn học của đám đông cuồng nộ! Dấu chân Đức Chúa Jêsus đã từng đi gồm luôn cả những bước đi khó nhọc dưới sự hại hành của kẻ thù Ngài và sức nặng của thập tự giá Ngài trên đồi Gôgôtha, và đó là những bước chân rướm máu đức tin! Dầu vậy, “Anh em được kêu gọi đến sự đó, vì Đấng Christ cũng đã chịu khổ cho anh em, để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em noi dấu chân Ngài”. “Sự đó” là gì? Ấy chính là đức tin vâng phục. Con đường đẹp ý Chúa là con đường vâng phục trong đức tin. Chúng ta đã được kêu gọi tin cậy gì ở Đức Chúa Trời? Sự kêu gọi của Đức Chúa Trời có quyền năng ra sao trong việc thay đổi lối sống của chúng ta? Điều gì khiến chúng ta vững tin rằng sự kêu gọi của Đức Chúa Trời cũng đồng thời ban quyền năng cho đời sống chúng ta được thay đổi? Điều được biểu lộ trước hết trong dấu chân Đức Chúa Jêsus là đức tin của Ngài về sự tể trị của Đức Chúa Trời. Hãy xem lại lời dạy trong 1Phi. 2:13-17. Đây là những lời dạy dỗ các tín hữu về cách ăn ở đối với chính quyền. Đừng quên rằng những lời này không phải viết cho những tín hữu đang được sống dưới sự cai trị anh minh của các bậc minh quân. Những lời này viết để hướng dẫn cho các tín hữu đang chịu sự kềm kẹp trong nanh vuốt của hoàng đế Nero. Trong lịch sứ nhân loại, khó có thể tìm ra được một người nào khác có cách đối đãi tàn tệ với Cơ Đốc Nhân hơn người này! Có tài liệu cho biết rằng Nero có sở thích lái chiến xa chạy quanh thành Rôma vào ban đêm. Để có ánh sáng cho trò chơi của mình, Nero ra lệnh cho thủ hạ tìm bắt những người tin theo Đức Chúa Jêsus, buộc họ vào những cây cột dọc hai bên đường, tẩm dầu trên người họ rồi đốt lên làm đèn đường soi sáng cho Nero tiêu khiển mỗi đêm! Dầu vậy, ý chỉ của Đức Chúa Trời đối với các con cái của Ngài vẫn cứ là “Vì Cớ Chúa, hãy phục theo mọi phép tắc loài người lập lên…”. Trong 1Phi. 2:13, 15, 16, 17; mỗi câu đều có ít nhất một tổ hợp từ độc đáo để nêu cho biết lý do vì sao phải làm theo các sự dạy dỗ ấy: : “Vì cớ Chúa” (C. 13), “ Để ngăn miệng những kẻ ngu muội, dại dột” (C. 15), “Ấy là ý muốn của Đức Chúa Trời” (C. 15), “Là tôi mọi Đức Chúa Trời” (C. 16), “Kính sợ Đức Chúa Trời” (C. 17). Lẽ thật căn bản của tất cả những điều này là gì? Đó chính là sự dạy dỗ về sự tể trị tối cao của Đức Chúa Trời. Dầu gian ác đến độ cùng cực như hoàng đế Nero, điều ấy vẫn ở dưới sự tể trị của Đức Chúa Trời: “Mọi người phải vâng pục các Đấng cầm quyền ở trên mình; vì chẳng có quyền nào mà không đến bởi Đức Chúa Trời, các quyền đều bởi Đức Chúa Trời chỉ định” (Rô. 13:1). Đức Chúa Trời còn đòi hỏi chúng ta đức tin về sự công nghĩa của Ngài: “Hỡi kẻ làm tôi tớ, hãy lấy lòng rất kính sợ mà phục theo chủ mình, chẳng những phục người chủ hiền lành mà thôi, lại phải phục người chủ khó tánh nữa” (1Phi. 2:18). Không thể tưởng tượng được còn có hoàn cảnh nào khó khăn hơn thế! “Khó tánh” (Gk. skolios) được nói đến ở đây là một từ liệu Hylạp có nghĩa là “quái ác”, “quá quắc”, “khắc nghiệt”,… Nói chung là tất cả những gì “ác ôn’ nhất mà người ta có thể nghĩ ra được đều là “skolios”! Điều Đức Thánh Linh muốn dạy dỗ chúng ta qua ngòi viết của Sứ Đồ Phierơ ở đây là cho dầu trong một hoàn cảnh mà sự bất công là điều mặc nhiên và thường xuyên thì hoàn cảnh ấy vẫn thuộc trong sự tể trị của Đức Chúa Trời. Đừng hiểu lầm rằng Kinh Thánh ủng hộ cho chế độ nô lệ. Mặc dầu sứ điệp Kinh Thánh là sứ điệp giải phóng cho thoát khỏi sự cầm buộc của mọi loại chủ nô gian ác, Lời Kinh Thánh muốn người ta có đức tin nơi một Đức Chúa Trời chẳng những của sự tể trị mà còn là của sự công nghĩa. Lẽ thật căn bản ở đây là chính Đức Chúa Trời sẽ thi hành sự công nghĩa của Ngài, còn phận sự của những người theo Ngài là phải có một đức tin vâng phục – tất nhiên là trong giới hạn không khiến cho vi phạm các sự dạy dỗ của Ngài vì “Thà phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta” (Công. 5:29). Đức tin nơi sự công nghĩa của Đức Chúa Trời giúp người tín hữu sống vâng phục. Đời sống vâng phục của người tín hữu vừa là bằng chứng của quyền năng Đức Chúa Trời, vừa là yếu tố để quyền năng của Ngài hiển thị và đắc thắng. Sứ Đồ Phaolô làm chứng về điều ấy như sau: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phil. 4:13). “Tôi vì Đấng Christ mà đành chịu trong sự yếu đuối, nhuốc nhơ, túng ngặt, bắt bớ, khốn khó; vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ” (2Cô. 12:10). Noi theo dấu chân Đức Chúa Jêsus là noi theo đức tin của Ngài, và đức tin trong Đức Chúa Jêsus là đức tin cứu chuộc: “Vì anh em vốn giống như con chiên lạc, mà bây giờ đã trở về cùng Đấng Chăn Chiên và Giám Mục của linh hồn mình” (1Phi. 2:25). Đức Chúa Jêsus không phải chỉ dạy suông cho chúng ta những điều cao thượng mà Ngài ban cho chúng ta linh năng để sống sự sống Thiên Thượng ngay trong đời thường. Trước khi đòi hỏi chúng ta thực hiện các tiêu chuẩn Thiên Đàng Ngài chuộc chúng ta ra khỏi Địa Ngục, ấn chứng cho chúng ta bằng chính Thánh Linh của Ngài, ban quyền năng cho chúng ta noi theo dấu chân của Ngài cho đến cuối cùng: “13Ấy lại cũng trong Ngài mà anh em sau khi nghe Đạo chân thật, là Đạo Tin Lành về sự cứu rỗi anh em, ấy là trong Ngài mà anh em đã tin và được ấn chứng bằng Đức Thánh Linh là Đấng Chúa đã hứa, 14Đấng ấy làm của cầm về cơ nghiệp chúng ta, cho đến kỳ chuộc lấy những kẻ mà Ngài đã được để ngợi khen sự vinh hiển Ngài” (Êph. 4:13-14). Những ai thành tâm và trung tín trong việc theo Chúa đều phải nhận lấy sự đòi hỏi “Noi Theo Dấu Chân Đức Chúa Jêsus”. Dấu chân của Đức Chúa Jêsus là dấu chân của đức tin nơi quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời, đức tin nơi sự công nghĩa tuyệt đối của Đức Chúa Trời, và đức tin nơi quyền năng cứu chuộc đời đời của Đức Chúa Trời. Dầu rằng khi noi theo dấu chân Đức Chúa Jêsus, người tín hữu có lúc phải đi những bước lao đao trải qua những chặng đường gian truân, nhưng Ngài đã ban cho họ Đức Thánh Linh để khỏi lạc mất dấu chân Ngài. Chính Đức Chúa Jêsus, bởi Thánh Linh của Ngài, sẽ dắt dẫn các con cái vâng phục của Ngài đến bến bờ vinh hiển! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“NHỮNG KẺ ĐÓI KHÁT SỰ CÔNG BÌNH” (Ma. 5:6) “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình, vì sẽ được no đủ.” (Ma. 5:6) Trên một chừng mực nhất định, các thủ thuật quảng cáo của ngành thương nghiệp hiện đại có thể nhắc chúng ta về các bài học thuộc linh của Đức Chúa Jêsus. Ngành quảng cáo hiện nay chi tiêu tiền tỷ để bắt chúng ta phải ghi nhớ các khẩu hiệu và hình ảnh họ muốn. Người ta chi tiêu rất nhiều tiền cho việc ấy vì họ hiểu rõ giá trị của việc họ làm: Việc họ làm nhất định sẽ có tác dụng cao. Các nhà quảng cáo chuyên nghiệp biết rằng họ có thể chèn vào tâm trí chúng ta những gì họ muốn để tạo ảnh hưởng trên sự chọn lựa của chúng ta. Các nhà khoa học về quảng cáo gọi tiền bỏ ra để quảng cáo là tiền để “mọc rễ” trong đầu người khác: Sự quảng cáo có khoa học không nài ép người khác mua sản phẩm của họ ngay lập tức, nhưng nhất định các nổ lực quảng cáo sẽ chi phối sự quyết định sẽ có trong tương lai của các khách hàng tiềm năng. Các nhà nghiên cứu về quảng cáo hiện đại tỏ ra đã nắm bắt được tinh túy trong nghệ thuật giảng dạy của Đức Chúa Jêsus từ hơn hai mươi thế kỷ trước: Đức Chúa Jêsus luôn sử dụng hình ảnh đi kèm với khái niệm để tạo ấn tượng mạnh cho người nghe hầu họ nhận thức được sự dạy dỗ của Ngài: “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình, vì sẽ được no đủ.” (Ma. 5:6) “Đói” và “khát” là những kinh nghiệm hết sức quen thuộc đối với mọi cơ thể sống, đối với tất cả mọi người. Một khi lâm vòng đói, khát người ta sẽ cố gắng hết sức mình để thỏa mãn cho được. Liệu chúng ta, về nguyên tắc là Cơ Đốc Nhân, chúng ta có dốc lòng “đói khát” về sự công bình theo như Đức Chúa Trời muốn hay không? I. ĐỐI TƯỢNG Về bản chất, “Sự Công Bình” luôn luôn đòi hỏi phải có “Đức Chúa Trời”. Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất công bình, sự công bình đúng nghĩa duy nhất thuộc về Ngài, vì “Sự Công Bình” là một trong các thuộc tính của Ngài: “Hỡi Đức Giêhôva, Ngài là công bình_Sự đoán xét của Ngài là ngay thẳng.” (Thi. 119:137) “Bấy giờ, các kẻ làm đầu của Ysơraên và vua đều hạ mình xuống, mà nói rằng: Đức Giêhôva là công bình.” (2Sử. 12:6) “Pharaôn bèn truyền đòi Môise và Arôn mà phán rằng: Đức Giêhôva là công bình; trẫm và dân sự trẫm là kẻ phạm tội.” (Xuất. 9:27) Sự công bình tuyệt đối chỉ hiện diện trong Vương Quốc Đức Chúa Trời, ở đó người ta chẳng những hưởng được sự công bình mà còn được tận hưởng mọi điều tốt đẹp từ nơi Ngài: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Ma. 6:33) Như vậy, “Đói khát sự công bình” chính là “đói khát” về Đức Chúa Trời. Người “đói khát” về Đức Chúa Trời là người “có lòng khó khăn” (Ma. 5:3), là người biết mình vốn đã bị phá sản trên phương diện thuộc linh, bị cầm tù trong thân phận tội nhân. Một khi người ta “có lòng khó khăn”, họ sẽ “than khóc” (Ma. 5:4) về hiện trạng của mình. Sự quặn thắt thuộc linh giúp họ đến được với Đức Chúa Trời để nhận sự cứu rỗi trong Đức Chúa Jêsus, được xưng công bình, và sẽ được “yên ủi” bằng sự cứu chuộc trọn vẹn của Ngài. Chỉ những người đã thực sự nhận được sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus mới có thể là người “nhu mì” (Ma. 5:5): Họ thuận phục thẩm quyền của Đức Chúa Trời chứ không cậy sức riêng của mình. Đức Chúa Trời hứa sẽ ban cho những người như thế được cùng cai trị thế gian này với Ngài, họ sẽ là chủ nhân đời đời của thế giới. Ngược lại, những ai đang tranh đoạt thế giới này bằng năng lực con người chỉ có thể chiếm dụng tạm thời mà thôi. Một khi người ta chịu thuận phục Đức Chúa Trời, họ sẽ có niềm khát khao về chính Ngài (Ma. 5:6). Thật ra, người ta không thể nào có thể có một sự “đói khát” về Đức Chúa Trời nếu họ chưa biết mình bị băng hoại về thuộc linh, có lòng ăn năn về tội lỗi, nhận được sự tha tội và ý chí thuận phục thẩm quyền của Đức Chúa Trời trên đời sống của mình. II. YÊU CẦU “Phước” và “sự vui sướng” hoàn toàn khác nhau. Thật ra, những ai được “phước” cũng đồng thời là người có được sự vui sướng vô ngần; nhưng “phước” không thể bị giảm hạ xuống chỉ còn là “sự vui sướng” mà thôi. Theo sự bày tỏ của Kinh Thánh, chẳng những loài người được Đức Chúa Trời ban phước mà họ cũng còn có thể “chúc phước” Đức Chúa Trời nữa. Được ban phước, về căn bản, có nghĩa là được chuẩn thuận. Khi một người “được phước”, có nghĩa là người ấy được Đức Chúa Trời chuẩn nhận, và điều ấy luôn luôn là một sự hạ cố của Đức Chúa Trời đối với loài người. Ngược lại, hành động “chúc phước” của con người đối với Đức Chúa Trời luôn luôn là một sự tán dương đối với Ngài để bày tỏ lòng hoan nghênh, biết ơn, hưởng ứng,… đối với Ngài. Con người “chúc phước” Đức Chúa Trời qua việc tán tụng, ngợi khen Ngài. Vì Đức Chúa Trời là Đấng Chủ Tể của cả vũ trụ, không còn có phước nào lớn hơn là được Ngài hạ cố chuẩn nhận. “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình” là một lời dạy dỗ nhằm mời gọi chúng ta tìm kiếm sự chuẩn nhận của Đấng có giá trị tuyệt đối và đời đời. Điều gì quan trọng hơn, đáng khát khao, tìm kiếm hơn giữa hai điều này: (1) Được sự chuẩn nhận của gia đình, bạn bè, cấp trên,… hay (2) được sự chuẩn nhận của Đức Chúa Trời? Đối với các Cơ Đốc Nhân có lòng khát khao sống để làm đẹp ý Đức Chúa Trời, lời dạy dỗ này không những là một sự mời gọi mà còn là một sự khích lệ lớn lao đối với họ nữa. Khi một môn đồ của Đức Chúa Trời “đói khát sự công bình”, điều ấy không có nghĩa là họ muốn được công bình “nhiều hơn”. Sự công bình là sự công bình, theo tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời, không thể có một sự công bình khiếm khuyết hay què quặt được. “Đói khát sự công bình” là tấm lòng của Cơ Đốc Nhân biết khát khao được mật thiết hơn trong sự hiểu biết và mối tương giao với Đức Chúa Trời như người khát cần nước uống, người đói cần thức ăn. “Đói khát” (Gk. peinao) nói về hành vi muốn được có một cách đầy trọn để đáp ứng cho nhu cần sống hàng ngày. Người “đói khát sự công bình” là người muốn có Đức Chúa Trời một cách hoàn toàn, không thiếu sót bất cứ một phần nào hay một phương diện nào cả: “7Nhưng vì cớ Đấng Christ, tôi đã coi sự lời cho tôi như là sự lỗ vậy. 8Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ 9và được ở trong Ngài, được sự công bình, không phải sự công bình của tôi bởi Luật Pháp mà đến, bèn là bởi tin đến Đấng Christ mà được, tức là công bình đến bởi Đức Chúa Trời và đã lập lên trên đức tin; 10cho đến nỗi tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài, 11mong cho tôi được đến sự sống lại từ trong kẻ chết.” (Phil. 3:7-10) Kinh Thánh đề cập về sự công bình của Đức Chúa Trời trên ba phương diện: (1) Sự công nghĩa địa vị, (2) sự công nghĩa thực hành, và (3) sự công nghĩa xã hội. Khi một người nhận thức được thân phận tội nhân của mình và ăn năn, người ấy bèn dâng mình trở lại cho Đức Chúa Trời qua và trong Đức Chúa Jêsus. Một người như thế sẽ từ chỗ bị phân cách với Đức Chúa Trời trở nên con cái của Ngài. Một người như thế sẽ được tái lập vào trong mối quan hệ công chính với Đức Chúa Trời nhờ công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus, được đặt vào địa vị công nghĩa theo sự chuẩn nhận của Đức Chúa Trời, người ấy sẽ nhận được sự công nghĩa địa vị: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài.” (Gi. 1:12) Sự công nghĩa thực hành nói về việc Cơ Đốc Nhân phải sống đời sống trong sạch, thánh khiết thích hiệp với địa vị công nghĩa mà họ đã được Đức Chúa Trời chuẩn nhận. Đó là một đời sống đã được giải thoát khỏi sức mạnh của tội lỗi. Người thực tâm “đói khát sự công bình” có niềm khát khao được giải thoát khỏi đời sống vị kỷ, được ban quyền năng để sống vị tha như Đức Chúa Jêsus. Người thực tâm “đói khát sự công bình” khát khao có được năng lực vâng lời Đức Chúa Trời luôn luôn và lớn lên không ngừng trong đức tin. Người thực tâm “đói khát sự công bình” khát khao từ bỏ được ngày càng nhiều hơn các vi phạm đối với ý muốn của Đức Chúa Trời, vì họ “đói khát” Ngài, muốn sống vâng lời Ngài… Sự công nghĩa xã hội nói về ý chỉ và tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời cần phải được thực thi trong đời sống xã hội. Ý muốn của Đức Chúa Trời là xã hội phải công bằng và bác ái. Kinh Thánh dạy mọi người trong xã hội phải sống hòa thuận và bình đẳng với nhau (hòa bình). Mọi Cơ Đốc Nhân chân chính đều phải tích cực hành động để các tiêu chuẩn xã hội thể hiện được ý chỉ của Đức Chúa Trời là Đấng mà họ “đói khát”. “Đói khát sự công bình” tức là “đói khát” chính Đức Chúa Trời. Đây là dấu hiệu độc đáo của Cơ Đốc Giáo. Trong tất cả các tôn giáo trên thế gian này, mỗi tôn giáo đều có trọng tâm riêng của mình. Trọng tâm của Phật Giáo là Đức Phật. Trọng tâm của Hồi Giáo là Mohammed. Trọng tâm của Ấn Giáo là Krishna. Và, trọng tâm của Cơ Đốc Giáo là Đức Chúa Jêsus. Tuy nhiên, nếu hỏi tín đồ của các tôn giáo phi Cơ Đốc về sự cứu rỗi của họ, họ sẽ trả lời bằng cách chỉ ra một lối sống nào đó. Tín đồ Phật Giáo sẽ không chỉ Đức Phật là sự cứu rỗi của họ mà là Phật Pháp (Tứ Diệu Đề, Bát Chính Đạo,…), tín đồ Hồi Giáo sẽ không chỉ Mohammed là sự cứu rỗi của họ mà là Kinh Koran, tín đồ Ấn Giáo sẽ không chỉ Krishna là sự cứu rỗi của họ mà là Kinh Bhagavad-gita. Ngược hẳn lại với các tôn giáo phi Cơ Đốc, Đức Chúa Jêsus tự khải thị Ngài là Chân Lý. Đức Chúa Jêsus không chỉ đường cho nhân loại đến với sự cứu rỗi mà Ngài cung ứng cho nhân loại chính tự thân Ngài là sự cứu rỗi: “Ta là Đường Đi, Lẽ Thật, và Sự Sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha.” (Gi. 14:6) Người ta không thể nào có được sự công bình đích thực mà chưa có được chính hiện thân của sự công bình là Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus. Phải tiếp nhận Ngài làm Chúa và Cứu Chúa của mình, nhiên hậu người ta mới được xưng công nghĩa địa vị, được ban cho hoài bão và năng lực sống đời sống công nghĩa thực hành và dấn thân cho sự công nghĩa xã hội. III. KẾT QUẢ Đức Chúa Jêsus bày tỏ rằng người “đói khát sự công bình” “sẽ được no đủ”. Từ liệu Hylạp được dùng ở đây là chortazo, một từ liệu nói về sự thỏa lòng do được đáp ứng mọi nhu cần. “Đói khát sự công bình” chính là đói khát sự nhận biết, thông hiểu trọn vẹn về Đức Chúa Trời để sống theo đó mỗi ngày, đạt được sự chuẩn nhận của Ngài, lấy đó làm sự “no đủ” cho đời sống mình; ngoài ra, không còn cần bất cứ điều gì khác hơn, và cũng chẳng còn điều gì khác hơn để mà cần (Ma. 6:33). Từ liệu “được no đủ” được dùng theo cách thụ động, hàm ý rằng đây không phải là điều mà người ta có thể tự làm nên được. “Được no đủ” là một việc đến bởi Đức Chúa Trời, việc này chỉ xảy ra một cách giới hạn cho những ai “đói khát” Ngài trong và qua Đức Chúa Jêsus. Theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, loài người không bao giờ tự thỏa mãn mình được, họ không nên theo đuổi tư dục mình mà phải “đói khát sự công bình” là biết khát khao chính Ngài. Một khi người ta biết đổi lòng để theo đuổi Cứu Chúa, họ không còn cần gì hơn vì mọi sự đều gồm đủ trong Ngài: “Tạ ơn Đức Chúa Trời vì sự ban cho của Ngài không xiết kể.” (2Cô. 9:15) Từ liệu “đói khát” được viết ở thì hiện tại, điều ấy diễn đạt một nhu cần hiện thời, một hành vi đang được tiến hành. Khi người ta đói khát về thuộc thể, để có thể sống khỏe mạnh, sự đói khát ấy phải được thỏa mãn. Tương tự như vậy, việc thỏa mãn được sự đói khát thuộc linh sẽ giúp cho Cơ Đốc Nhân tăng trưởng. Người thực lòng “đói khát” Đức Chúa Trời biết tìm kiếm Ngài qua Lời Kinh Thánh: "Hãy ham thích sữa thiêng liêng của Đạo, như trẻ con mới đẻ vậy, hầu cho anh em nhờ đó lớn lên mà được rỗi linh hồn." (1Phi. 2:2) Trên phương diện thực tế và thực hành, có nhiều mức độ “đói khát sự công bình” khác nhau giữa vòng các Cơ Đốc Nhân. Một người có thể thấy cần Đức Chúa Trời, tin Đức Chúa Trời nhưng chủ yếu họ vẫn dựa vào sức riêng của mình. Đây mới chỉ là loại người “có lòng khó khăn” mà thôi! Một mức độ cao hơn là người ta thấy cần Ngài cho đời sống mình: Đây chính là loại Cơ Đốc Nhân biết “than khóc”! Cơ Đốc Nhân biết “than khóc” có thể sẽ trở thành “kẻ nhu mì” là những Cơ Đốc Nhân có tinh thần vâng phục, có đời sống kết ước, và sự kết ước của họ có bông trái; nhưng cũng có thể họ chỉ dừng lại ở đó: Đôi khi họ thấy mình bất lực, cần có Chúa, nhưng thường thường Chúa đối với họ chỉ giống như một hình thức trang điểm của đời sống. Chỉ khi nào người ta thấy mình không thể nào sống thiếu Đức Chúa Trời được, khi ấy người ta mới thực sự “đói khát sự công bình”! Đường ngắn nhất giữa hai điểm là một đường thẳng. Đường ngắn nhất để đến với sự no đủ trên mọi phương diện là đến với Đức Chúa Trời, vì trong Ngài có đủ mọi sự: “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình, vì sẽ được no đủ.” (Ma. 5:6) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“NGỌT NGÀO TỪ NHỮNG ĐẮNG CAY TRONG ĐỜI” (Xuất. 15:22-27) “Ta là Đức Giêhôva, Đấng chữa bịnh cho ngươi.” (Xuất. 15:26) Cuộc đời đầy dẫy những nỗi đắng cay, nếu để bị chôn vùi trong cay đắng, thế giới không sao có được các vĩ nhân như Franklin D. Roosevelt, Helen Keller, Winston Churchill, Albert Schweitzer, Clara Barton, Gandhi, Einstein, Freud,… Sự khảo sát về các nhân vật nổi tiếng trên một số lĩnh vực khác nhau cho chúng ta tìm được những điều rất đáng chú ý: (1) 75% trong số họ có một thời niên thiếu lận đận do gia cảnh nghèo thiếu, tan vỡ, bị ruồng bỏ, bị ngược đãi,… (2) Trong số 85 nhà văn viết tiểu thuyết và kịch bản nổi tiếng nhất, có 74 vị đã từng phải chịu đựng những căng thẳng tâm lý trong gia đình thuở thiếu thời. (3) Có khoảng 25% những người tài giỏi nhất mắc một (hoặc vài) khiếm khuyết thể hình nào đó. Trong những điều đắng cay mà Đức Chúa Trời cho phép xảy ra trên đời sống của chúng ta luôn luôn có triển vọng của sự ngọt ngào thắm đượm hương vị Thiên Đàng dành cho những đời sống vâng lời. Một đời sống vâng lời phải biết chọn cho mình thái độ tốt để có được giải pháp tốt và triển vọng tốt theo ý chỉ Thiên Thượng. I. THÁI ĐỘ TỐT Khi Môise dắt dẫn Dân Sự ra khỏi Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ, tiến vào đồng vắng Surơ, đoàn dân đông đã bị lâm vào cảnh khát nước nghiêm trọng. Thay vì phải dừng lại, cầu nguyện để xin Đức Chúa Trời ban cho một giải pháp, họ lại lấy sức riêng để tự tìm kiếm cách giải quyết cho mình. Kết quả thật đáng buồn: Họ tìm được nước tại Mara (Hb. Marah: đắng), nhưng nước đắng quá uống không được! “22Đoạn, Môise đem dân Ysơraên đi khỏi Biển Đỏ, đến nơi đồng vắng Surơ; trọn ba ngày đi trong đồng vắng, kiếm chẳng được nước đâu cả. 23Kế đến đất Mara, nhưng vì nước tại đó đắng, uống chẳng được, nên chi chỗ nầy gọi là Mara.” (Cc. 22-23). Một ngày kia, khi Naômi đang ngụ cư trên đất Môáp, nghe nói rằng xứ mình đã thoát khỏi nạn đói, bèn quyết định trở về lại quê hương (Ru. 1:6). Đến Bếtlêhem, ai nấy nghe tin Naômi đã trở về cũng đều đến chúc mừng. Tủi thân vì cả chồng cùng hai người con trai đều đã bỏ mình ở Môáp trong nạn đói; Naômi bảo mọi người hãy gọi mình là Mara, nghĩa là cay đắng, vì phận mình chỉ trải qua toàn những nỗi đắng cay (Ru. 1:20). Naômi đã bị những nỗi đắng cay trong đời làm cho cay đắng, chỉ thấy Đức Chúa Trời là đáng trách. Phản ứng tự nhiên của chúng ta trước những điều bất như ý luôn luôn là than oán: “24Dân Sự bèn oán trách Môise: Chúng tôi lấy chi uống?” (C. 24) Đó cũng là phản ứng của vợ Gióp khi Gióp đột nhiên mất tất cả những gì ông đã có: Chẳng những mất hết bò, lừa, chiên, lạc đà, tôi trai, tớ gái mà bảy người con của Gióp cũng mất! Vợ Gióp trở nên hết sức cay đắng, bà bảo Gióp “Hãy phỉ báng Đức Chúa Trời và chết đi” (Gióp 2:9). Trong suy nghĩ nông cạn của vợ Gióp chỉ còn một nỗi tuyệt vọng, và giải pháp tốt nhất là thôi đừng nương cậy Chúa nữa. Thế nhưng, Gióp đã tỏ ra là một mẫu mực vâng phục Chúa, ông bảo vợ: “Ngươi nói như một người đàn bà ngu muội. Ủa sao! Sự phước mà tay Đức Chúa Trời ban cho chúng ta, chúng ta lãnh lấy, còn sự tai họa mà tay Ngài giáng trên chúng ta, lại chẳng lãnh lấy sao?” (Gióp 2:10) Nguyện vọng của Dân Sự khi thiếu nước uống cũng tương tự, họ đòi hỏi Môise phải đưa ra cho được một giải pháp theo ý muốn của họ ngay lập tức. Dân Sự kêu ca (Hb. Luwn: kêu ca) nhưng Môise đã biết cầu xin. Dân Sự phàn nàn Môise, nhưng sức ép từ hai triệu con người đã không khiến Môise làm theo họ là “phàn nàn” Đức Chúa Trời. Môise đã biết van xin Ngài ban cho một giải pháp (Hb. Tsa’aq: kêu khóc): “25aMôise kêu van Đức Chúa Trời …” (C. 25) “Lằm bằm” không bao giờ là một thái độ tốt, “lằm bằm” sẽ không đem lại được một giải pháp tốt, và vì vậy mà sẽ không thể có triển vọng tốt được: “Lại cũng chớ lằm bằm như mấy người trong họ đã lằm bằm mà bị chết bởi kẻ hủy diệt” (1Cô. 10:10). Đức Chúa Trời dạy chúng ta trong tất cả mọi việc đừng bao giờ lằm bằm (Gk. gogguzo) hay tranh cãi thì chúng ta mới có thể trở nên trong sạch, không có điều chi chê trách được: “14Phàm làm việc gì chớ nên lằm bằm và lưỡng lự. 15Hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian.” (Phil. 2:14-15) Các tín hữu của Đức Chúa Trời, tức những người được Chúa chọn để sử dụng, là những người phải biết nhờ cậy sự dắt dẫn, sự cung cấp, và sự điều chỉnh của Ngài. II. GIẢI PHÁP TỐT Việc Đức Chúa Trời đưa chúng vào những tình thế bất bình thường không phải là một việc lạ. Lắm khi chúng ta phải đối đầu với những chuyện rắc rối, thậm chí rắc rối một cách “vô lý” - cả thể xác lẫn tinh thần. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời có mục đích theo ý tốt của Ngài: “Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định.” (Rô. 8:28) Đức Chúa Trời có quyền làm bất cứ gì Ngài muốn trên đời sống của chúng ta theo ý tốt của Ngài. Đôi khi, Đức Chúa Trời cho phép các điều kiện của chúng ta bị sa sút để chúng ta biết nhờ cậy Ngài làm cho tình huống trở nên tốt hơn. Thay vì cầu xin Chúa ban cho một giải pháp, dân Ysơraên đã phiền trách cay đắng đối với Môise. Đức Chúa Trời không bao giờ đẹp ý với những ai đòi hỏi một giải pháp theo ý riêng. Bằng một cách nhân từ, Đức Chúa Trời đã ban cho Môise một giải pháp cho tình huống: “25bNgài bèn chỉ cho người một cây gỗ, người lấy liệng xuống nước, nước bèn hóa ngọt. Ấy tại đó, Đức Giêhôva định luật lệ cùng lập pháp độ cho Dân Sự, và tại đó Ngài thử họ.” (C. 25b) Đây là sự vận động của một phép lạ từ Đức Chúa Trời. Cách viết trong Tiếng Hêbơrơ của từ liệu này cho thấy rằng cây được nói đến ở đây có tố chất đắng, như vậy càng làm rõ hơn tính siêu nhiên của phép lạ. Yếu tố này không nên bỏ qua: Tục ngữ Việt Nam có câu “Thuốc đắng giã tật”. Sự áp dụng thuộc linh ở đây là “Phải biết hòa tan cay đắng trong những điều đắng cay để không còn cay đắng!”. Đấng Mêsia thống khổ chịu thương khó trên cây gỗ thống khổ đem lại sự giải cứu ngọt ngào cho toàn thể nhân loại… Tội nhân đắm chìm trong đắng cay của tội lỗi nếu biết ăn năn một cách cay đắng về tội lỗi mình, bằng lòng tiếp nhận công trình đền tội thay đầy đắng cay của Đức Chúa Jêsus sẽ nhận được ân điển dồi dào… Cơ Đốc Nhân chỉ thực sự được bình an, thanh thản khi biết hòa tan cay đắng riêng của mình vào nỗi đắng cay lớn mà Đức Chúa Jêsus Christ đã phải chịu cho họ: “1Thế thì, vì chúng ta được nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây rất lớn, chúng ta cũng nên quăng hết gánh nặng và tội lỗi dễ vấn vương ta, lấy lòng nhịn nhục theo đòi cuộc chạy đua đã bày ra cho ta, 2nhìn xem Đức Chúa Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin, tức là Đấng vì sự vui mừng đã đặt trước mặt mình, chịu lấy thập tự giá, khinh điều sỉ nhục, và hiện nay ngồi bên hữu ngai Đức Chúa Trời. 3Vậy, anh em hãy nghĩ đến Đấng đã chịu sự đối nghịch của kẻ tội lỗi dường ấy, hầu cho khỏi bị mỏi mệt sờn lòng.” (Hê. 12:1-3) Đức Chúa Trời sử dụng những thời điểm gieo neo để thử lòng trung tín của chúng ta. Chúng ta phải biết để cho Đức Chúa Trời làm cho chúng ta trở nên tốt đẹp hơn chứ đừng để tình huống đè bẹp chúng ta. Chúng ta dễ bị ngã lòng vì chúng ta thường sống trong sự nhận thức sai. Chúng ta tưởng rằng vì mình đã được cứu, đã thuộc về Hội Thánh nên mọi sự phải ngọt ngào, êm thuận, thú vị luôn luôn! Chúng ta hầu như quên mất ý nghĩa đích thực của sự bình an trong Đức Chúa Jêsus là gì: “Ta đã bảo cho các ngươi những điều đó, hầu cho các ngươi có lòng bình yên trong Ta. Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, Ta đã thắng thế gian rồi!” (Gi. 16:33) Chúng ta phải từ bỏ thái độ than phiền để có thể cảm tạ Đức Chúa Trời. Chúng ta sẽ không thể nào cảm tạ nếu chúng ta không nhớ đến những gì Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta. Chúng ta không thể nào không cảm tạ nếu còn nhớ được rằng chúng ta đã được cứu thoát khỏi sự hư mất đời đời; đã được giải thoát khỏi nanh vuốt của các kẻ cựu thù là thế gian, xác thịt và Ma Quỉ; đã được gọi vào chức phận cao trọng là làm con cái và tôi tớ của Đức Chúa Trời… “1Tôi nhịn nhục trông đợi Đức Giêhôva,_Ngài nghiêng qua nghe tiếng kêu cầu của tôi._2Ngài cũng đem tôi lên khỏi hầm gớm ghê,_Khỏi vũng bùn lấm;_Ngài đặt chân tôi trên hòn đá,_Và làm cho bước tôi vững bền._3Ngài để nơi miệng tôi một bài hát mới,_Tức là sự ngợi khen Đức Chúa Trời chúng tôi._Lắm người sẽ thấy điều đó, bắt sợ,_Và nhờ cậy nơi Đức Giêhôva.” (Thi. 40:1-3) III. TRIỂN VỌNG TỐT Đức Chúa Trời không thể nào thăng tiến được cho những con người không tỏ ra vâng lời trong mọi tình huống . Đức Chúa Trời có quyền khiến cho những việc dịu dàng nhất trở nên chát chúa để tập cho chúng ta biết nương cậy Chúa trong mọi điều: “26Ngài phán rằng: Nếu ngươi chăm chỉ nghe lời Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, làm sự ngay thẳng trước mặt Ngài, lắng tai nghe các điều răn và giữ mọi luật lệ Ngài, thì Ta chẳng giáng cho ngươi một trong các bịnh nào mà Ta đã giáng cho xứ Êdíptô; vì Ta là Đức Giêhôva, Đấng chữa bịnh cho ngươi.” (C. 26) Khi Đức Chúa Trời cho phép chúng ta đối diện với “nước đắng”, hãy cảm tạ Chúa vì như thế có nghĩa là “nước ngọt” đang chờ đâu đó ở phía trước: “27Đoạn, Dân Sự đến đất Êlim; nơi đó có mười hai suối nước, và bảy mươi cây chà là; Dân Sự đóng trại tại đó, gần bên suối nước.” (C. 27) Để hưởng được phước hạnh Êlim (Hb. Eylim: cây lớn), tức tìm được bóng mát trong sa mạc, chúng ta phải có thái độ đúng như Môise. Chính Môise đã làm được điều mà cả Dân Sự quên lãng: Cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin giải pháp của Ngài: “Hãy trao gánh nặng ngươi cho Đức Giêhôva; Ngài sẽ nâng đỡ ngươi;_Ngài sẽ chẳng hề cho người công bình bị rúng động.” (Thi. 55:22) Đức Chúa Trời sẽ nâng đỡ, an ủi và chu cấp cho các tín hữu của Ngài những điều thực sự có cần cho họ: “Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em.” (1Phi. 5:7) Đức Chúa Trời phán rằng “Ta là Đức Giêhôva, Đấng chữa bịnh cho ngươi” (C. 26), chúng ta phải luôn luôn biết mời Chúa làm Đấng Chữa Lành cho mọi nỗi đau xót tinh thần và thể xác của chúng ta. Điều tốt nhất sẽ đến với những linh hồn nào biết tin và tìm giải pháp trong Đức Chúa Jêsus và các lời hứa của Ngài: “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời.” (Phil. 4:6) Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta có sứ mệnh phải chiết xuất được hương vị ngọt ngào từ những đắng cay trong đời. Chúng ta chỉ có thể hoàn thành được sứ mệnh ấy với một đức tin kiên định: “17Vì dầu cây vả sẽ không nứt lộc nữa,_Và sẽ không có trái trên những cây nho;_Cây ôlive không sanh sản,_Và chẳng còn ruộng nào sanh ra đồ ăn;_Bầy chiên sẽ bị dứt khỏi ràn,_Và không có bầy bò trong chuồng nữa. 18Dầu vậy, tôi sẽ vui mừng trong Đức Giêhôva,_Tôi sẽ hớn hở trong Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi tôi.” (Ha. 3:17-18) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |