“BÀY TỎ CÁCH HỢP THỨC” (Côl. 3:15-17) “15Nguyền xin sự bình an của Đấng Christ cai trị trong lòng anh em, là bình an mà anh em đã được gọi đến đặng hiệp nên một thể; lại phải biết ơn.1 6Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời. 17Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Jêsus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha” (Côl. 3:15-17) I. KINH THÁNH “15Nguyền xin sự bình an của Đấng Christ cai trị trong lòng anh em, là bình an mà anh em đã được gọi đến đặng hiệp nên một thể; lại phải biết ơn.16Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời. 17Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Jêsus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha” (Côl. 3:15-17) II. GIẢI NGHĨA 1. Đời sống thờ phượng hiệp nghi là đời sống bình an. Đức Chúa Trời muốn đời sống Cơ Đốc Nhân phải được thấm nhuần trong sự an tịnh của Ngài (C. 15). (1) Dấu hiệu bao quát: “cai trị” - Gr. βραβεύω [brabeuo] > “điều khiển”, “làm vua, làm chúa” “Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó” (Rô. 6:12) (2) Yếu tố bao quát: “hiệp một” - Gr. σῶμα [soma] > “thân thể” (3) Cảm thức bao quát: “biết ơn” - Gr. εὐχάριστος [eucharistos] > “hiểu biết và nhìn nhận ơn Chúa” 2. Đời sống thờ phượng hiệp nghi là đời sống khôn ngoan. Đó là đời sống được điều khiển bằng các nguyên tắc Kinh Thánh (C. 16). (1) Chất liệu cho đời sống: “lời của Đấng Christ” - Gr. λόγος ὁ Χριστός [logos ho Christos] > “lời phán của Đấng Christ” (2) Sản phẩm của đời sống: “dạy”, “khuyên”, và “chúc tụng” - Gr. διδάσκω [didasko] > “hướng dẫn” - Gr. νουθετέω [noutheteo] > “thúc giục” - Gr. ᾄδω [ado] > “chúc tụng” + Gr. ψαλμός [psalmos] > “Thi Thiên” + Gr. ὕμνος [humnos] > “Thánh Ca” + Gr. ᾠδή πνευματικός [ode pneumatikos] > “Ca Khúc Thuộc Linh” 3. Đời sống thờ phượng hiệp nghi là đời sống tri ân. Tấm lòng của Cơ Đốc Nhân phải luôn chan chứa sự tri ân đối với Đức Chúa Trời (C. 17). (1) Hành vi thể hiện: “nói hay làm” - Gr. ποιέω [poieo] > “tạo ra” + Gr. λόγος [logos] > “lời lẽ” + Gr. ἔργον [ergon] > “công việc” (2) Bản lãnh thể hiện: “nhân danh Đức Chúa Jêsus” - Gr. ὄνομα [onoma] > “thân thế và sự nghiệp” (3) Ý thức thể hiện: “tạ ơn” - Gr. εὐχαριστέω [eucharisteo] > “bày tỏ lòng tri ân” III. ÁP DỤNG 1. Phải quyết chí giữ mình trong sự bình an của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ! “Nguyền xin sự bình an của Đấng Christ cai trị trong lòng anh em, là bình an mà anh em đã được gọi đến đặng hiệp nên một thể; lại phải biết ơn” (Côl. 3:15) 2. Phải nuôi mình trong ý thức tìm kiếm và vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ! “Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời” (Côl. 3:16) 3. Phải đầy lòng tri ân Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ! “Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Jêsus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha” (Côl. 3:17) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“BÀY TỎ CÁCH CHUẨN MỰC” (1Cô. 14:32-33; Sv. 14:26-33) “ 32Tâm thần của các đấng tiên tri suy phục các đấng tiên tri. 33Vả, Đức Chúa Trời chẳng phải là Chúa sự loạn lạc, bèn là Chúa sự hòa bình” (1Cô. 14:32-33; Sv. 14:26-33) I. KINH THÁNH “ 32Tâm thần của các đấng tiên tri suy phục các đấng tiên tri. 33Vả, Đức Chúa Trời chẳng phải là Chúa sự loạn lạc, bèn là Chúa sự hòa bình” (1Cô. 14:32-33; Sv. 14:26-33) II. GIẢI NGHĨA 1. Sự chuẩn mực là thiên định… (1) Sự chuẩn mực là một yêu cầu của mọi sự khải thị trong và qua Kinh Thánh (Sv. 1Cô. 1:1-3) (2) Sự chuẩn mực là một yêu cầu của mọi mệnh lệnh trong và qua Hội Thánh (Sv. 1Cô. 4:17; 7:17) (3) Sự chuẩn mực là một yêu cầu đối với mọi Cơ Đốc Nhân (Sv. 1Cô. 11:16; 14:36) 2. Chuẩn mực cho đời sống thờ phượng là sự suy phục… (1Cô. 14:32) (1) “tâm thần”: Gr. πνεῦμα [pneuma] > “linh, năng lực tương giao với Đức Chúa Trời” (2) “suy phục”: Gr. ὑποτάσσω [hupotasso] > “ở dưới, thuộc dưới sự điều khiển” (3) “đấng tiên tri”: Gr. προφήτης [prophetes] > “người phát ngôn của Đức Chúa Trời” 3. Chuẩn mực cho đời sống thờ phượng là sự trật tự… (1Cô. 14:33a) (1) “sự loạn lạc”: Gr. ἀκαταστασία [akatastasia] > “sự lộn lạo” (2) Sự rối loạn luôn là đặc trưng gắn liền với sự sa bại và điều ác! (Sv. Sáng. 11:1-9; Gal. 1:6-8; Gia. 3:16) “Thôi! Chúng Ta hãy xuống, làm lộn xộn tiếng nói của chúng nó, cho họ nghe không được tiếng nói của người nầy với người kia” (Sáng. 11:7; Sv. 1-9) “Thật chẳng phải có tin lành khác, nhưng có mấy kẻ làm rối trí anh em, và muốn đánh đổ Tin Lành của Đấng Christ” (Gal. 1:7; Sv. 1:6-8) “Vì ở đâu có những điều ghen tương tranh cạnh ấy, thì ở đó có sự lộn lạo và đủ mọi thứ ác” (Gia. 3:16) 4. Chuẩn mực cho đời sống thờ phượng là sự an tịnh… (1Cô. 14:33b) (1) “sự hòa bình”: Gr. εἰρήνη [eirene] > “sự an tịnh” (2) Sự an tịnh là một mỹ đức xuất phát từ Đức Chúa Trời! “Cầu xin Đức Giêhôva đoái xem ngươi và ban bình an cho ngươi!” (Dân. 6:26) III. ÁP DỤNG 1. Phải có sự suy phục Đức Chúa Trời mới đạt được chuẩn mực thờ phượng Ngài! “Tâm thần của các đấng tiên tri suy phục các đấng tiên tri” (1Cô. 14:32) 2. Không bao giờ có sự hiện của Đức Chúa Trời trong sự rối loạn hay hỗn loạn! “Vả, Đức Chúa Trời chẳng phải là Chúa sự loạn lạc, bèn là Chúa sự hòa bình” (1Cô. 14:33) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“BÀY TỎ CÁCH HIỆP NHẤT” (1Ti. 2:1-7) “1Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, 2cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn. 3Ấy là một sự lành và đẹp mắt Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta, 4Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật. 5Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, là Người; 6Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. Ấy là lời chứng đã làm đúng kỳ 7(ta nói thật, không nói dối), vì lời chứng ấy, ta đã được cử làm Thầy Giảng, làm Sứ Đồ và Giáo Sư cho Dân Ngoại, để dạy họ về đức tin và về lẽ thật” (1Ti. 2:1-7) I. KINH THÁNH “1Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, 2cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn. 3Ấy là một sự lành và đẹp mắt Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta, 4Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật. 5Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, là Người; 6Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. Ấy là lời chứng đã làm đúng kỳ 7(ta nói thật, không nói dối), vì lời chứng ấy, ta đã được cử làm Thầy Giảng, làm Sứ Đồ và Giáo Sư cho Dân Ngoại, để dạy họ về đức tin và về lẽ thật” (1Ti. 2:1-7) II. GIẢI NGHĨA 1. Theo thánh ý của Đức Chúa Trời, sự cầu nguyện là hình thức bày tỏ tập trung nhất (Sv. C. 1-3). (1) “trước hết”: Gr. πρῶτον [proton] > “chính yếu”, “nguyên tắc chính” (2) “khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn”… - “khẩn nguyện”: Gr. δέησις [deesis] > “nguyện vọng thiết tha” - “cầu xin”: Gr. προσευχή [proseuche] > “sự cầu nguyện”, “sự bày tỏ đối với Đức Chúa Trời” - “kêu van”: Gr. ἔντευξις [enteuxis] > “sự cầu thay” - “tạ ơn”: Gr. εὐχαριστία [eucharistia] > “việc bày tỏ lòng biết ơn” (3) “cho mọi người”: Gr. πᾶς [pas] > “từng người” (4) “sự lành”: Gr. ἀπόδεκτος [apodektos] > “đẹp ý Đức Chúa Trời” “16Hãy vui mừng mãi mãi, 17cầu nguyện không thôi, 18phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy” (1Tê. 5:16-18) 2. Theo thánh ý của Đức Chúa Trời, mọi sự bày tỏ đều phải được qui chiếu vào sự cứu rỗi và lẽ thật của Ngài trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ (Sv. C. 4-5). (1) “được cứu rỗi”: Gr. σώζω [sozo] > “được giải thoát khỏi sự ô tội và án tội” (2) “hiểu biết lẽ thật”: Gr. ἐπίγνωσις ἀλήθεια [epignosis aletheia] > “hiểu biết về qui chuẩn của Đức Chúa Trời” (3) “Đấng Trung Bảo”: Gr. μεσίτης [mesites] > “người trung gian” “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Công. 4:12) 3. Về sự bày tỏ hiệp nhất, tất cả vấn đề đều ở đức tin và lẽ thật (Sv. C. 6-7) (1) “đức tin”: Gr. πίστις [pistis] > “sự hiểu biết, tin quyết, và kỳ vọng” (2) “lẽ thật”: Gr. ἀλήθεια [aletheia] > “qui chuẩn của Đức Chúa Trời” “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài” (Hê. 11:6) “4Chỉ có một thân thể, một Thánh Linh, như anh em bởi chức phận mình đã được gọi đến một sự trông cậy mà thôi; 5chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép báptêm; 6chỉ có một Đức Chúa Trời và một Cha của mọi người, Ngài là trên cả mọi người, giữa mọi người và ở trong mọi người” (Êph. 4:4-6) III. ÁP DỤNG 1. Chỉ có sự cầu nguyện bởi đức tin và theo lẽ thật mới là sự bày tỏ hiệp nhất và duy nhất đẹp ý Đức Chúa Trời! “1Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, 2cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn. 3Ấy là một sự lành và đẹp mắt Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta” (1Ti. 2:1-4) 2. Lẽ thật chứ không phải là chuyện huyễn! “Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật” (1Ti. 2:4) 3. Đức tin chứ không phải là kinh nghiệm! “6Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. Ấy là lời chứng đã làm đúng kỳ 7(ta nói thật, không nói dối), vì lời chứng ấy, ta đã được cử làm Thầy Giảng, làm Sứ Đồ và Giáo Sư cho Dân Ngoại, để dạy họ về đức tin và về lẽ thật” (1Ti. 2:6-7) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“BÀY TỎ CÁCH CHÂN THỰC” (1Sa. 16:7; Sv. 1Sa. 16:1-13) “Nhưng Đức Giêhôva phán cùng Samuên rằng: Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó, vì Ta đã bỏ nó. Đức Giêhôva chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giêhôva nhìn thấy trong lòng” (1Sa. 16:7; Sv. 1Sa. 16:1-13) I. KINH THÁNH “Nhưng Đức Giêhôva phán cùng Samuên rằng: Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó, vì Ta đã bỏ nó. Đức Giêhôva chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giêhôva nhìn thấy trong lòng” (1Sa. 16:7; Sv. 1Sa. 16:1-13) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức Chúa Trời biết mỗi người cách trực tiếp “Nhưng Đức Giêhôva phán cùng Samuên rằng: Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó” (1Sa. 16:7a; Sv. Thi. 139:15-16) (1) “bộ dạng”: Hb. הארמ [mar’eh] > “ngoại hiện” (2) “hình vóc”: Hb. המוק [qowmah] > “ngoại hình” (3) Đức Chúa Trời đã biết mỗi người sẽ như thế nào từ khi họ vừa mới được thai dựng! “15Khi tôi được dựng nên trong nơi kín,_Chịu nắn nên cách xảo tại nơi thấp của đất,_Thì các xương cốt tôi không giấu được Chúa._16Mắt Chúa đã thấy thể chất vô hình của tôi;_Số các ngày định cho tôi,_Đã biên vào sổ Chúa trước khi chưa có một ngày trong các ngày ấy” (Thi. 139:15-16) 2. Đức Chúa Trời biết mỗi người cách chính xác “vì Ta đã bỏ nó” (1Sa. 16: 7b; Sv. Châm. 16:1-2) (1) “bỏ”: Hb. סאמ [ma’ac] > “không dùng” (2) Đức Chúa Trời không bao giờ nhầm lẫn về con người! “Các đường lối của người đều là trong sạch theo mắt mình;_Song Đức Giêhôva cân nhắc cái lòng” (Châm. 16:2) - “cân nhắc”: Hb. ןוכ [kuwn] > “xác định” 3. Đức Chúa Trời biết mỗi người cách sâu xa “Đức Giêhôva chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giêhôva nhìn thấy trong lòng” (1Sa. 16:7c; Sv. Ma. 7:21-23) (1) “xem”: Hb. האר [ra’ah] > “tra xét” (2) “lòng”: Hb. בבל [lebab] > “ngôi ngự và là xuất phát điểm của mọi cảm xúc và hành vi” (3) Sự hiểu biết của Đức Chúa Trời đối với mỗi người là sự hiểu biết sâu xa hơn hết! “21Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng Ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào Nước Thiên Đàng đâu; nhưng chỉ kẻ làm theo ý muốn của Cha Ta ở trên trời mà thôi. 22Ngày đó, sẽ có nhiều người thưa cùng Ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri sao? Nhân danh Chúa mà trừ quỉ sao? Và lại nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao? 23Khi ấy, Ta sẽ phán rõ ràng cùng họ rằng: Hỡi kẻ làm gian ác, Ta chẳng biết các ngươi bao giờ, hãy lui ra khỏi Ta!” (Ma. 7:21-23) III. ÁP DỤNG 1. Việc Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng là một tin dữ cho kẻ dữ! “vì Ta đã bỏ nó” (1Sa. 16: 7b) 2. Việc Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng làmột tin lành cho người lành! “Nhưng Đức Giêhôva phán cùng Samuên rằng: Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó” (1Sa. 16:7a) 3. Việc Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng là lẽ cần cho việc chúng ta phải gìn giữ tấm lòng chân thực đối với Ngài! “Đức Giêhôva chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giêhôva nhìn thấy trong lòng” (1Sa. 16:7c) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐÁP ỨNG QUA SỰ HẦU VIỆC” (Php. 3:12-16) “12Ấy không phải tôi đã giựt giải rồi, hay là đã đến nơi trọn lành rồi đâu, nhưng tôi đương chạy hầu cho giựt được, vì chính tôi đã được Đức Chúa Jêsus Christ giựt lấy rồi. 13Hỡi anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, 14nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ. 15Vậy, hễ những người trọn vẹn trong chúng ta, phải có ý tưởng đó; và nếu anh em tưởng đàng khác, Đức Chúa Trời cũng sẽ lấy sự đó soi sáng cho anh em. 16Duy chúng ta đã đạt đến bậc nào, thì chúng ta phải đồng đi vậy” (Php. 3:12-16) I. KINH THÁNH “12Ấy không phải tôi đã giựt giải rồi, hay là đã đến nơi trọn lành rồi đâu, nhưng tôi đương chạy hầu cho giựt được, vì chính tôi đã được Đức Chúa Jêsus Christ giựt lấy rồi. 13Hỡi anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, 14nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ. 15Vậy, hễ những người trọn vẹn trong chúng ta, phải có ý tưởng đó; và nếu anh em tưởng đàng khác, Đức Chúa Trời cũng sẽ lấy sự đó soi sáng cho anh em. 16Duy chúng ta đã đạt đến bậc nào, thì chúng ta phải đồng đi vậy” (Php. 3:12-16) II. GIẢI NGHĨA 1. Để có thể dốc sức hầu việc phải có chí quyết tâm (C. 12) (1) Bằng một sự nhìn nhận thực tế “Ấy không phải tôi đã giựt giải rồi, hay là đã đến nơi trọn lành rồi đâu” (Phlp. 3:12a) - “giựt giải rồi”: Gr. λαμβάνω [lambano] > “nhận được phần thưởng vì đã hoàn thành phận sự” (Sv. 1Cô. 9:24-27) (2) Bằng một sự nổ lực thực tiễn “nhưng tôi đương chạy hầu cho giựt được” (Phlp. 3: 12b) - “chạy”: Gr. διώκω [dioko] > “theo đuổi cách hết sức” (3) Bằng một sự xác định thực sự “vì chính tôi đã được Đức Chúa Jêsus Christ giựt lấy rồi” (Phlp. 3: 12c) - “giựt”: Gr. καταλαμβάνω [katalambano] > “cai quản” (Sv. Rô. 14:7-9) 2. Để có thể dốc sức hầu việc phải có đức kiên trì (C. 13-14) (1) Bằng việc không nuôi ảo tưởng (C. 13) “Hỡi anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích” (Phlp. 3:13) - “tưởng”: Gr. λογίζομαι [logizomai] > “kể như”, “cho rằng” (2) Bằng việc bám sát hiện thực (C. 14a) “nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước” (Phlp. 3: 14a) - “bươn”: Gr. ἐπεκτείνομαι [epekteinomai] > “rướn lên” (3) Bằng việc hoàn thành sự kêu gọi Thiên Thượng (C. 14b) “tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Phlp. 3:14b) - “mục đích”: Gr. σκοπός [skopos] > “điểm đến cuối cùng” 3. Để có thể dốc sức hầu việc phải có lòng kết ước (C. 15-16) (1) Phải nuôi chí (C. 15a) “Vậy, hễ những người trọn vẹn trong chúng ta, phải có ý tưởng đó” (Phlp. 3:15a) - “trọn vẹn”: Gr. τέλειος [teleios] > “trưởng thành” (2) Phải bền chí (C. 15b) “và nếu anh em tưởng đàng khác, Đức Chúa Trời cũng sẽ lấy sự đó soi sáng cho anh em” (Phlp. 3:15b) - “soi sáng”: Gr. ἀποκαλύπτω [apokalupto] > “bày tỏ” (3) Phải vững chí (C. 16) “Duy chúng ta đã đạt đến bậc nào, thì chúng ta phải đồng đi vậy” (Phlp. 3:16) - “đồng đi”: “cùng sống và nghĩ như nhau”… (Sv. Phlp. 2:1-4) > “στοιχειν κανονι [stoicheo kanon]”: Hiệp lực > “αυτο φρονειν [ autos phroneo]”: Đồng tâm III. ÁP DỤNG 1. Phải nhận thức rõ về chức phận hầu việc! “Ấy không phải tôi đã giựt giải rồi, hay là đã đến nơi trọn lành rồi đâu, nhưng tôi đương chạy hầu cho giựt được, vì chính tôi đã được Đức Chúa Jêsus Christ giựt lấy rồi” (Phlp. 3:12) 2. Phải xác định đúng về mục đích hầu việc! “Nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Phlp. 3:14) 3. Phải nuôi chí về nhiệt tình hầu việc! “Duy chúng ta đã đạt đến bậc nào, thì chúng ta phải đồng đi vậy” (Phlp. 3:16) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐÁP ỨNG QUA QUYẾT CHÍ HY SINH” (Php. 3:4-11) “4Ấy chẳng phải tôi không có thể cậy mình trong xác thịt đâu. Ví bằng kẻ khác tưởng rằng có thể cậy mình trong xác thịt, thì tôi lại có thể bội phần nữa, 5tôi chịu phép cắt bì ngày thứ tám, về dòng Ysơraên, chi phái Bêngiamin, người Hêbơrơ, con của người Hêbơrơ; về Luật Pháp, thì thuộc phe Pharisi; 6về lòng sốt sắng, thì là kẻ bắt bớ Hội Thánh; còn như về sự công bình của Luật Pháp, thì không chỗ trách được. 7Nhưng vì cớ Đấng Christ, tôi đã coi sự lời cho tôi như là sự lỗ vậy. 8Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ 9và được ở trong Ngài, được sự công bình, không phải công bình của tôi bởi Luật Pháp mà đến, bèn là bởi tin đến Đấng Christ mà được, tức là công bình đến bởi Đức Chúa Trời và đã lập lên trên đức tin; 10cho đến nỗi tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài, 11mong cho tôi được đến sự sống lại từ trong kẻ chết” (Php. 3:4-11) I. KINH THÁNH “4Ấy chẳng phải tôi không có thể cậy mình trong xác thịt đâu. Ví bằng kẻ khác tưởng rằng có thể cậy mình trong xác thịt, thì tôi lại có thể bội phần nữa, 5tôi chịu phép cắt bì ngày thứ tám, về dòng Ysơraên, chi phái Bêngiamin, người Hêbơrơ, con của người Hêbơrơ; về Luật Pháp, thì thuộc phe Pharisi; 6về lòng sốt sắng, thì là kẻ bắt bớ Hội Thánh; còn như về sự công bình của Luật Pháp, thì không chỗ trách được. 7Nhưng vì cớ Đấng Christ, tôi đã coi sự lời cho tôi như là sự lỗ vậy. 8Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ 9và được ở trong Ngài, được sự công bình, không phải công bình của tôi bởi Luật Pháp mà đến, bèn là bởi tin đến Đấng Christ mà được, tức là công bình đến bởi Đức Chúa Trời và đã lập lên trên đức tin; 10cho đến nỗi tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài, 11mong cho tôi được đến sự sống lại từ trong kẻ chết” (Php. 3:4-11) II. GIẢI NGHĨA 1. Đời sống hy sinh là đời sống từ bỏ địa vị (C. 4-6) - “cậy”: Gr. πείθω [peitho] πεποίθησις > “kỳ vọng”, “tin tưởng” - “xác thịt”: Gr. σάρξ [sarx] > “nhân thân”, “thân thế” (1) Ưu thế về dòng dõi (C. 5) - “chịu phép cắt bì ngày thứ tám” - “dòng Ysơraên, chi phái Bêngiamin” - “người Hêbơrơ, con của người Hêbơrơ” (2) Ưu thế về công đức (C. 6a) - “về lòng sốt sắng, thì là kẻ bắt bớ Hội Thánh” (3) Ưu thế về giai trật (C. 6b) - “về sự công bình của Luật Pháp, thì không chỗ trách được” 2. Đời sống hy sinh là đời sống từ bỏ quyền lợi (C. 7-9) (1) Phải bắt đầu từ việc tìm được Chúa nhờ việc được Chúa tìm… - “vì cớ Đấng Christ”: Gr. δια τον χριστον [dia ho Christos] > “nhờ Đấng Christ” (Sv. Công. 9:1-9) (2) Không còn xem sự ưu thế về dòng dõi, công đức, giai trật là bằng chứng của sự chuẩn thuận của Đức Chúa Trời nữa (C. 7) - Tất cả những sự ấy đều thuộc về phạm trù việc làm và là vô nghĩa đối với Đức Chúa Trời (Sv. Ês. 64:6) - Sự chuẩn thuận của Đức Chúa Trời dành cho thái độ hy sinh, tận hiến (Sv. Phlp. 2:5-8) (3) Biết nhìn về tương lai vào kỳ chung thẩm của Đức Chúa Jêsus Christ thể theo đức tin chứ không phải theo việc làm (C. 8) - Vì việc làm theo Luật Pháp chỉ cho người ta biết tội (Sv. Rô. 3:20) - Chỉ bởi đức tin mới được Đức Chúa Trời kể là công bình (Sv. Rô. 3:22) 3. Đời sống hy sinh là đời sống của người sống lại (C. 10-11) (1) Phải bắt đầu từ một mối giao ngộ thật với Đức Chúa Jêsus Christ (Sv. C. 10a) - “biết”: Gr. γινώσκω [ginosko] > “tương giao” (Côl. 2:1-3) (2) Phải phát triển thành khát vọng sống như người sống lại (Sv. C. 10b) - “quyền phép”: Gr. δύναμις [dunamis] > “năng lực Thiên Thượng” (Sv. Rô. 8:11) (3) Phải thể ra ra qua đời sống của một người sống như được sống lại (Sv. C. 10c-11) - “thông công”: Gr. κοινωνία [koinonia] > “hội hiệp” (Sv. Rô. 6:4-6) III. ÁP DỤNG 1. Đừng mắc bẫy của đời này, phải tìm kiếm sự chuẩn thuận của Đức Chúa Trời! “Nhưng vì cớ Đấng Christ, tôi đã coi sự lời cho tôi như là sự lỗ vậy” (Phlp. 3:7) 2. Đừng ham hố đời này, phải có đức tin! “Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ” (Phlp. 3:8) 3. Đừng sống như người đang chết, phải sống như người đã được sống lại! “Cho đến nỗi tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài” (Phlp. 3:10) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐÁP ỨNG QUA HOÀN TOÀN ĐẦU PHỤC” (2Cô. 1:12-14) “12Còn như cái điều làm vẻ vang cho chúng tôi, ấy là lương tâm chúng tôi làm chứng rằng mình lấy sự thánh sạch và thật thà đến bởi Đức Chúa Trời mà ăn ở trong thế gian nầy, nhứt là đối với anh em, không cậy sự khôn ngoan theo tánh xác thịt, nhưng cậy ơn của Đức Chúa Trời. 13Vì chúng tôi chẳng viết cho anh em sự gì khác hơn những điều anh em đọc trong thơ chúng tôi và chính mình anh em nhận biết; và tôi lại mong anh em nhận biết cho đến cuối cùng, 14cũng như anh em đã nhận biết ít nhiều rồi: Ấy là chúng tôi làm vẻ vang cho anh em, khác nào anh em cũng làm vẻ vang cho chúng tôi trong ngày Đức Chúa Jêsus chúng ta” (2Cô. 1:12-14) I. KINH THÁNH “12Còn như cái điều làm vẻ vang cho chúng tôi, ấy là lương tâm chúng tôi làm chứng rằng mình lấy sự thánh sạch và thật thà đến bởi Đức Chúa Trời mà ăn ở trong thế gian nầy, nhứt là đối với anh em, không cậy sự khôn ngoan theo tánh xác thịt, nhưng cậy ơn của Đức Chúa Trời. 13Vì chúng tôi chẳng viết cho anh em sự gì khác hơn những điều anh em đọc trong thơ chúng tôi và chính mình anh em nhận biết; và tôi lại mong anh em nhận biết cho đến cuối cùng, 14cũng như anh em đã nhận biết ít nhiều rồi: Ấy là chúng tôi làm vẻ vang cho anh em, khác nào anh em cũng làm vẻ vang cho chúng tôi trong ngày Đức Chúa Jêsus chúng ta” (2Cô. 1:12-14) II. GIẢI NGHĨA 1. Đời sống đầu phục hoàn toàn phải được thể hiện bằng sự toàn tín: Luôn giữ cho lương tâm trong sạch, không dám lên mình, chỉ nương cậy ân điển của Đức Chúa Trời! (C. 12; Sv. 1Phi. 4:10) (1) Trong sạch - “lương tâm”: Gr. συνείδησις [suneidesis] --> “năng lực hướng thiện” - “thánh sạch”: Gr. εἰλικρίνεια θεός [heilikrineia theos] --> “sự thuần khiết của Đức Chúa Trời” - “thật thà”: Gr. ἁπλότης [haplotes] --> “đơn thuần” (2) Khiêm hạ - “cậy”: Gr. ἐν [en] --> “ở trong”, “bằng, với” - “sự khôn ngoan theo tánh xác thịt: Gr. σοφία σαρκικός [sophia sarkikos] --> “sự khôn ngoan của bản thân” --> “sức riêng” (3) Nương cậy - “ơn Đức Chúa Trời”: Gr. χάρις θεός [charis theos] --> “sự ban cho của Đức Chúa Trời” (Sv. 1Phi. 4:10) 2. Đời sống đầu phục hoàn toàn phải được thể hiện bằng sự trực ngôn: Chỉ nói những điều dám viết, chỉ viết những điều dám ký, chỉ ký những điều đẹp ý Đức Chúa Trời! (C. 13; Sv. Thi. 5:9; 2Phi. 3:15-16) (1) Thói thường: Nói một đằng, làm một nẻo! “Vì nơi miệng chúng nó chẳng có sự thành tín;_Lòng chúng nó chỉ là gian tà;_Họng chúng nó là huyệt mả mở ra;_Lưỡi chúng nó đầy dẫy điều dua nịnh” (Thi. 5:9) (2) Luật Chúa: Nói sao, làm vậy! “15Lại phải nhìn biết rằng sự nhịn nhục lâu dài của Chúa chúng ta cốt vì cứu chuộc anh em, cũng như Phaolô, anh rất yêu dấu của chúng ta, đã đem sự khôn ngoan được ban cho mình mà viết thư cho anh em vậy. 16Ấy là điều người đã viết trong mọi bức thơ, nói về những sự đó, ở trong có mấy khúc khó hiểu, mà những kẻ dốt nát và tin không quyết đem giải sai ý nghĩa, cũng như họ giải sai về các phần Kinh Thánh khác, chuốc lấy sự hư mất riêng về mình” (2Phi. 3:15-16) 3. Đời sống đầu phục hoàn toàn phải được thể hiện bằng sự hảo tâm: Hiện tại chỉ biết chăm lo cho người còn tương lai của mình thì phó cho Đức Chúa Trời! (C. 14) (1) Điều ích cho người đời - “làm vẻ vang”: Gr. καύχημα [kauchema] --> “niềm tự hào” (2) Tương lai mình nhờ Trời - “ngày Đức Chúa Jêsus”: Gr. ἡμέρα ὁ κύριος ʼΙησοῦς [hemera ho kurios Iesous] “Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu” (1Cô. 15:58) III. ÁP DỤNG 1. Chúng ta phải nhờ ơn, đừng cậy sức! “Còn như cái điều làm vẻ vang cho chúng tôi, ấy là lương tâm chúng tôi làm chứng rằng mình lấy sự thánh sạch và thật thà đến bởi Đức Chúa Trời mà ăn ở trong thế gian nầy, nhứt là đối với anh em, không cậy sự khôn ngoan theo tánh xác thịt, nhưng cậy ơn của Đức Chúa Trời” (2Cô. 1:12) 2. Chúng ta phải mạnh dạn trong ý Chúa! “Vì chúng tôi chẳng viết cho anh em sự gì khác hơn những điều anh em đọc trong thơ chúng tôi và chính mình anh em nhận biết; và tôi lại mong anh em nhận biết cho đến cuối cùng” (2Cô. 1:13) 3. Chúng ta phải bền lòng cho đến kỳ chung thẩm! “Cũng như anh em đã nhận biết ít nhiều rồi: Ấy là chúng tôi làm vẻ vang cho anh em, khác nào anh em cũng làm vẻ vang cho chúng tôi trong ngày Đức Chúa Jêsus chúng ta” (2Cô. 1:14) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐÁP ỨNG QUA VÂNG LỜI KINH THÁNH” (Gia. 1:22-25) “22Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình. 23Vì, nếu có kẻ nghe lời mà không làm theo, thì khác nào người kia soi mặt mình trong gương, 24thấy rồi thì đi, liền quên mặt ra thể nào. 25Nhưng kẻ nào xét kĩ Luật Pháp trọn vẹn, là Luật Pháp về sự tự do, lại bền lòng suy gẫm lấy, chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó, thì kẻ đó sẽ tìm được phước trong sự mình vâng lời” (Gia. 1:22-25) I. KINH THÁNH “22Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình. 23Vì, nếu có kẻ nghe lời mà không làm theo, thì khác nào người kia soi mặt mình trong gương, 24thấy rồi thì đi, liền quên mặt ra thể nào. 25Nhưng kẻ nào xét kĩ Luật Pháp trọn vẹn, là Luật Pháp về sự tự do, lại bền lòng suy gẫm lấy, chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó, thì kẻ đó sẽ tìm được phước trong sự mình vâng lời” (Gia. 1:22-25) II. GIẢI NGHĨA 1. Vâng lời Kinh Thánh là tìm kiếm ý chỉ của Đức Chúa Trời để làm theo (C. 22) (1) Không phải là “làm gì đó” mà là “làm theo ý Chúa”! - “làm theo lời”: Gr. ποιητής [poietes] --> “người thực hiện” (2) Không phải “nghe gì đó” mà là “nghe theo Chúa”! - “lấy nghe làm đủ”: Gr. ἀκροατής [akroates] --> “kẻ nghe suông” (3) Nghe Chúa phán mà không làm theo là giả dối! - “lừa dối mình”: Gr. παραλογίζομαι [paralogizomai] --> “ngụy biện” - Gr. παρά [para] --> “ngụy”, “nghịch” - Gr. λογίζομαι [logizomai] --> “biện bác”, “bào chữa” 2. Vâng lời Kinh Thánh là cẩn thận đối với ý muốn của bản thân (C. 23-24) (1) Chưa làm theo ý Chúa thì còn chịu sự điều khiển của ý riêng! - Vì chỉ là kẻ nghe suông: Gr. ἀκροατής [akroates] - Mà kẻ nghe suông là kẻ ngụy biện theo ý riêng của mình: Gr. παραλογίζομαι [paralogizomai] (2) “soi mặt mình trong gương”: Gr. κατανοέω [katanoeo] --> “tự thức” (3) “thấy rồi thì đi”: Gr. ἀπέρχομαι [aperchomai] --> “gạt bỏ” 3. Vâng lời Kinh Thánh là tuân giữ sự khải thị của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh (C. 25) (1) Lời Kinh Thánh là Luật Pháp của Đức Chúa Trời! - Ấy là Luật Pháp “trọn vẹn”: Gr. τέλειος [teleios] --> “thiện hảo” (Sv. Ma. 5:17) - Ấy là Luật Pháp “tự do”: Gr. ἐλευθερία [eleutheria] --> “được tha” (Sv. Rô. 7:4-6) (2) “chẳng phải nghe rồi quên đi”: Gr. ἀκροατής [akroates] --> “kẻ nghe suông” (3) “nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó”: Gr. ποιητής [poietes] --> “người thực hiện” III. ÁP DỤNG 1. Ý Chúa, ý Chúa, và chỉ duy nhất ý Chúa! “Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình” (Gia. 1:22) 2. Cẩn thận, cẩn thận, và luôn luôn cẩn thận! “23Vì, nếu có kẻ nghe lời mà không làm theo, thì khác nào người kia soi mặt mình trong gương, 24thấy rồi thì đi, liền quên mặt ra thể nào” (Gia. 1:23-24) 3. Sống theo Lời Kinh Thánh! “Nhưng kẻ nào xét kĩ Luật Pháp trọn vẹn, là Luật Pháp về sự tự do, lại bền lòng suy gẫm lấy, chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó, thì kẻ đó sẽ tìm được phước trong sự mình vâng lời” (Gia. 1:25) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐÁP ỨNG QUA ĐỔI MỚI TẤM LÒNG” (Êph. 4:22-24; Sv. 17-24) “22…Anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành, 23mà phải làm nên mới trong tâm chí mình, 24và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật” (Êph. 4:22-24; Sv. 17-24) I. KINH THÁNH “22…Anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành, 23mà phải làm nên mới trong tâm chí mình, 24và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật” (Êph. 4:22-24; Sv. 17-24) II. GIẢI NGHĨA 1. Không thể cứ theo nếp sống cũ mà là người thờ phượng Đức Chúa Trời được (C. 22) (1) “cách ăn nết ở ngày trước”: Gr. ἀναστροφή [anastrophe]; “lối sống”, “đời sống cũ” (Sv. Êph. 4:17-19) (2) “phải bỏ”: Gr. ἀποτίθημι [apotithemi]; “cởi ra”, “lột bỏ” (Sv. Êph. 4:20-21) (3) “tư dục”: Gr. ἐπιθυμία [epithumia]; “các sự ham muốn” (Sv. Gia. 1:14-15; 21) 2. Để có thể sống đời sống thờ phượng Đức Chúa Trời, người ta phải đáp ứng Ngài bằng một cuộc hình thành thuộc linh lâu dài (C. 23) (1) “làm nên mới”: Gr. ἀνανεόω ananeoo; “đổi mới” (Sv. Rô. 12:2) (2) “trong tâm chí”: Gr. πνεῦμα ὁ νοῦς [pneuma ho nooce] a. Gr. πνεῦμα [pneuma]; “tâm”, “linh” b. Gr. νοῦς [nooce]; “chí”, “lòng” 3. Đời sống thờ phượng Đức Chúa Trời thể hiện tập trung trong đời sống công nghĩa và đời sống thánh khiết (C. 24) (1) “mặc lấy”: Gr. ἐνδύω [enduo]; “mặc vào” (2) “người mới”: Gr. καινός ἄνθρωπος [kainos anthropos]; “người sống theo sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh” (Sv. Êph. 5:8; Gal. 5:16; Côl. 2:6) a. Gr. ἄνθρωπος [anthropos]; “người” b. Gr. καινός [kainos]; “mới về bản chất” (3) “công bình”: Gr. δικαιοσύνη [dikaiosune]; “được kể là phải” (4) “thánh sạch của lẽ thật”: Gr. ὁσιότης ὁ ἀλήθεια [hosiotes ho aletheia]; “sự thánh khiết đích thực” III. ÁP DỤNG 1. Đã nhận ân điển nhập thể của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ thì phải từ bỏ nếp sống cũ! “…Anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành” (Êph. 4:22) 2. Chưa có sự đổi mới thuộc linh trong lòng thì chưa bắt đầu một đời sống mới được! “mà phải làm nên mới trong tâm chí mình” (Êph. 4:23) 3. Đời sống mới là đời sống công nghĩa và thánh khiết thực hành để ngày càng trở nên giống với Đức Chúa Jêsus nhiều hơn! “Và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật” (Êph. 4:24) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“TÌM KIẾM TÌNH YÊU MẬT THIẾT” (1Gi. 3:16-18) “16Bởi đó chúng ta nhận biết lòng yêu thương, ấy là Chúa đã vì chúng ta bỏ sự sống; chúng ta cũng nên bỏ sự sống vì anh em mình vậy. 17Nếu ai có của cải đời nầy, thấy anh em mình đương cùng túng mà chặt dạ, thì lòng yêu mến Đức Chúa Trời thể nào ở trong người ấy được! 18Hỡi các con cái bé mọn, chớ yêu mến bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật” (1Gi. 3:16-18) I. KINH THÁNH “16Bởi đó chúng ta nhận biết lòng yêu thương, ấy là Chúa đã vì chúng ta bỏ sự sống; chúng ta cũng nên bỏ sự sống vì anh em mình vậy. 17Nếu ai có của cải đời nầy, thấy anh em mình đương cùng túng mà chặt dạ, thì lòng yêu mến Đức Chúa Trời thể nào ở trong người ấy được! 18Hỡi các con cái bé mọn, chớ yêu mến bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật” (1Gi. 3:16-18) II. GIẢI NGHĨA 1. Tình yêu mật thiết là tình yêu khiến cho người ta dám làm bất cứ gì cho người mình yêu (C. 16; Sv. 1Gi. 4:16) (1) “lòng yêu thương”: Gr. ἀγάπη [agape]; “chí yêu thương” (2) “bỏ sự sống”: Gr. τίθημι [tithemi]; “trao tặng” (Sv. Ma. 20:28) (3) “anh em mình”: Gr. ἀδελφός [adelphos]; “đồng đạo” 2. Tình yêu mật thiết là tình yêu khiến cho người ta dám làm tất cả để duy trì sự sống và phúc lợi của người mình yêu (C.17; Sv. 1Gi. 4:17) (1) “của cải”: Gr. βίος [bios]; “cuộc sống” (2) “cùng túng”: Gr. χρεία [chreia]; “có nhu cần” (3) “chặt [dạ]”: Gr. κλείω [kleio]; “không thấu cảm” (4) “ở trong”: Gr. μένω [meno]; “ở cùng” (Sv. 1Gi. 4:19-21) 3. Tình yêu mật thiết là tình yêu luôn luôn được minh thị bằng hành động của đức tin (C.18; Sv. 1Gi. 4:18) (1) “lời nói và lưỡi” Gr. λόγος μηδέ γλῶσσα [logos mede glossa]; “nói suông” (2) “việc làm” (sự cứu giúp) Gr. ἔργον [ergon]; “hành vi” (Sv. Gia. 2:15-16) (3) “lẽ thật” (sự gây dựng) Gr. ἀλήθεια [aletheia]; “những điều chân chính theo ý chỉ của Đức Chúa Trời” (Sv. Php. 4:8) III. ÁP DỤNG 1. Phải có tình yêu mật thiết của Đức Chúa Trời và với Đức Chúa Trời mới có thể sống dấn thân được! “Bởi đó chúng ta nhận biết lòng yêu thương, ấy là Chúa đã vì chúng ta bỏ sự sống; chúng ta cũng nên bỏ sự sống vì anh em mình vậy” (1Gi. 3:16) 2. Phải có tình yêu mật thiết của Đức Chúa Trời và với Đức Chúa Trời mới có thể sống hy sinh được! “Nếu ai có của cải đời nầy, thấy anh em mình đương cùng túng mà chặt dạ, thì lòng yêu mến Đức Chúa Trời thể nào ở trong người ấy được!” (1Gi. 3:17) 3. Phải có tình yêu mật thiết của Đức Chúa Trời và với Đức Chúa Trời mới có thể sống yêu thương được! “Hỡi các con cái bé mọn, chớ yêu mến bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật” (1Gi. 3:18) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |