“PHẢI SỐNG ĐỜI SỐNG SẠCH TỘI” (1Gi. 1:8-9; Sv. 1Gi. 1:5-10) “Ví bằng chúng ta nói mình không có tội chi hết, ấy là chính chúng ta lừa dối mình, và lẽ thật không ở trong chúng ta. Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác.” (1Gi. 1:8-9; Sv. 1Gi. 1:5-10) “Phải sống đời sống sạch tội không có nghĩa là sống mà không bao giờ mắc tội” Kinh Thánh: “8Ví bằng chúng ta nói mình không có tội chi hết, ấy là chính chúng ta lừa dối mình, và lẽ thật không ở trong chúng ta. 9Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác.” (1Gi. 1:8-9; Sv. 1Gi. 1:5-10) “Mà là có sự nhận thức nhạy bén về thực trạng của đời sống cá nhân để xử lý vấn đề tội lỗi cho hợp Kinh Thánh.” Câu Gốc: “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác.” (1Gi. 1:9) I. GIẢI NGHĨA “Ví bằng chúng ta nói mình được giao thông với Ngài, mà còn đi trong sự tối tăm, ấy là chúng ta nói dối và không làm theo lẽ thật.” (1Gi. 1:6) 1. Cơ Đốc Nhân phải biết nhìn nhận thực trạng vướng tội của mình (C. 8) “Ví bằng chúng ta nói mình không có tội chi hết, ấy là chính chúng ta lừa dối mình, và lẽ thật không ở trong chúng ta.” (1Gi. 1:8) (1) “tội”: Gr. ἁμαρτία [hamartia] E “không đạt chuẩn” (2) “lừa dối”: Gr. πλανάω [planao] E “làm cho sai trật” (3) “lẽ thật”: Gr. ἀλήθεια [aletheia] E “điều đúng theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời” 2. Và phải biết cầu xin sự tha thứ từ Đức Chúa Trời cách hợp Kinh Thánh (C. 9) “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác.” (1Gi. 1:9) (1) “xưng tội”: Gr. ὁμολογέω [homologeo] E “nhìn nhận” (2) “thành tín”: Gr. πιστός [pistos] E “đáng tin cậy” (3) “công bình”: Gr. δίκαιος [dikaios] E “công nghĩa” (4) “tha”: Gr. ἀφίημι [aphiemi] E “gạt bỏ” (5) “làm cho sạch”: Gr. καθαρίζω [katharizo] E “thanh tẩy” II. ÁP DỤNG “Ai ở trong Ngài thì không phạm tội; còn ai phạm tội, thì chẳng từng thấy Ngài và chẳng từng biết Ngài.” (1Gi. 3:6) 1. Phải thường xuyên nhạy bén đối với sự ăn năn tội của bản thân cách hợp Kinh Thánh. “Ví bằng chúng ta nói mình không có tội chi hết, ấy là chính chúng ta lừa dối mình, và lẽ thật không ở trong chúng ta.” (1Gi. 1:8) 2. Phải thường xuyên có kỹ năng xử lý tội của bản thân cách hợp Kinh Thánh. “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác.” (1Gi. 1:9) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHẢI SỐNG ĐỜI SỐNG THÔNG BIẾT” (2Phi. 3:17-18) “Hỡi kẻ rất yêu dấu, vì anh em đã được biết trước, vậy hãy giữ cho cẩn thận, e anh em cũng bị sự mê hoặc của những người ác ấy dẫn dụ, mất sự vững vàng của mình chăng. Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ. Nguyền xin vinh hiển về nơi Ngài, từ rày đến đời đời! Amen.” (2Phi. 3:17-18) Cuộc theo Chúa của Cơ Đốc Nhân là một hành trình thuộc linh mà đích điểm phải được nhận thức từ xuất phát điểm để luôn được ở trong sự vững vàng… Kinh Thánh: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, vì anh em đã được biết trước, vậy hãy giữ cho cẩn thận, e anh em cũng bị sự mê hoặc của những người ác ấy dẫn dụ, mất sự vững vàng của mình chăng. Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ. Nguyền xin vinh hiển về nơi Ngài, từ rày đến đời đời! Amen.” (2Phi. 3:17-18) Đó là một tiến trình phát triển không ngừng của sự nhận thức, sống, tăng trưởng trong và theo các mỹ đức của Đức Chúa Trời qua mẫu mực của Đức Chúa Jêsus Christ… Câu Gốc: “Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ. Nguyền xin vinh hiển về nơi Ngài, từ rày đến đời đời! Amen.” (2Phi. 3:18) I. GIẢI NGHĨA “Ngài muốn chúng ta không như trẻ con nữa, bị người ta lừa đảo, bị mưu chước dỗ dành làm cho lầm lạc, mà day động và dời đổi theo chiều gió của đạo lạc” (Êph. 4:14) 1. Phải vững vàng trong niềm tin là một mệnh lệnh (C. 17) “Hỡi kẻ rất yêu dấu, vì anh em đã được biết trước, vậy hãy giữ cho cẩn thận, e anh em cũng bị sự mê hoặc của những người ác ấy dẫn dụ, mất sự vững vàng của mình chăng.” (2Phi. 3:17) (1) “sự mê hoặc”: Gr. συναπάγω [sunapago] E “cùng trôi lạc với ai” (Sv. 2Ti. 4:3) (2) “dẫn dụ”: Gr. πλάνη [plane] E “sự sai lầm” (3) “sự vững vàng”: Gr. στηριγμός [sterigmos] E “sự kiên lập” (Sv. 1Cô. 15:58) 2. Phải tấn tới trong ân điển và sự thông biết Chúa cũng là một mệnh lệnh (C. 18) “Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ. Nguyền xin vinh hiển về nơi Ngài, từ rày đến đời đời! Amen.” (2Phi. 3:18) (1) “tấn tới”: Gr. αὐξάνω [auxano] E “lớn lên” (2) “ân điển”: Gr. χάρις [charis] E “sự ban cho” (Sv. 1Cô. 12:7) (3) “sự thông biết”: Gr. γνῶσις [gnosis] E “sự hiểu biết” (Sv. 2Phi. 1:5-11) II. ÁP DỤNG “Nhưng hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ.” (1Phi. 3:15) 1. Phải luôn tỉnh thức để tránh xa mọi sự giảng dạy sai trật! “Hỡi kẻ rất yêu dấu, vì anh em đã được biết trước, vậy hãy giữ cho cẩn thận, e anh em cũng bị sự mê hoặc của những người ác ấy dẫn dụ, mất sự vững vàng của mình chăng.” (2Phi. 3:17) 2. Phải chuyên tâm học biết Chúa và thực hành các ân tứ được ban! “Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ. Nguyền xin vinh hiển về nơi Ngài, từ rày đến đời đời! Amen.” (2Phi. 3:18) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHẢI SỐNG ĐỜI SỐNG VÂNG LỜI” (Gi. 14:21; Sv. 14:18-21) “Ai có các điều răn của Ta và vâng giữ lấy, ấy là kẻ yêu mến Ta; người nào yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu lại, Ta cũng sẽ yêu người, và tỏ cho người biết Ta.” (Gi. 14:21; Sv. 14:18-21) Mối quan hệ giữa Cơ Đốc Nhân với Đức Chúa Trời không phải là mối quan hệ tùy ý mà là mối quan hệ thuận phục bằng đời sống vâng lời Ngài… Kinh Thánh: “Ai có các điều răn của Ta và vâng giữ lấy, ấy là kẻ yêu mến Ta; người nào yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu lại, Ta cũng sẽ yêu người, và tỏ cho người biết Ta.” (Gi. 14:21; Sv. 14:18-21) Sự vâng lời của Cơ Đốc Nhân đối với Đức Chúa Trời là sự minh thị tập trung của mối quan hệ có thật giữa Cơ Đốc Nhân với Ngài… Câu Gốc: “Ai có các điều răn của Ta và vâng giữ lấy, ấy là kẻ yêu mến Ta.” (Gi. 14:21a) I. GIẢI NGHĨA “Còn kẻ nào chẳng yêu mến Ta, thì không vâng giữ lời Ta…” (Gi. 14:24a) 1. Cơ Đốc Nhân yêu Chúa là Cơ Đốc Nhân vâng lời Chúa (Gi. 14:21a) (1) “điều răn”: Gr. ἐντολή [entole] E “mệnh lệnh”, “huấn mệnh” (2) “vâng giữ”: Gr. τηρέω [tereo] E “thi hành”, “theo đuổi” (3) “yêu mến”: Gr. ἀγαπάω [agapao] E “tình cảm theo ý chí” 2. Cơ Đốc Nhân vâng lời Chúa là Cơ Đốc Nhân được Chúa yêu (Gi. 21:b) (1) “yêu lại”: Gr. ἀγαπάω [agapao] E “bày tỏ lại” (2) “sẽ yêu”: Gr. ἀγαπάω [agapao] E “sẽ bày tỏ” (3) “tỏ cho”: Gr. ἐμφανίζω [emphanizo] E “hiển thị ra” II. ÁP DỤNG “…và lời các ngươi nghe đó, chẳng phải bởi Ta, nhưng bởi Cha, là Đấng đã sai Ta đến.” (Gi. 14:24b) 1. Sự yêu mến Chúa chẳng phải chỉ ở xúc cảm mà chủ yếu là ở ý chí vâng theo các sự truyền dạy của Chúa! “Ai có các điều răn của Ta và vâng giữ lấy, ấy là kẻ yêu mến Ta;” (Gi. 14a) 2. Chính ý chí vâng theo các sự truyền dạy của Chúa giúp cho sự cảm nhận về tình yêu của Chúa gia tăng trong lòng Cơ Đốc Nhân! “Người nào yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu lại, Ta cũng sẽ yêu người, và tỏ cho người biết Ta.” (Gi. 14b) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“TƯƠNG LAI CỦA ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC” (Phlp. 3:20-21) “Nhưng chúng ta là công dân trên trời; ấy là từ nơi đó mà chúng ta trông đợi Cứu Chúa mình là Đức Chúa Jêsus Christ, Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật.” (Gi. 17:2-3) “Phương diện tương lai của đời sống Cơ Đốc là phương diện quan trọng, giữ vai trò định hướng cho đời sống hiện tại của Cơ Đốc Nhân…” Kinh Thánh: “20Nhưng chúng ta là công dân trên trời; ấy là từ nơi đó mà chúng ta trông đợi Cứu Chúa mình là Đức Chúa Jêsus Christ, 21Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật.” (Phlp. 3:20-21) “Trong tương lai, Cơ Đốc Nhân sẽ có cùng một sự sống thuộc thể như sự sống thuộc thể phục sinh mà Đức Chúa Jêsus có…” Câu Gốc: “Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt của chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật.” (Phlp. 3:21) I. GIẢI NGHĨA “Hỡi anh em, tôi đoán quyết rằng thịt và máu chẳng hưởng nước Đức Chúa Trời được, và sự hay hư nát không hưởng sự không hay hư nát được” (1Cô. 15:50; Sv. C. 19) 1. Cơ Đốc Nhân phải có tầm nhìn tương lai theo quan điểm Thiên Đàng (Phlp. 3:20) (1) “công dân trên trời”: Gr. πολίτευμα [politeuma] >> “quốc gia” (“quốc gia của chúng ta ở trên trời”) (2) “từ nơi đó”: Gr. ἐκ ὅς [ek hos] >> “từ tầm nhìn ấy” (3) “trông đợi”: Gr. ἀπεκδέχομαι [apekdechomai] >> “mong chờ” 2. Để biết khát khao mong đợi được biến đổi theo Chúa về thân thể (Phlp. 3:21) (1) “biến hóa”: Gr. μετασχηματίζω [metaschematizo] >> “biến đổi” (2) “thân thể hèn mạt chúng ta”: Gr. σῶμα ὁ ταπείνωσις ἡμῶν [soma ho tapeinosis hemon] E “thân thể thấp kém của chúng ta” (3) “ra giống”: Gr. σύμμορφος [summorphos] >> “tương tự” (4) “thân thể vinh hiển Ngài”: Gr. σῶμα ὁ δόξα [soma ho doxa] >> “thân thể uy nghiêm của Ngài” II. ÁP DỤNG “Nếu chúng ta chỉ có sự trông cậy trong Đấng Christ về đời nầy mà thôi, thì trong cả mọi người, chúng ta là kẻ khốn nạn hơn hết.” (1Cô. 15:19) 1. Phải có tầm nhìn đúng! “Nhưng chúng ta là công dân trên trời; ấy là từ nơi đó mà chúng ta trông đợi Cứu Chúa mình là Đức Chúa Jêsus Christ.” (Phlp. 3:20) 2. Phải có sự trông đợi đúng! “Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật.” (Phlp. 3:21) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“TÍNH CHẤT CỦA ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC” (Gi. 17:2-3) “Và nhân quyền phép Cha đã ban cho Con cai trị loài xác thịt, Con được ban sự sống đời đời cho những kẻ mà Cha đã giao phó cho Con. Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến.” (Gi. 17:2-3) “Đời Sống Cơ Đốc” là hình thái tương tác siêu việt với một Thực Thể siêu việt trong một môi trường siêu việt. Kinh Thánh: “2Và nhân quyền phép Cha đã ban cho Con cai trị loài xác thịt, Con được ban sự sống đời đời cho những kẻ mà Cha đã giao phó cho Con. 3Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến.” (Gi. 17:2-3) Sự sống đời đời trong Cơ Đốc Nhân là sự sống thuộc linh được thể hiện qua mối tương giao giữa họ với Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Câu Gốc: “Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến” (Gi. 17:3) I. GIẢI NGHĨA “Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.” (Gi. 1:2; Sv. Côl. 1:17; Công. 17:28) 1. Sống là có khả năng tương tác mà đỉnh cao là tương tác với Đấng mà nhờ Ngài mới được sống (Gi. 17:2) (1) “quyền phép”: Gr. ἐξουσία [exousia] E “thẩm quyền” (2) “cai trị”: Gr. πᾶς [pas] E “đối với” (3) “loài xác thịt”: Gr. σάρξ [sarx] E “nhân loại”, “thế gian” (Sv. Ma. 28:18) (4) “sự sống đời đời”: Gr. ζωή αἰώνιος [zoe aionios] E “sự sống vô thỉ vô chung” 2. Chỉ thực sự sống nếu sự tương tác với Đấng là nguồn sự sống trở nên một cuộc tương giao mật thiết (Gi. 17:3) (1) “nhìn biết”: Gr. γινώσκω [ginosko] E “nghiệm biết” (2) “Đức Chúa Trời có một và thật”: Gr. μόνος ἀληθινός θεός [monos alethinos theos] E “Đức Chúa Trời duy nhất chân thật” (3) “Jêsus Christ”: Gr. ʼΙησοῦς Χριστός [Iesous Christos] E “Jêsus Đấng Mêsia” (4) “đã sai đến”: Gr. ἀποστέλλω [apostello] E “đã được chỉ định” II. ÁP DỤNG “Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người.” (Gi. 1:3; 1Gi. 5:12) 1. Phải biết phó thác đời sống mình cho Đức Chúa Jêsus Christ trên mọi lĩnh vực. “Và nhân quyền phép Cha đã ban cho Con cai trị loài xác thịt, Con được ban sự sống đời đời cho những kẻ mà Cha đã giao phó cho Con.” (Gi. 17:2) 2. Phải biết chăm chút cho cuộc giao ngộ với Đức Chúa Jêsus Christ ngày càng phước hạnh hơn. “Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến.” (Gi. 17:3) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“BẢN CHẤT CỦA ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC” (1Gi. 5:11-13) “Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài. Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống. Ta đã viết những điều nầy cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời.” (1Gi. 5:11-13) Về bản chất, “Đời Sống Cơ Đốc” là sự thể hiện ra của “Sự Sống Đời Đời” trong đời sống cá nhân của mỗi Cơ Đốc Nhân chân chính… Kinh Thánh: “11Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài. 12Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống. 13Ta đã viết những điều nầy cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời.” (1Gi. 5:11-13) Và, theo lẽ thật Kinh Thánh, “Sự Sống Đời Đời” trong đời sống của Cơ Đốc Nhân chỉ có được trong và qua mối hiệp thông giữa họ với chính Đức Chúa Jêsus Christ… Câu Gốc: “Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống” (1Gi. 5:12a) I. GIẢI NGHĨA “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” (Gi. 3:16) 1. Sự sống đời đời có bản chất thuộc linh và bản thể của sự sống đời đời là Đức Chúa Jêsus Christ (1Gi. 5:11) (1) “đã ban”: Gr. δίδωμι [didomi] >> “cho”, “tặng” (2) “sự sống đời đời”: Gr. ζωή αἰώνιος [zoe aionios] >> “sự sống vĩnh cửu” (3) “ở trong Con Ngài”: Gr. ἐν ὁ υἱός αὐτός ἐστί [en ho huios autos esti] >> “ở trong Đức Chúa Con của Ngài” 2. Cuộc hiệp thông giữa mỗi Cơ Đốc Nhân với Đức Chúa Jêsus Christ là sự sống đời đời (1Gi. 5:12) (1) “có”: Gr. ἔχω ὁ υἱός [echo ho huios] >> “vang Chúa ra” (2) “không có”: Gr. μή ἔχω ὁ υἱός [me echo ho huios] >> “chẳng vang Chúa ra” 3. Bởi đức tin mà Cơ Đốc Nhân được ở trong sự sống đời đời (1Gi. 5:13) (1) “biết”: Gr. οιδα [oida] >> “ý thức được” (2) “tin”: Gr. πιστεύω [pisteuo] >> “tín thác” (3) “danh”: Gr. ὄνομα [onoma] >> “công trình và sự nghiệp của một người” II. ÁP DỤNG “Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống” (1Gi. 5:12a) 1. Phải chắc rằng mình là người đã đặt đức tin nơi công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ cho được sự tha tội. “11Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài… 13Ta đã viết những điều nầy cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời.” (1Gi. 5:11, 13; Sv. Gi. 3:16) 2. Phải tra xem đời sống mình có phải là một cuộc liên hiệp thực sự với Đức Chúa Jêsus Christ hay không. “Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống.” (1Gi. 5:12) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“KHÁI QUÁT VỀ ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC” (1Ti. 6:11-12) “Hãy vì đức tin mà đánh trận tốt lành, bắt lấy sự sống đời đời, là sự mà con đã được gọi đến, và vì đó mà con đã làm chứng tốt lành trước mặt nhiều người chứng kiến.” (1Ti. 6:12) Đời sống Cơ Đốc là đời sống thể hiện đức tin nơi Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ… Kinh Thánh: “11Nhưng, hỡi con, là người của Đức Chúa Trời, hãy tránh những sự đó đi, mà tìm điều công bình, tin kính, đức tin, yêu thương, nhịn nhục, mềm mại. 12Hãy vì đức tin mà đánh trận tốt lành, bắt lấy sự sống đời đời, là sự mà con đã được gọi đến, và vì đó mà con đã làm chứng tốt lành trước mặt nhiều người chứng kiến.” (1Ti. 6:11-12) Sự thể hiện ấy mang tính đức tin, tính chiến đấu, và tính minh chứng trên mọi phương diện của đời sống… Câu Gốc: “Hãy vì đức tin mà đánh trận tốt lành, bắt lấy sự sống đời đời, là sự mà con đã được gọi đến, và vì đó mà con đã làm chứng tốt lành trước mặt nhiều người chứng kiến.” (1Ti. 6:12) I. GIẢI NGHĨA “Chúa biết kẻ thuộc về Ngài” (2Ti. 2:19b) 1. Người của Đức Chúa Trời (“Cơ Đốc Nhân”) phải có các biểu hiện của sự sống đời đời! (1Ti. 6:11) (1) “người của Đức Chúa Trời”: Gr. ἄνθρωπος ὁ θεός [anthropos ho theos] >> “người thuộc về Đức Chúa Trời” (“Cơ Đốc Nhân”). (2) “công bình”: Gr. δικαιοσύνη [dikaiosune] >> “tình trạng được Đức Chúa Trời chuẩn thuận”. (3) “tin kính”: Gr. εὐσέβεια [eusebeia] >> “sự thượng tôn đối với Đức Chúa Trời”. (4) “đức tin”: Gr. πίστις [pistis] >> “trạng thái hiểu biết, chấp nhận, tin tưởng đối với Đức Chúa Trời”. (5) “yêu thương”: Gr. ἀγάπη [agape] >> “năng lực tận hiến bất vụ lợi cho tha nhân”. (6) “nhịn nhục”: Gr. ὑπομονή [hupomone] >> “sự bền lòng chịu đựng”. (7) “mềm mại”: Gr. πρᾳότης [praotes] >> “sự nhẹ nhàng”. 2. Người của Đức Chúa Trời (“Cơ Đốc Nhân”) phải dấn thân trong cuộc chiến cho sự sống đời đời! (1Ti. 6:12) (1) “vì đức tin mà đánh trận tốt lành”: Gr. ἀγωνίζομαι ὁ καλός ἀγών ὁ πίστις [agonizomai ho kalos agon ho pisti s] >> “đánh cho tốt trận đánh của đức tin”. (2) “bắt lấy”: Gr. ἐπιλαμβάνομαι [epilambanomai] >> “lấy, giành được”. (3) “sự sống đời đời”: Gr. αἰώνιος ζωή [aionios zoe] >> “sự sống trong mối hiệp thông với Đức Chúa Trời”. (4) “gọi đến”: Gr. καλέω [kaleo] >> “được gắn tên vào”. (5) “làm chứng”: Gr. ὁμολογία [homologia] >> “sự minh thị ra”. II. ÁP DỤNG “18Hỡi Timôthê, con ta, sự răn bảo mà ta truyền cho con, theo các lời tiên tri đã chỉ về con, tức là, phải nhờ những lời đó mà đánh trận tốt lành, 19cầm giữ đức tin và lương tâm tốt.” (1Ti. 1:18-19a) 1. Phải sống sao cho các biểu hiện của sự sống đời đời trong đời sống mình ngày càng có nhiều hơn và rõ ràng hơn! “Nhưng, hỡi con, là người của Đức Chúa Trời, hãy tránh những sự đó đi, mà tìm điều công bình, tin kính, đức tin, yêu thương, nhịn nhục, mềm mại.” (1Ti. 6:11) 2. Phải đấu tranh cho đức tin mình thắng hơn mọi trở lực để luôn được ở trong mối hiệp thông với Đức Chúa Trời! “Hãy vì đức tin mà đánh trận tốt lành, bắt lấy sự sống đời đời, là sự mà con đã được gọi đến, và vì đó mà con đã làm chứng tốt lành trước mặt nhiều người chứng kiến.” (1Ti. 6:12) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“VÀI HIỂU BIẾT CĂN BẢN VỀ ĐỜI SỐNG THUỘC LINH” (1Cô. 10:31) “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm.” (1Cô. 10:31) Đời sống thuộc linh là phương tiện cho một mục đích nhất định. Mục đích chung cuộc của mọi đời sống Cơ Đốc là trở nên giống với Đức Chúa Jêsus về tính cách, phẩm hạnh, hành vi. Mục đích ấy của mọi đời sống Cơ Đốc chỉ có thể được hoàn thành nhờ sự gia tăng trong đời sống của họ về… - Sự nương cậy trên quyền năng và sự ban quyền năng của Đức Thánh Linh. - Sự vâng phục đối với Lời Đức Chúa Trời. - Sự nhận thức nghiêm túc về vị trí của mình trong Đức Chúa Jêsus Christ. - Sự thực hành các nguyên tắc Kinh Thánh về đời sống thuộc linh. Như vậy, mục đích tối hậu của đời sống thuộc linh là một mục đích hai phương diện: 1. Có đời sống giống theo Đức Chúa Jêsus Christ. “Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em” (Rô. 8:29) “Như chúng ta đã mang ảnh tượng của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang ảnh tượng của người thuộc về trời” (1Cô. 15:49) “16Khi họ sẽ trở lại cùng Chúa, thì màn ấy mới cất khỏi. 17Vả, Chúa tức là Thánh Linh, Thánh Linh của Chúa ở đâu, thì sự tự do cũng ở đó. 18Chúng ta ai nấy đều để mặt trần mà nhìn xem vinh hiển Chúa như trong gương, thì hóa nên cũng một ảnh tượng Ngài, từ vinh hiển qua vinh hiển, như bởi Chúa, là Thánh Linh” (2Cô. 3:16-18) “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chính lúc bây giờ chúng ta là con cái Đức Chúa Trời, còn về sự chúng ta sẽ ra thể nào, thì điều đó chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ thấy Ngài như vốn có thật vậy” (1Gi. 3:2) “22Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình. 23Vì, nếu có kẻ nghe lời mà không làm theo, thì khác nào người kia soi mặt mình trong gương, 24thấy rồi thì đi, liền quên mặt ra thể nào. 25Nhưng kẻ nào xét kĩ luật pháp trọn vẹn, là luật pháp về sự tự do, lại bền lòng suy gẫm lấy, chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó, thì kẻ đó sẽ tìm được phước trong sự mình vâng lời” (Gia. 1:22-25) 2. Hữu ích cho Đức Chúa Trời trong việc hoàn thành mục đích của Ngài trên thế gian. “Vả, vua Đavít lúc còn sống, làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời, đoạn qua đời; người đã được trở về cùng các tổ phụ mình, và đã thấy sự hư nát” (Công. 13:36) “14Vì tình yêu thương của Đấng Christ cảm động chúng tôi, và chúng tôi tưởng rằng nếu có một người chết vì mọi người, thì mọi người đều chết, 15lại Ngài đã chết vì mọi người, hầu cho những kẻ còn sống không vì chính mình mà sống nữa, nhưng sống vì Đấng đã chết và sống lại cho mình” (2Cô. 5:14-15) Nhìn chung vào đời sống thuộc linh, mục đích sống tổng quát - một sự hợp nhất giữa hai phương diện kể trên - của mỗi Cơ Đốc Nhân là sống tôn qui vinh hiển cho Đức Chúa Trời: “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm” (1Cô. 10:31) Giới lãnh đạo thuộc linh càng cần nhạy bén hơn trong việc sống giống Chúa, hoàn thành sự kêu gọi Thiên Thượng, tôn qui vinh hiển về Ba Ngôi Đức Chúa Trời: “1Thần của Chúa Giêhôva ngự trên ta; vì Đức Giêhôva đã xức dầu cho ta, đặng giảng Tin Lành cho kẻ khiêm nhường. Ngài đã sai ta đến đặng rịt những kẻ vỡ lòng, đặng rao cho kẻ phu tù được tự do, kẻ bị cầm tù được ra khỏi ngục; 2đặng rao năm ban ơn của Đức Giêhôva, và ngày báo thù của Đức Chúa Trời chúng ta; đặng yên ủi mọi kẻ buồn rầu; 3đặng ban mão hoa cho kẻ buồn rầu ở Siôn thay vì tro bụi, ban dầu vui mừng thay vì tang chế, ban áo ngợi khen thay vì lòng nặng nề; hầu cho những kẻ ấy được xưng là cây của sự công bình, là cây Đức Giêhôva đã trồng để được vinh hiển” (Ês. 61:1-3) Trong việc hoàn thành mục đích của đời sống thuộc linh, có hai nguyên tắc cần phải được hiểu và áp dụng: (1) Không phải Đức Chúa Trời kêu gọi mỗi Cơ Đốc Nhân tự sống đời sống Cơ Đốc theo sức riêng của mình. (2) Cơ Đốc Nhân không thể nhờ việc tự cố gắng để trở nên giống với Đức Chúa Jêsus Christ mà phải tuyệt đối nương cậy quyền năng Đức Thánh Linh để có kết quả ở các bông trái của sự công bình. “1Ta là gốc nho thật, Cha Ta là người trồng nho. 2Hễ nhánh nào trong Ta mà không kết quả thì Ngài chặt hết; và Ngài tỉa sửa những nhánh nào kết quả, để được sai trái hơn. 3Các ngươi đã được trong sạch, vì lời Ta đã bảo cho. 4Hãy cứ ở trong Ta, thì ta sẽ ở trong các ngươi. Như nhánh nho, nếu không dính vào gốc nho, thì không tự mình kết quả được, cũng một lẽ ấy, nếu các ngươi chẳng cứ ở trong Ta, thì cũng không kết quả được. 5Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh. Ai cứ ở trong Ta và Ta trong họ thì sinh ra lắm trái; vì ngoài Ta, các ngươi chẳng làm chi được. 6Nếu ai chẳng cứ ở trong Ta thì phải ném ra ngoài, cũng như nhánh nho; nhánh khô đi, người ta lượm lấy, quăng vào lửa, thì nó cháy. 7Ví bằng các ngươi cứ ở trong Ta, và những lời Ta ở trong các ngươi, hãy cầu xin mọi điều mình muốn, thì sẽ được điều đó. 8Nầy, Cha Ta sẽ được sáng danh là thể nào: Ấy là các ngươi được kết nhiều quả, thì sẽ làm môn đồ của Ta vậy.” (Gi. 15:1-8) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“SỨ MỆNH CỦA NỮ GIỚI” (Sáng. 2:18) “Giêhôva Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó.” (Sáng. 2:18) Nữ giới, hiểu cho đúng, có một sứ mệnh. Sứ mệnh ấy là gì? Hiểu một cách chặc chẽ thì nữ giới giữ một giai trật như thế nào trong đời sống? Cứu cánh mà nữ giới phải nhắm đến là gì? Ở chừng mực nào thì nữ giới được tôn trọng cách hợp lẽ, và ở chừng mực nào thì nữ giới sẽ bị kể là đáng xem thường? Đây phải là một đề tài đáng được nữ giới hiểu cách thấu đáo để biết điều gì là nên có và điều gì là chẳng nên có; từ đó nữ giới sẽ biết họ phải làm điều gì và họ có quyền mong đợi những điều gì. Tôi sẽ cố gắng tách vạch vấn đề để nêu lên bản chất của sứ mệnh của nữ giới. Để có thể làm được điều ấy tôi sẽ cần phải dựa vào các sự khải thị Thiên Thượng có liên quan trong Kinh Thánh chứ không phải theo chủ trương của các nhà đạo đức học, kinh tế học, hay triết học. Đây là nguyên tắc của tôi cho vấn đề này: Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo đã tạo dựng nên cả hai giới tính, nam giới và nữ giới; Ngài là Kiến Trúc Sư của xã hội loài người; Ngài là Đấng Tài Phán cho mọi phận sự, quyền lợi, và miễn trừ xã hội. Những điều ấy là giá trị chung của những người tin theo thẩm quyền Kinh Thánh. Thưa các bạn nữ giới, các bạn phải biết hài lòng theo chỉ định Thiên Thượng đối với nữ giới của mình. Các bạn phải như thế. Đấng đã tạo dựng nên các bạn phải là Đấng xứng đáng nhất trong việc ban bố ý chỉ của Ngài để các bạn sẽ được an toàn nhất nếu như các bạn biết thuận phục Ngài, chịu nương cậy Ngài để Ngài hoàn thiện vai trò của các bạn và giúp các bạn hiểu rõ ý chỉ của Ngài đối với mình là thế nào. Nữ giới, cũng như nam giới, có một sự kêu gọi Thiên Thượng là phải tôn vinh hiển Đức Chúa Trời như là cứu cánh của đời mình và phải hoàn thành mọi phận sự cũng như vui hưởng mọi phước hạnh của một đời sống tin kính. Nữ giới, cũng giống như nam giới, đều là tạo vật bất tử, có năng lực lý trí, và đã vướng tội đối với Đức Chúa Trời; đều được ở dưới sự chế định của ân điển, đều được đòi hỏi phải ăn năn tội của mình trước mặt Đức Chúa Trời và phải có đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ cho được sự sống đời đời. Nữ giới cũng có thiên hướng tôn giáo như bất kỳ ai khác. Trong Đức Chúa Jêsus, “không còn đàn ông hoặc đàn bà” (Sv. Gal. 3:28) mà tất cả đều cùng ở trên một mặt bằng về nghĩa vụ, trách nhiệm, và đặc quyền… Để có thể biết sứ mệnh của nữ giới là gì trước nhất chúng ta phải tham chiếu các bản văn Kinh Thánh có liên quan để biết chắc được ý chỉ của Đức Chúa Trời về mục đích tạo dựng nữ giới mà Ngài đã định mạng từ ban đầu. “Giêhôva Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó” (Sáng. 2:18). Lời phán này đã được làm cho rõ nghĩa hơn khi Đức Chúa Trời phán rằng “Ađam đặt tên các loài súc vật, các loài chim trời cùng các loài thú đồng; nhưng về phần Ađam, thì chẳng tìm được một ai giúp đỡ giống như mình hết” (Sáng. 2:20). Những lời phán này xác định một lẽ thật hiển nhiên là nữ giới đã được tạo dựng cho nam giới. Ađam đã được tạo dựng theo những thiên hướng xã hội chưa phát triển nhất định mang tính bản chất đối với tất cả mọi người. Chỉ duy nhất Đấng có thần tính mới có được sự uy nghi cá biệt độc lập hẳn với thế giới khách quan trên vấn đề hạnh phúc. Đức Chúa Trời, và chỉ duy nhất Ngài, là căn nguyên của sự vinh hiển Ngài, là nguồn của hạnh phúc Ngài, là khách thể của chính tư duy Ngài; Ngài không hề cần bất cứ gì cho hạnh phúc Ngài mà tất cả đều là sự tự tri, tự giác của Ngài. Ngay cả Thiên Sứ Trưởng trên Thiên Đàng cũng có thể trở nên héo hon nếu thiếu tất cả mọi mối thông công, chỉ duy nhất Đức Chúa Trời là Đấng có năng lực tự thông công. Ađam đã được ở giữa mọi vinh quang của Vườn Êđen, được ở giữa muôn loài sinh vật vẫn cảm thấy cần phải có tình bạn. Thiếu tình bạn, đời sống của Ađam sẽ chỉ còn là một nỗi cô đơn, và Vườn Êđen cũng sẽ chỉ là hoang mạc mà thôi. Được phú cho một bản chất giàu truyền thông đến độ không thể nào thỏa mãn được với việc tự truyền thông người nam khát khao về một cộng đoàn, khát khao về sự hỗ trợ, khát khao về một sự bổ sung cho sự hiện hữu của mình và chừng nào chưa tìm được những sự ấy thì người nam vẫn còn phải sống trong một trạng thái nửa vời. Người nam đã được tạo dựng để tư duy, để nói, để yêu và tư tưởng của người nam cần có được các hoạt động và tư tưởng tương tự để giao lưu và thăng hoa. Trong trạng thái cô độc, lời nói của người nam trở thành những vang vọng không có hồi âm trong không gian như một sự giễu cợt tai quái. Trong trạng thái cô độc, tình yêu của người nam không thể nào tìm ra được nơi đáp đậu để rồi trở thành như là một sự đè nén trong lồng ngực mình, rồi tự suy thoái đi, và lắng đọng thành hiểm họa tàn phá chính bản thân mình. Cả con người của người nam cứ hoài vọng về một con người khác nhưng con người khác ấy là một thực thể chưa hiện hữu… Chẳng có bất cứ một sự hỗ trợ nào cho người nam cả. Trong trạng thái cô độc, nhìn vào các tạo vật, người nam thấy sao chúng thấp hơn mình quá nhiều. Nhìn vào Đấng Sáng Tạo là Đấng đã tạo dựng nên mình người nam thấy sao Ngài cao hơn mình quá nhiều. Người nam đã ở vào một trạng thái chơi vơi khi chưa có người đồng đẳng với mình. Thế nhưng, một khi Đức Chúa Trời đã tạo dựng xong người nữ cho Ađam thì tất cả mọi vấn đề đều đã được giải quyết ngay lập tức! Như vậy là trong trạng thái còn uyên nguyên, chưa bị sa bại, người nam mong có được người đồng đẳng cùng mình để san sẻ niềm vui, cũng giống như sau khi bị sa bại người nam có thêm nhu cần được san sẻ nỗi buồn. Liệu Ađam có thiết tha đến mức dám bày tỏ nguyện vọng của mình với Đức Chúa Trời hay không thì chúng ta không biết được. Thế nhưng, theo như sự trước thuật trong Kinh Thánh cho biết thì có vẻ như Đức Chúa Trời đã cung ứng cho Ađam nguồn phúc lợi này theo ý chỉ tốt đẹp của Ngài cũng giống như vô số các nguồn phúc lợi khác. Nếu việc Đức Chúa Trời ban Êva cho Ađam xuất phát từ chính ý chỉ của Ngài thì thật đáng để cho Ađam đáng ca ngợi Đức Chúa Trời theo như lời của hậu tự của mình nhiều đời về sau đã ca ngợi là “Vì Chúa lấy phước lành mà đón rước người;_Đội trên đầu người mão triều bằng vàng ròng” (Thi. 21:3). Như vậy, đây là sự chế định của Đức Chúa Trời trong việc tạo dựng nữ giới: Đức Chúa Trời đã tạo dựng nữ giới để làm bạn đời cho nam giới. Người nam cần bạn đồng hành và Đức Chúa Trời đã ban người nữ cho người nam. Và, vì lúc bấy giờ chẳng còn có người nam nào khác hơn là Ađam cho nên chúng ta phải hiểu rằng Êva đã được tạo dựng làm nguồn an ủi cho duy nhất Ađam. Điều này dạy cho chúng ta một nguyên tắc căn bản là cho dầu sứ mệnh người nữ là gì đi nữa thì, ít nhất là trong đời sống hôn nhân, thì người nữ cứ là người bạn đời của người nam mà người nữ đã được phối hiệp. Điều đã được chính Đức Chúa Trời tuyên bố ngay từ khởi thủy là quan hệ hôn nhân là một quan hệ bất khả phân ly: “Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ nên một thịt” (Sáng. 2:24). Nếu như sứ mệnh của nữ giới trong Vườn Êđen đã là bạn đồng hành và niềm vui của nam giới thì sứ mệnh của người nữ ngày nay cũng phải giống như thế. Thiên chức của nữ giới không hề bị thay đổi bởi Cuộc Sa Bại của nguyên tổ của loài người. Sau Cuộc Sa Bại, nam giới càng cần sứ mệnh này của nữ giới nhiều hơn. Chính Đức Chúa Trời đã cho thấy rằng nữ giới phải gắn bó chặt chẽ hơn với sứ mệnh của họ. Ngài phán: “Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi” (Sáng. 3:16). Điều rõ ràng là nếu bị gỡ bỏ khỏi sự ràng buộc với nam giới thì nữ giới hoàn toàn tương đẳng với nam giới về bản chất. Thế nhưng nhìn vào cấu trúc thể lý của nữ giới thì lại thấy một điều hiển nhiên khác là toàn bộ cấu trúc thể lý của nữ giới là để thuận lợi cho việc thực hiện sứ mệnh của họ đối với nam giới theo sự thiết định của chính Đức Chúa Trời. Người nữ đã không được chiết ra từ đầu của người nam để hàm ý rằng nữ giới được cầm quyền trên nam giới; người nữ cũng đã không được chiết xuất ra từ chân của người nam để dạy rằng nam giới có quyền chà đạp nữ giới. Người nữ đã được chiết xuất từ hông của người nam để dạy về nguyên tắc là nữ giới là người đồng hành cùng nam giới. Rất có thể nói như thế là có phần tưởng tượng nhưng thật ra khi nhìn nhận vấn đề này trên một góc độ chân chính thì tất là phải có điều để học. Sự thể rằng nữ giới đã được tạo dựng để nắm giữ vai trò phối thuộc nam giới là rất hiển nhiên qua các sự dạy dỗ của Kinh Thánh. Điều này đã được tuyên bố trong Lời Kinh Thánh đã được trích rằng “sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi” (Sv. Sáng. 3:16). Lời này chẳng phải chỉ dành riêng cho duy nhất Êva mà còn là dành cho tất cả những người nữ mà Êva đại diện, tức toàn thể nữ giới. Đấy chính là luật Thiên Thượng cho mối quan hệ giữa hai giới tính, và rồi được triển khai cho toàn nhân loại muôn đời. Những lời đầu trong Sáng. 3:16, “Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con”, đã đặt người nữ trong tình trạng chịu phạt phải đau buồn; còn những lời này, “sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi”, nói về tình trạng phải phục tùng. Từ Cuộc Sa Bại, người chồng đã trở thành tâm điểm của mọi ưa muốn trên trần gian của người vợ và, trên một chừng mực nhất định, đã trở thành người qui định các sự ưa muốn ấy. Nam giới đã được tạo dựng để bày tỏ ra sự vinh hiển và chúc tụng cho Đức Chúa Trời, để làm người phục tùng Ngài và chỉ duy nhất Ngài mà thôi. Thên vào đó, nữ giới đã được tạo dựng cho sự vinh quang của nam giới qua việc phối thuộc nam giới như là trợ thủ và niềm vinh dự cho nam giới. Người nữ đã chẳng những được tạo dựng từ người nam mà cũng lại còn cho người nam nữa. Tất cả vẻ yêu kiều, duyên dáng, và trong sáng của nữ giới không chỉ là những biểu hiện cho sự tuyệt mỹ của họ mà cũng lại còn là cho sự tôn trọng và chân giá trị của nam giới vì tất cả những sự ấy chẳng những đã xuất xứ từ nam giới mà cũng còn là cho nam giới. Đó chính là vị trí của nữ giới theo trật tự của Đức Chúa Trời. Nếu như cần phải trích dẫn thêm các sự dạy dỗ Kinh Thánh khác thì lời của các Sứ Đồ cũng sẽ góp phần củng cố vị trí ấy của họ. “Ấy vậy, như Hội thánh phục dưới Đấng Christ, thì đàn bà cũng phải phục dưới quyền chồng mình trong mọi sự” (Êph. 5:24). Không phải chỉ có một mình Sứ Đồ PhaoLô truyền như thế mà chính Sứ Đồ Phierơ cũng dạy cùng một cách (Sv. 1Phi. 3:1-5). Nữ giới đừng nên cho rằng sự thuận phục này làm mất giá nữ giới. Người ta bảo rằng trong đời sống gia đình, nam giới tỏa sáng như mặt trời nhưng nữ giới cũng như mặt trăng phản chiếu cách êm dịu sự tỏa sáng của mặt trời. Chúng ta có thể diễn đạt theo một cách khác và chính xác hơn thế: Nam giới như một hành tinh chính phản ánh sự vinh hiển của Đức Chúa Trời là Đấng làm trung tâm của cả vũ trụ còn nữ giới như một vệ tinh được hình thành từ sự tráng lệ của Đấng tể trị cả vũ trụ và ở dưới quyền điều khiển của Ngài để bay quanh nam giới và bay cùng nam giới mà chăm nom cho nam giới. Như vậy thì vai trò của nữ giới có thể được tóm tắt bằng sự yêu thương và thuận phục vai trò làm chồng của nam giới. Tuy nhiên, kể từ Cuộc Sa Bại, tất cả những gì có liên quan đến mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới đều mang tính gay gắt cao. Tình yêu của người nữ đã trở nên mãnh liệt hơn, địa vị khiêm tốn của người nữ đã trở nên sâu rộng hơn. Bị các sự kém sút làm cho trở nên rụt rè trong xã hội người nữ chỉ còn có cách đi tìm con người mình trong tấm lòng của chồng mình, họ nhờ vào người nam của mình để lấy lại những thiệt thòi mà họ phải chịu đồng thời tuôn đổ tối đa trên người nam của mình sự khích lệ nhằm làm giảm nhẹ hoặc ngăn chặn các nỗi đắng cay vốn là hậu quả của tội lỗi trong đời sống xã hội. Như vậy, bất chấp là nữ giới có chức phận gì trong xã hội thể theo vai trò chính này của họ trong gia đình, và bất chấp phúc lợi xã hội nào hay quyền lực nào mà nữ giới có thể tạo ra cho đời sống xã hội từ các chức phận ấy, họ đều phải biết tự xem vai trò chính yếu của họ là làm nguồn an ủi cho chồng họ trong quan hệ hôn nhân. Nữ giới phải biết thăng tiến sự an sinh của mình qua việc thăng tiến sự an sinh của chồng họ và họ phải nhận được từ chồng của họ cách thường xuyên mọi điều thuộc về sự tôn trọng, sự che chở, sự ưu ái mà tính đồng đẳng về bản chất của họ, sự đồng hành của họ, sự hiến dâng của họ đáng phải được. Nữ giới, trong đời sống hôn nhân, luôn luôn là bạn đồng hành của chồng là người đồng điệu với họ trên mọi phương diện; là người có thể thố lộ với họ tất cả mọi niềm vui, nỗi buồn, mọi đau khổ, quằn quại sâu kín; là người xem sự hiện diện của họ trong đời sống mình là giàu ý nghĩa hơn cả thế giới còn lại; là người biết nghe lời họ nói như thể lắng nghe loại âm nhạc mình thích nhất; là người xem nụ cười của họ là niềm hân hoan của chính mình; là người biết hối tiếc, biết chuyện trò, biết đồng điệu mỗi dịp được gần gũi nhau; là người biết đồng hành với họ từ tấm lòng cho đến đôi chân; là người đồng cảm với họ ngay cả đối với những cử chỉ nhẹ nhàng của họ. Nữ giới, trong đời sống hôn nhân, luôn luôn là bạn đồng hành của chồng là người trong những giờ phút riêng tư có thể thố lộ với họ mọi uẩn khúc trong lòng; là người tìm thấy ở họ mọi khả năng an ủi, khích lệ dịu dàng của tình bạn thân mật; là người thưởng thức được những lời nói, nụ cười cởi mở đáng phải có từ một người bạn và cũng là trợ thủ mà chính Đức Chúa Trời đã trao ban cho họ. Trong tình bạn mà nữ giới đã được thiết định để ban cho nam giới tất nhiên là phải có các chức năng giao cảm của nữ giới trong vai trò của người an ủi. Trong những lúc riêng tư với nhau phận sự của người nữ là phải an ủi, khích lệ người nam của họ khi người ấy bị thương tổn hay bị xúc phạm; phận sự của người nữ là phải chia sẻ khi người người nam của mình bị oằn xuống vì gánh nặng công việc; phận sự của người nữ là phải biết nói những lời lành giúp làm êm dịu những nỗi buồn khổ của người nam của mình và phận sự của người nữ là phải biết làm tất cả những gì mà một thiên sứ chăm sóc có thể làm được cho người nam của mình. Người nữ phải biết cho và người nam phải biết nhận những khuyên can khôn ngoan có thể có được cho dầu rất có thể người nữ không thể nào am thạo hết những sự phức tạp, tinh tế trong thế giới công việc của người nam. Trên thực tế cũng như về nguyên tắc, sự khuyên can, an ủi phải phép của người nữ đã cứu vớt hàng ngàn người nam khỏi bị rơi vào sự sa bại. Ít có người chồng nào phải cảm thấy hối tiếc vì đã nghe theo những lời khuyên can khôn ngoan của vợ mình; ngược lại, có vô số người phải ân hận vì đã không tham vấn và không làm theo sự tư vấn khôn ngoan của người bạn đời của mình. Vậy thì, thể theo sự định mạng của Đấng Sáng Tạo và Tể Trị, nữ giới được định để làm bạn đời cho nam giới trong cuộc hành trình đi qua đời này. Tất nhiên là điều này chỉ được hoàn thành thông qua định chế hôn nhân, gia đình theo đúng công lệ tự nhiên và luật pháp của xã hội ràng buộc trên cả nam giới và nữ giới. Và, chỉ như thế mới là hợp Kinh Thánh. Đức Chúa Trời đã định mạng và bản chất người trong cả hai giới tính, nam giới và nữ giới, đều có một xu hướng như thế. Dẫu vậy, trên thực tế có vô số trường hợp không chịu sự ràng buộc trong định chế hôn nhân và phải chăng vì thế mà những người nữ ấy khỏi phải thi hành sứ mệnh Thiên Thượng này? Phải chăng chỉ có những người nữ nào ở trong hôn nhân mới phải thi hành sứ mệnh Thiên Thượng ấy? Chắc chắn là không. Trong các trường hợp ngoại lệ này thì phận sự cho những người nữ ấy là phận sự chung mà Đức Chúa Trời đã định cho nữ giới. Và, điều này có quan trọng không? Phải chăng là trải qua các đời và ở mọi quốc gia đã chẳng từng có sự ghi nhận về tính chất quan trọng và tầm ảnh hưởng lớn lao của các đặc trưng của nữ giới trên các phẩm hạnh xã hội, trên phúc lợi và sự cường thịnh của quốc gia, dân tộc? Mỗi người nữ, trong hôn nhân hoặc ngoài hôn nhân, đều có một tầm ảnh hưởng nhất định, hoặc tốt hoặc xấu, đối với thế giới quanh mình thể theo các nét đặc trưng của mình. Mỗi một người nữ, tùy theo thiện đức hay ác đức của họ, tùy theo sự thông tuệ hay u ám của họ, tùy theo sự cẩn trọng hay khinh suất của họ đều đóng góp một phần nhất định vào cuộc thăng trầm của đất nước họ. Chừng nào mà đức hạnh của nữ giới vẫn còn có ưu thế, vẫn còn được chính nữ giới duy trì và nam giới tôn trọng thì đất nước của họ vẫn còn chưa bị chìm vào hố sâu của sự ác được. Trên một chừng mực nhất định thì nữ giới là người duy trì phúc lợi cho đất nước của họ. Đức hạnh của nữ giới, nếu chưa bị hư hoại mà vẫn còn bền vững, sẽ là người lính canh hữu hiệu cho vương quốc của những điều thiện hảo. Nữ giới hoàn toàn có thể đóng góp những sự cống hiến của mình vào luật pháp, công bằng, tự do, và văn hóa, nghệ thuật cho sự hưng thịnh của đất nước họ. Nhưng, theo Kinh Thánh, phải giữ không được để sự răn dạy của nữ giới áp đảo vai trò của nam giới. Ngoại trừ điều ấy, sự thắng thế của trí tuệ và đức hạnh của nữ giới sẽ giúp gia tốc cho tiến trình văn minh nhân loại dễ đạt đến đỉnh cao, sản sinh ra vô số điều tốt đẹp trong đời sống xã hội. Một xã hội mà trong đó nữ giới có đủ điều kiện để hoàn thành các sứ mệnh Thiên Thượng của mình sẽ không dễ dàng bị sụp đổ nhờ sự tác động của sức mạnh của tấm lòng cao quí của họ trên những tấm lòng khác mà, còn hơn thế, nữ giới sẽ giúp vực xã hội mình đang sống lên một tầm cao mới của sự thịnh vượng và hạnh phúc. Và, trong trường hợp này, nữ giới đã hành sử phận sự của họ bên ngoài đời sống hôn nhân, gia đình và đó cũng là phận sự chính đáng của họ. Sứ mệnh của nữ giới bên ngoài đời sống hôn nhân, gia đình có phạm vi là đời sống xã hội, có đối tượng là sự hạnh phúc xã hội, và có phần thưởng là sự tri ân và trân trọng của xã hội. Nếu chúng ta nhận thức đúng về bản chất của sứ mệnh của người nữ thì chúng ta không thể sai về phạm vi của sứ mệnh của người nữ được. Nếu một người nữ đã được tạo dựng cho chỉ một người nam (chứ không phải cho cả xã hội người nam) thì hệ quả rất dễ nhận ra rằng gia đình là môi trường để người nữ thi thố bản lãnh và ảnh hưởng của mình vậy. Trong ngôn ngữ của loài người chỉ có một số rất ít các từ liệu có khả năng nói lên được niềm hạnh phúc tuyệt vời cho tất cả mọi tấm lòng như hai tiếng “gia đình”. “Gia Đình” là thiên đường của tình yêu, là môi trường an toàn nhất cho các mối quan hệ dịu dàng, là thánh địa của sự hòa thuận, là nơi dẫu giàu nhưng không phí và dẫu nghèo nhưng không cực. “Gia Đình” là nơi bệnh mà không đau. “Gia Đình” là nơi phát ra câu thần chú quyến rũ nhất xuyên qua mọi đại lục và đại dương khiến cho những ai dẫu đang say sưa phiêu bạt giang hồ cũng phải dừng chân ngẫm nghĩ. “Gia Đình”. Vâng, chính trong gia đình mà sứ mệnh của những người nữ trong hôn nhân xuất phát và hoàn thành. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“VŨ KHÍ CHO TRẬN CHIẾN THUỘC LINH” (Êph. 6:11) “Hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời, để được đứng vững mà địch cùng mưu kế của Ma Quỉ.” (Êph. 6:11) Phận sự phải giữ thế chủ động để chiến đấu và chiến thắng trên mặt trận với Satan và các quỉ sứ của nó là hiển nhiên theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh Tân Ước: “Hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời, để được đứng vững mà địch cùng mưu kế của Ma Quỉ” (Êph. 6:11) Chúng ta phải được chuẩn bị sẵn sàng, và phải được ban quyền năng để tấn công thu hẹp lãnh địa của kẻ thù. Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng đã thắng muốn chúng ta cũng thắng cùng với Ngài. Bí quyết để thắng trên mặt trận đối với xác thịt là sự nhận biết và thực hành thành thục các phản ứng mặc định đối với sự cám dỗ của tư dục mình; bí quyết để thắng trên mặt trận đối với thế gian là sự đổi mới tấm lòng (thuộc linh) bằng việc lập trình cho nó với Lời Kinh Thánh; và bí quyết để thắng trên mặt trận với Ma Quỉ là sự kháng cự (theo nghĩa rộng đã được trình bày trong phần trên). Vũ khí cho trận chiến thuộc linh là tất cả những gì có cần cho chúng ta để chiến đấu và chiến thắng trên cả ba mặt trận ấy…. “14Vậy, hãy đứng vững, lấy lẽ thật làm dây nịt lưng, mặc lấy giáp bằng sự công bình, 15dùng sự sẵn sàng của Tin lành bình an mà làm giày dép. 16Lại phải lấy thêm đức tin làm thuẫn, nhờ đó anh em có thể dập tắt được các tên lửa của kẻ dữ. 17Cũng hãy lấy sự cứu chuộc làm mão trụ, và cầm gươm của Đức Thánh Linh, là lời Đức Chúa Trời. 18Hãy nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin. Hãy dùng sự bền đỗ trọn vẹn mà tỉnh thức về điều đó, và cầu nguyện cho hết thảy các thánh đồ” (Êph. 6:14-18) I. “LẤY LẼ THẬT LÀM DÂY NỊT LƯNG” Dây nịt lưng của các chiến sĩ La Mã là công cụ để họ giữ cho bộ quân phục được tề chỉnh, và để đeo vũ khí vào người. Satan và các quỉ sứ của nó là một bọn lừa đảo, tư thế và vũ khí của chúng ta phải được ổn định nhờ dây nịt lưng bằng lẽ thật Kinh Thánh. Càng hiểu biết về Thân Vị và Công Nghiệp của Đức Chúa Jêsus Christ thì chúng ta càng giữ được cho mình thế đứng vững vàng trong thẩm quyền của Ngài để kháng cự mọi kẻ thù thuộc linh. Khi được nịt lưng vững vàng, chúng ta không còn ngại ngùng trong trận chiến thuộc linh nữa vì biết rằng “chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần” (Rô. 8:37). “Lấy lẽ thật làm dây nịt lưng” là đứng vững nhờ các lẽ thật Kinh Thánh và đứng vững cho các lẽ thật Kinh Thánh thể hiện bằng thực tế của nếp nghĩ và hành vi thường ngày của chúng ta… “Hỡi con trẻ, ta đã viết cho các con, vì các con đã biết Đức Chúa Cha. Hỡi phụ lão, tôi đã viết cho các ông, vì các ông đã biết Đấng có từ lúc ban đầu. Hỡi kẻ trẻ tuổi, ta đã viết cho các ngươi, vì các ngươi là mạnh mẽ, lời Đức Chúa Trời ở trong các ngươi, và các ngươi đã thắng được Ma Quỉ” (1Gi. 2:14) II. “MẶC LẤY GIÁP BẰNG SỰ CÔNG BÌNH” “Giáp” là công cụ che chắn các cơ quan trọng yếu cho cơ thể của các chiến sĩ. Thiếu giáp, các chiến sĩ sẽ dễ dàng bị tổn thương. Chúng ta không tự làm ra được sự công bình cho mình trước mặt Đức Chúa Trời, nhưng chúng ta được Ngài mặc cho sự công bình qui kết từ sự công bình của Đức Chúa Jêsus, nhờ đó chúng ta được đứng ở địa vị của người công bình theo sự chuẩn nhận của Đức Chúa Trời. Thiếu địa vị công bình ấy, các Cơ Đốc Nhân chẳng làm sao hơn hẳn được các kẻ thù thuộc linh của họ. Đức Chúa Jêsus Christ đã ban cho Cơ Đốc Nhân địa vị công bình và Ngài muốn họ “mặc lấy giáp của sự công bình”, tức thực hành đời sống công bình, xứng đáng theo địa vị đã được qui kết: “Nhưng chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy dè giữ, mặc áo giáp bằng đức tin và lòng yêu thương, lấy sự trông cậy về sự cứu rỗi làm mão trụ” (1Tê. 5:8) III. “DÙNG SỰ SẴN SÀNG CỦA TIN LÀNH BÌNH AN MÀ LÀM GIÀY DÉP” “Làm giày dép” là bao bọc đôi bàn chân bằng một loại công cụ thích nghi nào đó để giúp bảo vệ và làm tăng sức mạnh của bước chân người chiến sĩ. Có giày dép, người chiến sĩ sẽ thuận lợi hơn cả trong phòng thủ lẫn tấn công. “Dùng sự sẵn sàng của Tin Lành bình an” nói về tình trạng sẵn sàng xung trận, chia sẻ sứ điệp bình an với Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ (Sv. Rô. 5:1). Sự bình an này là sự phục hòa với Đức Chúa Trời (Sv. 2Cô. 5:20-21) để được ở trong mối thông công với Ngài, có được sự bình an của Ngài (Sv. Php. 4:7) là điều mà các Cơ Đốc Nhân sẽ kinh nghiệm. IV. “LẤY THÊM ĐỨC TIN LÀM THUẪN” “Thuẫn” là một công cụ để đỡ của người chiến sĩ, công cụ này sẽ giúp cho họ đỡ những đòn đâm, chém, bắn tên,… Đức Chúa Jêsus Christ là Thuẫn Thiên Thượng cho Cơ Đốc Nhân chúng ta, giúp cho chúng ta có thể đỡ, gạt trong mọi hoàn cảnh nếu như chúng ta thực sự có đức tin đặt nơi Ngài. Nếu chúng ta thực sự tin cậy Đức Chúa Jêsus Christ, Ngài sẽ trở thành nguồn tin tưởng và hy vọng tối hậu cho chúng ta chứ không phải là bất cứ gì khác. “Lấy thêm đức tin làm thuẫn” là sự kêu gọi của Đức Chúa Jêsus Christ dành cho chúng ta. Đức Chúa Jêsus Christ muốn chúng ta ngưỡng vọng nơi Ngài, chú mục nơi Ngài, đừng để bị kẻ thù thuộc linh của chúng ta chi phối mà trở thành phân tâm, mất tập trung… “…Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi” (Ma. 22:37) “Nếu ai hầu việc Ta, thì phải theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ hầu việc Ta cũng sẽ ở đó; nếu ai hầu việc Ta, thì Cha Ta ắt tôn quí người” (Gi. 12:26) V. “LẤY SỰ CỨU CHUỘC LÀM MÃO TRỤ” “Mão trụ” là công cụ làm bằng kim loại để che phần đầu cho người chiến sĩ. Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta cũng phải có “mão trụ” thuộc linh là một đời sống tâm trí phù hợp với vị trí mới mà chúng ta có được trong Đức Chúa Jêsus Christ. “Lấy sự cứu chuộc làm mão trụ” là bảo vệ đời sống tâm trí của chúng ta bằng những suy nghĩ hợp Kinh Thánh dành cho con người mới trong Đức Chúa Jêsus Christ: “1Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. 2Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất; 3vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời” (Côl. 3:1-3) “Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều chi chân thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thanh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen, thì anh em phải nghĩ đến” (Php. 4:8) VI. “CẦM GƯƠM CỦA ĐỨC THÁNH LINH” “Gươm” là vũ khí chính yếu của người chiến sĩ để chiến đấu và chiến thắng, trong đó tấn công là chính. Trong trận chiến thuộc linh, Cơ Đốc Nhân phải là những chiến sĩ thiện chiến, trong đó sự thành thục về Lời Đức Chúa Trời là điều tối cần thiết để họ có đủ sự khôn ngoan được ban cho từ Thiên Thượng cho mọi hoàn cảnh. Việc “cầm gươm của Đức Thánh Linh, là lời Đức Chúa Trời” đòi hỏi Cơ Đốc Nhân chúng ta một nền nếp kỷ luật hàng ngày trong việc dành công sức và thời gian cho việc đọc, học, suy gẫm lời Kinh Thánh trong tinh thần cầu nguyện, mong đợi nhận được sự dạy dỗ từ Thiên Thượng. “Cầm gươm của Đức Thánh Linh, là lời Đức Chúa Trời” là thường xuyên sống trong Lời Đức Chúa Trời… “Đức Chúa Jêsus đáp: Có lời chép rằng, người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời” (Ma. 4:4) VII. “LÀM ĐỦ MỌI THỨ CẦU NGUYỆN VÀ NÀI XIN” Sự cầu nguyện là một loại vũ khí đặc biệt mà chỉ có các Cơ Đốc Nhân mới có được. Sự cầu nguyện chính là vũ khí chuyên dùng cho trận chiến thuộc linh của các tín hữu của Đức Chúa Jêsus Christ: “4Vả, những khí giới mà chúng tôi dùng để chiến tranh là không phải thuộc về xác thịt đâu, bèn là bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, có sức mạnh để đạp đổ các đồn lũy: 5Nhờ khí giới đó chúng tôi đánh đổ các lý luận, mọi sự tự cao nổi lên nghịch cùng sự hiểu biết Đức Chúa Trời, và bắt hết các ý tưởng làm tôi vâng phục Đấng Christ” (2Cô. 10:4-5) “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời” (Php. 4:6) “16Hãy vui mừng mãi mãi, 17cầu nguyện không thôi, 18phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy” (1Tê. 5:16-18) Đức Chúa Cha đã giao quyền phán xét cho Đức Chúa Con (Gi. 5:22). Một số quỉ đã bị phán xét và đã bị tống giam rồi (2Phi. 2:4; Giu. 6); nhưng, vẫn có một số quỉ sẽ còn được thả ra trong Thời Kỳ Khổ Nạn (Khải. 9:1-11; 16:13-14). Dầu vậy, bởi Thập Tự Giá, Đức Chúa Jêsus Christ đã đánh bại quỉ quốc của Satan (Gi. 12:31; Lu. 10:18), “Ngài đã truất bỏ các quyền cai trị cùng các thế lực, dùng thập tự giá chiến thắng chúng nó, và nộp ra tỏ tường giữa thiên hạ” (Côl. 2:15; 1Phi. 3:22). “Con Đức Chúa Trời đã hiện ra để hủy phá công việc của Ma Quỉ” (1Gi. 3:8b), “vua chúa thế gian nầy đã bị đoán xét” (Gi. 16:11) và án sẽ được đem ra thi hành vào Ngày Của Chúa (trong Kỳ Tái Lâm của Ngài). Cho đến ngày ấy, trận chiến thuộc linh sẽ vẫn cứ tiếp tục và sẽ phát triển lên đỉnh cao khi sự kiềm chế của Đức Thánh Linh đối với điều ác trên thế gian sẽ được cất bỏ và Satan sẽ ban quyền lực cho “kẻ nghịch cùng Luật Pháp” làm công việc nó (Sv. 2Tê. 2:6-12). Qua Kẻ Đối Địch và Tiên Tri Giả, Satan sẽ bắt bớ các tín hữu của Đức Chúa Jêsus Christ (Khải. 13:4-8). Michen (Micaên) sẽ cùng các thiên sứ của mình tiến hành cuộc chiến tranh với Satan và các quỉ sứ của nó và các thiên sứ của Michen sẽ trục xuất chúng khỏi Thiên Đàng (Đa. 12:1; Khải. 12:7-9). Trong Kỳ Tái Lâm của Đức Chúa Jêsus Christ, Satan sẽ bị xiềng (Ês. 14:15; Khải. 20:1-3). Sau giai đoạn này sẽ diễn ra cuộc tranh chấp cuối cùng, Satan cùng với các thế lực vây cánh của nó sẽ bị ném vào Hồ Lửa vĩnh viễn (Ma. 25:41; Khải. 20:7-10). Mặt trận thuộc linh với xác thịt sẽ được kết thúc khi chúng ta được phục sinh trong thân thể vinh hiển giống với thân thể vinh hiển của Đức Chúa Jêsus (Rô. 8:18-25; 1Cô. 15:50-58; 1Tê. 4:17). Sự tái lâm của Đức Chúa Jêsus Christ cũng sẽ kết thúc mặt trận thuộc linh của chúng ta với thế gian này vì Ngài sẽ hủy bỏ hệ thống thế gian hiện hành đầy dẫy sự bạo tàn, sự độc dữ, sự bất công để thiết lập sự trị vì công nghĩa của Ngài (Ma. 25:31-34). Cũng chính vào Kỳ Tái Lâm của Đức Chúa Jêsus Christ mà mặt trận thuộc linh với Satan và các quỉ sứ của nó sẽ chấm dứt, Satan cùng với các thế lực vây cánh của nó sẽ bị ném vào Hồ Lửa vĩnh viễn. Niềm hy vọng của chúng ta là niềm hy vọng ở Kỳ Mạt Thế: Chúng ta mong đợi sự tái lâm chắc chắn của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta cùng với trời mới, đất mới mà Ngài sẽ thiết lập là kỳ mà Đức Chúa Trời sẽ ở giữa Dân Ngài, là kỳ mà chúng ta hết lòng mong đợi: “3Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi Ngai mà đến, nói rằng: Này, Đền Tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm Dân Ngài; chính Đức Chúa Trời sẽ ở với chúng. 4Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi” (Khải. 21:3-4) Sự mong đợi của Cơ Đốc Nhân chúng ta là một sự mong đợi tích cực bằng tất cả các nổ lực cao nhất của chúng ta để “Nước Cha được đến;_Ý Cha được nên, ở đất như trời!” (Ma. 6:10) thể hiện ra bằng đời sống tin kính của chúng ta: “13Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở. 14Vậy nên, hỡi kẻ rất yêu dấu, vì anh em trông đợi những sự đó, thì phải làm hết sức mình, hầu cho Chúa thấy anh em ở bình an, không dấu vít, chẳng chỗ trách được” (2Phi. 3:13-14) “Phải làm hết sức mình, hầu cho Chúa thấy anh em ở bình an, không dấu vít, chẳng chỗ trách được” là đời sống và phận sự thuộc linh của mọi Cơ Đốc Nhân thật, nhất là của các nhà lãnh đạo thuộc linh: Đời sống của các nhà lãnh đạo thuộc linh phải là đời sống viên thục thuộc linh, phận sự của các nhà lãnh đạo thuộc linh phải là phận sự viên thục thuộc linh cho chính bản thân họ, và gây dựng cho sự viên thục thuộc linh cho những người mà Đức Chúa Trời đã ủy thác cho họ gây dựng. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |