“SỰ CHIẾU CỐ TỪ THẬP TỰ GIÁ” (Lu. 23:26-49) “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì.” (Lu. 23:34) Theo như những điều đã được Đức Chúa Trời định đoạt (Sv. Công. 4:27-28), việc xử đóng đinh Đức Chúa Jêsus là một sự hoàn thành lời tiên tri (Sv. Xa. 12:10; 13:6; Thi. 22:16-17; Ma. 20:19; 26:2). Tránh không để cho chúng ta biết về các chi tiết đau thương, sự trước thuật trong Kinh Thánh chỉ viết rằng “Họ đóng đinh Ngài…” (Lu. 23:33). Những gì Đức Chúa Jêsus đã nếm trải do bàn tay kẻ ác trong việc cáo kiện và đóng đinh Ngài không hề có chút đóng góp nào vào công trình đền tội thay của Ngài cả mà chỉ tỏ rõ trạng thái thuộc linh và sự kết án công bình đối với những kẻ có liên quan đến tội ác tàn khốc này (Sv. Công. 4:27; Lu. 2:35). Khi Đức Chúa Trời thực hiện công trình vĩ đại nhất của Ngài qua việc để cho Con Ngài làm sinh tế trên thập tự giá tại đồi Gôgôtha, Ngài có một mối quan tâm tối hậu cần phải hoàn thành, vừa thỏa mãn được đức công nghĩa, vừa thực hiện được tình yêu thương đối với nhân loại của Ngài. I. THẬP TỰ GIÁ “Cây thập tự”, hay “thập tự giá”, trong Tiếng Hylạp là σταυρός [stauros] và hình thức xử tử hình bằng cách đóng đinh trên cây thập tự được gọi là σταυρόω [stauroo]; tức là người bị xử sẽ bị đóng đinh ở tay và chân vào các phần tương ứng của hai thanh gỗ ghép lại với nhau thành hình chữ thập, sau đó được dựng lên tại nơi hành hình cho đến chết. Từ liệu “thập tự giá” được sử dụng trong Kinh Thánh theo ba nghĩa: (1) Nói về một công cụ bằng gỗ hình chữ thập dùng trong việc hành hình: “Khi chúng điệu Đức Chúa Jêsus đi, bắt một người xứ Syren, tên là Simôn, từ ngoài đồng về, buộc phải vác cây thập tự theo sau Ngài” (Lu. 23:26); (2) Nói hình bóng về sự cứu chuộc nhờ công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ trên cây thập tự theo nghĩa (1) nói trên: “Bởi vì lời giảng về thập tự giá, thì những người hư mất cho là điên dại; song về phần chúng ta, là kẻ được cứu chuộc, thì cho là quyền phép của Đức Chúa Trời” (1Cô. 1:18); (3) Nói về sự chết trên cây thập tự theo nghĩa (1) nói trên: “Còn như tôi, tôi hẳn chẳng khoe mình, trừ ra khoe về thập tự giá của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, bởi thập tự giá ấy, thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh, và tôi đối với thế gian cũng vậy” (Gal. 6:12). Trong câu Kinh Thánh này, từ liệu “thập tự giá” đi trước mang nghĩa (2), trong khi từ liệu “thập tự giá” sau đó mang nghĩa (3). “Ai không vác cây thập tự mình mà theo Ta, thì cũng chẳng đáng cho Ta.” (Ma. 10:38); “Nếu ai muốn theo Ta, phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta.” (Mác 8:34)… Từ liệu “cây thập tự”, “thập tự giá” trong các câu Kinh Thánh này trông có vẻ như mang một ý nghĩa khác; thật ra chỉ là ý nghĩa (2) mà thôi: Đã tin theo Chúa, phải biết sống đời sống xứng hiệp với sự cứu chuộc mà Đức Chúa Jêsus Christ đã thực hiện cho mình; phải luôn luôn biết làm trọn sự kêu gọi của Đức Chúa Trời trên đời sống mình. “Cây thập tự”, hay “thập tự giá”, trong Tiếng La Tinh là crux. Có bốn kiểu dáng cơ bản của “thập tự giá” bằng gỗ: (1) “Thập tự giá immissa”: Hai thanh gỗ ghép lại với nhau theo góc vuông, phần trên đầu ngắn nhất, phần thân đứng dài nhất. (2) “Thập tự giá commissa”: Có hình chữ “T”, tức không có đầu nhô lên trên thanh ngang, còn được gọi là “Thập tự giá của thánh Anthony”. (3) “Thập tự giá Hy Lạp”: Hai thanh gỗ ghép chéo góc vuông với nhau và có các phần dài bằng nhau. (4) “Thập tự giá decussata”: Có hình chữ “X”, còn được gọi là “Thập tự giá của thánh Andrew”. II. NỖI THỐNG KHỔ TRÊN THẬP TỰ GIÁ VÀ SỰ CHIẾU CỐ TỪ THẬP TỰ GIÁ Xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá là một hình thức hành hình dã man nhất từ xưa đến nay. Hình thức hành hình này đã từng được thi hành, nhất là trong các giai đoạn chiến tranh, bởi người Phoenix, Carthage, Ai Cập, và sau đó là người La Mã. Hình thức xử tử hình bằng cách đóng đinh đáng kinh sợ đến nỗi, ngay cả trước kỷ nguyên Cơ Đốc, người ta đã thường dùng nó để nói về hiểm họa lớn nhất đối với sự sống. Việc xử tử hình bằng cách đóng đinh khủng khiếp đến nỗi luật La Mã cấm không được áp dụng hình án này cho các công dân La Mã mà chỉ áp dụng cho dân của các xứ bị trị mà thôi. Nỗi thống khổ của người bị xử tử hình bằng cách đóng đinh thường kéo dài trong các trạng thái đau đớn, dày vò: (1) Sự nhức nhối không tả hết của những vết thương trên các phần thân thể đã bị xuyên thủng; (2) Vị trí bị treo một cách không bình thường trong một tình trạng hết sức nghiệt ngã, mỗi cử động nhỏ đều khiến nạn nhân phải bị đau đớn cao độ; (3) Trạng thái sốt cao khắp toàn thân do bị treo trong một thời gian lâu. Trong 1Cô. 1:18, “Lời giảng về thập tự giá” (Gk. euaggelizo) bị những người còn đang hư mất cho là “điên dại”, trái với sự khôn ngoan của người đời. Trong Êph. 2:16, “thập tự giá” được kể là phương tiện của sự phục hòa giữa Đức Chúa Trời với nhân loại: “Bởi thập tự giá Ngài đã làm cho sự thù nghịch tiêu diệt, nên nhờ thập tự giá đó Ngài khiến cả hai hiệp thành một thể, mà làm hòa thuận với Đức Chúa Trời.”. Sở dĩ có được như vậy là vì “thập tự giá” đã cất bỏ đi án phạt mà tội nhân phải trả theo Luật Pháp: “Ngài đã xóa tờ khế lập nghịch cùng chúng ta, các điều khoản trái với chúng ta nữa, cùng hủy phá tờ khế đó mà đóng đinh trên cây thập tự.” (Côl. 2:14). Làm thế nào mà một người La Mã như Phaolô, vốn xem kẻ bị xử tử hình bằng cách đóng đinh là một người đáng bị miệt thị (Sv. 1Cô. 1:18); và Phaolô trên góc độ một chức sắc Do Thái Giáo, vốn xem người bị xử tử hình bằng cách đóng đinh là đáng bị rủa (Sv. Gal. 3:13) lại có thể “Khoe về thập tự giá của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.” (Gal. 6:14)? Đây chính là một sự thay đổi bi hùng mang tính lịch sử vốn đã diễn ra trong đời sống của các vị Sứ Đồ vì họ nhận biết Đấng bị xử tử hình trên thập tự giá là Chúa Cứu Thế đến từ Đức Chúa Trời: “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi.” (Gal. 2:20). Khi Đức Chúa Jêsus bị xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá, cơ chế vật lý nào diễn ra trong sự chết của Ngài? Người ta đã từng có các cuộc nghiên cứu y khoa nhằm giải đáp cho câu hỏi ấy. Khi một người bị treo lơ lửng bằng cách đóng đinh như thế, máu sẽ tuôn ra qua các vết thương và lượng máu của cơ thể sẽ cứ thế mà giảm đi. Chỉ trong vòng từ sáu đến mười hai phút đầu tiên, áp huyết của nạn nhân sẽ hạ chỉ còn một nửa, trong khi đó thì nhịp tim lại tăng lên gấp đôi. Tim sẽ dần dần cạn máu, và người bị hành hình sẽ rơi vào trạng thái bị kích ngất. Cái chết sẽ đến với nạn nhân nhanh hay chậm tùy theo trạng thái suy tim của từng người. Thông thường, việc ấy xảy ra không lâu hơn hai hoặc ba ngày. Theo thông lệ, cái chết của nạn nhân bị xử tử hình bằng cách đóng đinh sẽ được gia tốc bằng việc đánh gãy xương ống chân nạn nhân vào thời điểm kết thúc cuộc hành hình; nhưng điều ấy đã không xảy ra đối với Đức Chúa Jêsus: “Khi quân lính đến nơi Đức Chúa Jêsus, thấy Ngài đã chết rồi, thì không đánh gãy ống chân Ngà.i” (Gi. 19:13). Nỗi đau đớn thân xác mà Đức Chúa Jêsus đã phải chịu trên thập tự giá là rất lớn lao, chúng ta không cần phải nhấn mạnh mà cũng không thể nào cường điệu được, vì đó là sự thật. Sự chết thuộc thể mà Đức Chúa Jêsus đã phải chịu trên thập tự giá trong nhân trạng của Ngài cũng là một sự thật hiển nhiên không thể bác bỏ được, nhưng chúng ta không nên nhấn mạnh nhiều đến cơ chế vật lý của sự chết Ngài vì Kinh Thánh cho chúng ta biết được rằng sự chết của Đức Chúa Jêsus độc đáo ở chỗ Ngài chủ tâm đổ sự sống của mình ra để vâng lời Đức Chúa Trời: “Chẳng có ai cất sự sống Ta đi, nhưng tự ta phó cho; Ta có quyền phó sự sống, và có quyền lấy lại; Ta đã lãnh mạng lịnh nầy nơi Cha Ta.” (Gi. 10:18). Khi Đức Chúa Jêsus chịu xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá, nỗi đau nào lớn nhất đối với Ngài? Theo sự trước thuật của Mathiơ và Mác, linh hồn thống khổ Ngài chính là thống khổ linh hồn Ngài vì trong giờ phút đền tội thay cho cả nhân loại, mối tương liên đời đời trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời đã tạm thời phân cách và đó chính là kinh nghiệm đau thương nhất mà Đức Chúa Jêsus phải chịu trong nhân thể: “45Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. 46Ước chừng giờ thứ chín, Đức Chúa Jêsus kêu tiếng lớn lên rằng: Êli, Êli, lamasabáchtani? Nghĩa là: Đức Chúa Trời tôi ơi! Đức Chúa Trời tôi ơi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?... 50Đức Chúa Jêsus lại kêu lên một tiếng lớn nữa, rồi trút linh hồn.” (Ma. 27:45-46, 50; Sv. Mác 15:33-34, 37). Khi Đức Chúa Jêsus chịu xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá, mối quan tâm hàng đầu của Ngài là gì? Theo sự trước thuật của Luca: “Đức Chúa Jêsus cầu rằng: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì…” (Lu. 23:34). Cần nên chú ý rằng cho đến thời điểm này, Đức Chúa Jêsus chưa bao giờ phải cậy đến Đức Chúa Cha để tha tội. Ngài đã luôn luôn tự chứng rằng chính Ngài có quyền tha tội: “Ngài bèn phán cùng người đàn bà rằng: Tội lỗi ngươi đã được tha rồi.” (Lu. 7:48). “5Đức Chúa Jêsus thấy đức tin họ, bèn phán cùng kẻ bại rằng: Hỡi con Ta, tội lỗi ngươi đã được tha…6Vả, có mấy thầy thông giáo ngồi đó, nghĩ thầm rằng: 7Sao người nầy nói như vậy? Người nói phạm thượng đó! Ngoài một mình Đức Chúa Trời, còn có ai tha tội được chăng?” (Mác 2:5-7). Bằng việc kêu lên rằng “Lạy Cha, xin tha cho họ…”, Đức Chúa Jêsus khải thị cho chúng ta biết được một trong các phương diện chính của sự đền tội thay trên thập tự giá của Ngài: Ngài tự đồng hóa mình với nhân loại để kêu cầu sự tha tội thay cho họ! Luận điểm này hoàn toàn hợp Kinh Thánh khi chúng ta chú ý đến lời phán “Mọi việc đã được trọn” của Đức Chúa Jêsus trước khi Ngài trút linh hồn: “Khi Đức Chúa Jêsus chịu lấy giấm ấy rồi, bèn phán rằng: Mọi việc đã được trọn; rồi Ngài gục đầu mà trút linh hồn.” (Gi. 19:30). Với việc kêu lên rằng “Lạy Cha, xin tha cho họ…”, chúng ta cần chú ý rằng Đức Chúa Jêsus đã không cầu xin bất cứ điều gì khác ở đây. Ngài đã không cầu xin sự giàu có cho các cá nhân ấy. Ngài đã không cầu xin sự thịnh vượng cho họ. Ngài đã không cầu xin cho họ có sự khát khao nên thánh trong lòng… Ngài quan tâm trước tiên đến nhu cần được tha tội của nhân loại vì đó mới chính là nhu cần lớn nhất và trước hết: Chỉ khi nào nợ tội được trả, án tội được tha, ách tội được thoát, nhiên hậu mới cần đến những điều khác, và những điều khác ấy mới được bền vững, thực sự hữu ích. Được tha tội, được phục hồi địa vị công nghĩa trước mặt Đức Chúa Trời là nhu cần lớn nhất của của nhân loại: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Ma. 6:33). Chúng ta sẽ làm gì vào những khi người khác đối xử cay nghiệt với chúng ta? Liệu chúng ta có thể lập tức cầu nguyện xin Đức Chúa Trời tha thứ cho họ hay là chúng ta sẽ lập tức rủa thầm họ? Trong bản chất người, rủa sả dễ thực hiện hơn là cầu nguyện xin sự tha thứ. Thực tế này giúp chúng ta nhận ra được sự thể hiện thần tính của Đức Chúa Jêsus ngay giữa khi Ngài chịu hành hạ hết sức quá quắc: “6Thật vậy, khi chúng ta còn yếu đuối, Đấng Christ đã theo kỳ hẹn chịu chết vì kẻ có tội. 7Vả, họa mới có kẻ chịu chết vì người nghĩa; dễ thường cũng có kẻ bằng lòng chết vì người lành. 8Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” (Rô. 5:6-8); “Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình.” (Gi. 15:13). Trong giờ phút cuối cùng của Samsôn, Samsôn đã cầu nguyện cho mình trước, và sau đó đã thẳng tay hủy phá kẻ thù mình: “28Bấy giờ, Samsôn kêu cầu Đức Giêhôva mà rằng: Chúa Giêhôva ôi! Xin Ngài nhớ lại tôi. Hỡi Đức Chúa Trời! Xin ban sức lực cho tôi chỉ lần này thôi, hầu cho tôi báo thù dân Philitin về sự mất hai con mắt tôi. 29Samsôn vớ lấy hai cây cột ở chính giữa đỡ chịu cái đền, một cây ở bên hữu và một cây ở bên tả, nhận vào, mà rằng: Nguyện tôi chết chung với dân Philitin! Đoạn người rán hết sức, xô hai cây cột, đền đổ xuống trên các quan trưởng và cả dân sự ở đó. 30Ấy vậy, trong lúc chết, Samsôn giết nhiều người hơn là giết trong khi còn sống” (Quan. 16:28-30). Ngay cả đến vị thánh đồ tử đạo đầu tiên cho niềm tin Cơ Đốc cũng chưa hoàn toàn noi theo gương Đức Chúa Jêsus trên phương diện này được. Êtiên đã cầu nguyện cho chính mình trước khi cầu nguyện xin Đức Chúa Trời tha thứ cho những kẻ bách hại mình: “59Chúng đang ném đá, thì Êtiên cầu nguyện rằng: Lạy Đức Chúa Jêsus, xin tiếp lấy linh hồn tôi. 60Đoạn, người quì xuống, kêu lớn tiếng rằng: Lạy Chúa, xin đừng đổ tội này cho họ! Người vừa nói lời đó rồi, thì ngủ.” (Công. 7:59-60). Tự cổ chí kim, chỉ duy nhất Đức Chúa Jêsus là dành ưu tiên hàng đầu cho việc cầu xin sự tha thứ cho tha nhân (Lu. 23:34), sau đó mới đến việc cầu nguyện cho chính mình (Lu. 23:46), vì đó là sự quan tâm của thập tự giá, sự quan tâm tối hậu của công trình đền tội thay của Ngài: “Bởi Con Người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất” (Lu. 19:10). “Nầy là huyết Ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội.” (Ma. 26:28). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“SỐNG CHO SỰ VINH HIỂN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI” (1Cô. 1:26-31) “Ai khoe mình, hãy khoe mình trong Chúa.” (1Cô. 1:31b) Một câu hỏi có thể được đặt ra là “Đức Chúa Trời thích trọng dụng hạng người nào?”. Những lời của Sứ Đồ Phao Lô trong đoạn Kinh Thánh này có thể sẽ làm ngạc nhiên nhiều người giữa vòng chúng ta, vì tư tưởng Kinh Thánh này đối chọi với văn hóa của xã hội loài người. Thông thường, xã hội chúng ta đang sống vốn vẫn trọng vọng những người có vẻ bề ngoài hào nhoáng, sang trọng, tỏ ra giỏi giang, giàu năng lực,… Chỉ những người như thế mới được xã hội ưu tiên trọng dụng. Sứ Đồ Phao Lô cho biết rằng Đức Chúa Trời chọn cho Ngài những người trông có vẻ thiếu khôn ngoan, yếu đuối, không quan trọng,… Đức Chúa Trời không muốn những người được Ngài chọn khoe mình, mất phước. Đức Chúa Trời muốn những người được Ngài kêu gọi nhận ra lẽ thật vĩnh cửu là nếu không bởi Ngài họ sẽ chẳng làm được gì tốt đẹp để giúp cho họ biết nương cậy Ngài, và nhờ đó mà được phước. Sứ điệp của đoạn văn Kinh Thánh này là một sứ điệp đầy khích lệ. Ý muốn tốt đẹp của Đức Chúa Trời trên đời sống của những người theo Ngài có tác dụng kép: Vừa nâng đỡ cho những ai cảm thấy mình kém cỏi, vừa nhắc nhở cho những ai biết rằng mình đã từng nhận được nhiều ưu đãi của Đức Chúa Trời để rồi tất cả mọi người đều biết dâng đời sống mình cho sự vinh hiển của Ngài. Để học biết sự dạy dỗ của đoạn văn Kinh Thánh này, chúng ta có thể ôn lại vài câu chuyện Kinh Thánh Cựu Ước với những câu hỏi mang tính chất chứng giải tương ứng của Đức Chúa Trời dành cho Dân Ngài. I. “TRONG TAY NGƯƠI CẦM GÌ?” Câu chuyện thứ nhất được tìm thấy ở Xuất. 4:1-5 với phần đầu của chuyện Đức Chúa Trời làm phép lạ để thuyết phục Môise. Môise vốn đã từng phải bị bỏ trôi sông và được công chúa Ai Cập cứu thoát chết, và nhận làm con nuôi. Trong sự tể trị của Đức Chúa Trời, những việc ấy đã xảy ra và Môise đã được trưởng dưỡng trong hoàng cung Ai Cập, được thụ hưởng một nền giáo dục cao cấp của hạng đế vương hàng đầu trong thiên hạ. Khi còn trẻ, sau 40 năm được dưỡng dục trong hoàng cung, có vẻ như Môise đã nghĩ rằng ông có đủ năng lực để đứng lên giúp đỡ cho đồng bào Ysơraên của mình. Ban đầu, có vẻ như Môise rất tự tin về những gì ông tự nhận thức được ở bản thân: Ông là một người Ysơraên, đã Đức Chúa Trời dùng công chúa Ai cập để cứu ông, đã được Pharaôn Ai Cập nhìn nhận ông như một hoàng thân, đã được thụ hưởng một nền giáo dục hoàng gia,… Tất cả những điều ấy có vẻ như là những dấu hiệu của một sứ mệnh thiên định… (Xuất. 2:11). Và Môise đã hành động theo sự cảm thức của mình! Khi Môise thấy một người Ysơraên bị người Ai cập ức hiếp, Môise đã can thiệp bằng cách giết người Ai Cập kia (Xuất. 2:12). Sau đó, khi thấy hai người Ysơraên cãi nhau, Môise can gián họ, và, chua chát thay, họ phản đối Môise, chuyện giết người của Môise bị lộ ra, Môise phải bỏ trốn đến xứ của người Mađian (Xuất. 2:15). Ở đây, Môise được giới chức sắc của người Mađian ưu đãi vì đã có hành động nghĩa hiệp đối với các người nữ quí phái Mađian… Môise đã phải sống ẩn dật 40 năm với người Mađian như một người Mađian… Giấc mơ cứu dân, giúp nước của Môise tưởng chừng đã tan… Không muốn bỏ cuộc cũng phải mặc nhiên bỏ cuộc, dầu muốn trở thành anh hùng dân tộc nhưng vẫn phải chấp nhận sống đời sống của người chăn chiên trong sa mạc! Anh hùng không thể xoay chuyển nổi tình thế, phải đành thúc thủ… (Sv. Xuất. 2:11-22). Đến khi về già, một ngày kia, giữa lúc đang chăn chiên, Đức Chúa Trời đã tỏ mình cho Môise trong bụi gai cháy: Thấy lửa thì cháy mà bụi gai vẫn tươi nguyên màu xanh (Xuất. 3:2), Môise đã đến gần để xem, và đây lần đầu tiên Môise nhận được sự kêu gọi trực tiếp từ Đức Chúa Trời: “Vậy bây giờ, hãy lại đây, đặng Ta sai ngươi đi đến Pharaôn, để dắt dân Ta, là dân Ysơraên, ra khỏi xứ Êdíptô” (Xuất. 3:10). Đây là lời Đức Chúa Trời phán với Môise trên xứ của người Mađian sau 40 năm ly hương cho nên ý chính của mệnh lệnh này là “Hãy trở về Ai Cập để cứu Dân Ta thoát kiếp nô lệ!”. Quả thật đây là một mệnh lệnh đáng ngạc nhiên đối với Môise sau 40 năm không còn màng gì đến quốc sự! Tâm trạng này thật dễ nhận ra qua câu trả lời của Môise: “Môise bèn thưa rằng: Tôi là ai, dám đi đến Pharaôn, đặng dắt dân Ysơraên ra khỏi xứ Êdíptô?” (Xuất. 3:11). Con người của Môise giờ đây đã thay đổi: Từ chỗ tự thức về bản thân một cách mạnh mẽ của 40 năm trước đến hỗ tự thán một cách đầy tự ti sau 40 năm chịu cuốn theo chiều gió, phải chấp nhận những điều không thể khước từ. “Tôi là ai…?”, tâm trạng thiếu lạc quan của Môise là một điều dễ hiểu, và Đức Chúa Trời đã ra tay đem Môise ra khỏi trạng thái tự thán để đến với một sự tự thức mới, theo một cách mới, từ một góc độ mới… Đức Chúa Trời đã làm phép lạ của Ngài để đánh thức Môise, giúp Môise nhận thức được rằng Ngài đã phán, và Ngài sẽ ban quyền năng… “Đức Giêhôva phán rằng: Trong tay ngươi cầm vật chi? Thưa rằng: Một cây gậy” (Xuất. 4:2). Ngày xưa, Môise đã có cảm thức về những sự mình có (Xuất. 2:11) và hành động theo cảm thức ấy (Xuất. 2:12-13), và đã thất bại (Xuất. 3:15). Đến bây giờ, 40 năm sau thất bại ấy, Đức Chúa Trời đích thân giúp Môise nhận thức về sự mình được (Xuất. 4:2) để thúc giục Môise hành động theo sự kêu gọi Thiên Thượng của Ngài (Xuất. 3:10; 4:1-5). Hóa ra trong bước đường theo Chúa, những gì chúng ta “có” chưa hẳn đã là những gì chúng ta “được” theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời! Trong tay của Môise lúc ấy chẳng có gì khác hơn là cây gậy của người chăn chiên, một vật quen thuộc đến mức cũ mòn đối với Môise đã 40 năm! Dầu vậy, lời Đức Chúa Trời phán với Môise sau đó tỏ ra rằng Ngài cho như thế là đủ, hãy đi giải phóng cho Dân Ngài! “Đức Giêhôva phán rằng: Ấy để cho chúng nó tin rằng Giêhôva, Đức Chúa Trời của tổ phụ mình, là Đức Chúa Trời của Ápraham, Đức Chúa Trời của Ysác, Đức Chúa Trời của Giacốp, đã hiện ra cùng ngươi” (Xuất. 4:5) Những gì diễn ra sau đó khi Môise đối diện với Pharaôn tỏ cho thấy Đức Chúa Trời đã sử dụng một cách tài tình cây gậy trong bàn tay vâng lời Ngài của Môise… Đây là một mô thức sử dụng của Đức Chúa Trời: Với Môise, Đức Chúa Trời dùng cây gậy của người chăn bầy; với Đavít, Ngài sử dụng chiếc trành ném đá; với Samsôn, Ngài sử dụng chiếc hàm lừa… Ấy là vì… “Vả, những khí giới mà chúng tôi dùng để chiến tranh là không phải thuộc về xác thịt đâu, bèn là bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, có sức mạnh để đạp đổ các đồn lũy” (2Cô. 10:4). “Ấy chẳng phải là bởi quyền thế, cũng chẳng phải là bởi năng lực, bèn là bởi Thần Ta, Đức Giêhôva vạn quân phán vậy” (Xa. 4:6b). Chính là chỉ với cây gậy của người chăn chiên, Môise đã đánh bại các thuật sĩ Aicập (Xuất. 7:8-13). Cũng chính với cây gậy ấy, Môise đã giáng mười tai vạ xuống Ai Cập (7:14-11:10), đã rẽ Biển Đỏ cho Dân Sự đi qua an toàn và chôn vùi đạo quân Ai Cập (Xuất. 14:21-31), đã đập hòn đá tại Hô Rếp cho nước trào ra cung cấp cho Dân Sự (17:5-9),… Hầu như tất cả những gì Môise đã thực hiện đều từ những gì Môise “được” từ Đức Chúa Trời để chăn bầy chiên của Ngài chứ không phải từ những gì Môise “có” theo năng lực bản thân của mình: “26Hỡi anh em, hãy suy xét rằng ở giữa anh em là kẻ đã được gọi, không có nhiều người khôn ngoan theo xác thịt, chẳng nhiều kẻ quyền thế, chẳng nhiều kẻ sang trọng. 27Nhưng Đức Chúa Trời đã chọn những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những kẻ khôn; Đức Chúa Trời đã chọn những sự yếu ở thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh” (1Cô. 1:26). II. “TRONG NHÀ NGƯƠI CÓ GÌ?” Câu chuyện thứ hai sẽ được xem xét là câu chuyện tiên tri Êlisê làm phép lạ hóa ra nhiều dầu (2Vua. 4:1-7), trong đó có một câu hỏi quan trọng mà Êlisê đã hỏi người vợ góa của một trong các môn đồ của mình khi người phụ nữ này đến than phiền về tình cảnh túng quẫn của mình: “Êlisê nói với nàng rằng: Ta phải làm gì cho ngươi? Hãy nói cho ta biết; ngươi có vật gì ở nhà? Nàng thưa rằng: Con đòi ông chẳng có gì trong nhà hơn là một hũ dầu” (2Vua. 4:2). Nhiều khi điều chúng ta có còn ít hơn là điều mà người phụ nữ này có… Và, trong những tình cảnh như thế chúng ta thường nghĩ rằng không thể nào chúng ta có thể làm được một điều gì đó cho đáng kể! Dầu vậy, câu hỏi của Đức Chúa Trời là “Ngươi có vật gì ở nhà?”. Đức Chúa Trời không cần phải hỏi và được chúng ta trả lời mới có thể biết về thực trạng của chúng ta. Đức Chúa Trời hỏi là để tạo một cơ hội cho chúng ta dâng sự thiếu hụt của mình lên cho Ngài, và nương cậy nơi sự cung ứng của Ngài. Nếu chúng ta không biết dâng những gì mình có được cho Đức Chúa Trời sử dụng, quả thật chúng ta sẽ chẳng làm được gì nên chuyện. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết dâng điều mình có cho Đức Chúa Trời giống như người phụ nữ này, Ngài sẽ là Đấng biến không thành có, biến ít thành nhiều như Lời Kinh Thánh phán: “28Đức Chúa Trời đã chọn những sự hèn hạ và khinh bỉ ở thế gian, cùng những sự không có, hầu cho làm những sự có ra không có, 29để chẳng ai khoe mình trước mặt Đức Chúa Trời” (1Cô. 1:28-29). Chính vì thế mà… “Khi các bình đã đầy, nàng nói với con trai mình rằng: Hãy đem cho ta một bình nữa. Nhưng nó thưa rằng: Hết trơn bình rồi. Dầu bèn ngừng lại” (2Vua. 4:6). Câu chuyện này cũng nhắc cho chúng ta về câu chuyện một thiếu niên đã dâng cho Đức Chúa Jêsus chỉ năm cái bánh mạch nha và hai con cá, nhưng món của dâng nhỏ nhoi ấy đã được biến hóa bội phần hơn: “9Đây có một đứa con trai, có năm cái bánh mạch nha và hai con cá; nhưng đông người dường nầy, thì ngần ấy có thấm vào đâu?... 11Đức Chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn rồi, bèn phân phát cho những kẻ đã ngồi; Ngài cũng lấy cá phát cho chúng nữa, ai muốn bao nhiêu mặc ý” (Gi. 6:9, 11). III. “TRONG MẮT NGƯƠI THẤY GÌ?” Câu chuyện thứ ba mà chúng ta sẽ xem đến được trước thuật ở 2Vua. 6:15-17 về việc tiên tri Êlisê cầu xin Đức Chúa Trời “mở mắt” cho đầy tớ mình. Đây là lời cầu nguyện của tiên tri Êlisê: “Đoạn, Êlisê cầu nguyện mà rằng: Đức Giêhôva ôi, xin mở mắt kẻ tôi tớ tôi, để nó thấy được. Đức Giêhôva mở mắt người ra, thì người thấy núi đầy những ngựa và xe bằng lửa ở xung quanh Êlisê” (2Vua. 6:17). Câu chuyện nói về việc quân Asyri tiến đánh Ysơraên nhưng các nổ lực tấn công Ysơraên của họ đều thất bại vì cứ mỗi lần họ tiến quân vây đánh thì lực lượng Ysơraên lại an toàn di chuyển đến một địa điểm khác mà họ không biết. Vua Asyri nghi ngờ rằng có nội gián, cho điều tra, và tìm ra được rằng ấy là nhờ Đức Chúa Trời sử dụng tiên tri Êlisê để cảnh báo cho vua Ysơraên chứ chẳng phải có nội gián trong quân Asyri. Vua Asyri quyết định đem quân vây bắt tiên tri Êlisê. Người đầy tớ của vị tiên tri này hết sức lo sợ khi thấy quân Asyri quá đông, tưởng rằng không thể nào thoát khỏi chết. Tiên tri Êlisê cầu nguyện xin Đức Chúa Trời “mở mắt” cho đầy tớ mình thấy sự bảo hộ của Ngài trên những kẻ hầu việc Ngài, và kết quả là… “… Đức Giêhôva mở mắt người ra, thì người thấy núi đầy những ngựa và xe bằng lửa ở xung quanh Êlisê” (2Vua. 6:17b). Có một sự không tương ứng giữa tầm nhìn thế tục đối với những sự thuộc linh và vì thế mà cũng có một sự bất năng trong việc nhận thức quyền năng thuộc linh theo lý trí tự nhiên. Điều khác nhau trong tầm nhìn của Êlisê với người đầy tớ mình là ở chỗ Êlisê nhận thức được sự quan phòng Thiên Thượng của Đức Chúa Trời trên Dân Ngài, còn người đầy tớ của Êlisê thì không. Với sự nhận thức của lý trí tự nhiên, Môise không thể nào tin được rằng một người chăn chiên với một cây gậy chăn chiên xấu xí, cũ kỹ lại có thể trở về Ai Cập, đương đầu trực diện với Pharaôn để giải phóng cho dân tộc mình! Với sự nhận thức của lý trí tự nhiên, người vợ góa của một môn đồ của tiên tri Êlisê không thể nào tin được rằng sự sống của gia đình mình có thể tồn tại được với chỉ một chút dầu sót lại trong bình! Với sự nhận thức của lý trí tự nhiên, người đầy tớ của tiên tri Êlisê không thể nào dám nghĩ rằng hai thầy trò có thể sinh tồn giữa trùng vây của đạo quân Asyri! Dầu vậy… “30Vả, ấy là nhờ Ngài mà anh em ở trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Đấng mà Đức Chúa Trời đã làm nên sự khôn ngoan, sự công bình, sự nên thánh, và sự cứu chuộc cho chúng ta; 31hầu cho, như có lời chép rằng: Ai khoe mình, hãy khoe mình trong Chúa” (1Cô. 1:30-31). Đức Chúa Trời thích trọng dụng những con người bình dị mà giàu ý chí vâng phục cho sự vinh hiển của Ngài: “26Hỡi anh em, hãy suy xét rằng ở giữa anh em là kẻ đã được gọi, không có nhiều người khôn ngoan theo xác thịt, chẳng nhiều kẻ quyền thế, chẳng nhiều kẻ sang trọng… 29để chẳng ai khoe mình trước mặt Đức Chúa Trời… 31hầu cho, như có lời chép rằng: Ai khoe mình, hãy khoe mình trong Chúa” (1Cô. 1:26, 29, 31). Đức Chúa Trời muốn cất đi sự yếu đuối của chúng ta và ban cho chúng ta quyền năng của Ngài (“Trong tay ngươi cầm gì?”), Ngài muốn được chúng ta dâng trình nhu cần của mình cho Ngài để Ngài cung ứng cho chúng ta (“Trong nhà ngươi có gì?”), và Ngài muốn cất đi tầm nhìn thiển cận của chúng ta để ban cho chúng ta tầm nhìn sâu rộng của Ngài (“Trong mắt ngươi thấy gì?”). Bằng tất cả những điều ấy, Đức Chúa Trời muốn chúng ta dâng đời sống mình cho sự vinh hiển của Ngài! “Ai khoe mình, hãy khoe mình trong Chúa” (1Cô. 1:31b) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“QUAN HỆ GIA ĐÌNH CƠ ĐỐC” (Êph. 5:22-23) “Mỗi người trong anh em phải yêu vợ mình như mình, còn vợ thì phải kính chồng.” (Êph. 5:33) Các nhà nghiên cứu Kinh Thánh cho biết rằng trong các gia đình phi Cơ Ðốc, vừa không thể nào tìm ra được sự thánh khiết vừa không làm sao tìm thấy được tình yêu thực sự. Vào thời điểm Ðức Chúa Jêsus thi hành chức vụ trên trần gian, xã hội ngoại giáo đã thoái hóa đến cao độ; sự thoái hóa ấy nói lên rằng Ðức Chúa Jêsus đến thế gian là cần thiết để “Tìm và cứu kẻ bị mất” (Lu. 19:10). Trong xã hội hiện nay, sự thoái hóa ấy càng dễ nhận thấy hơn; vì vậy, nhu cần xây dựng quan hệ gia đình Cơ Ðốc càng bức thiết hơn nhiều. Để kêu gọi các tín hữu ở Hội Thánh Êphêsô có đời sống nhiệt thành và thánh khiết, Sứ Đồ Phaolô đã đề cập đến định chế gia đình và qua đó chúng ta học biết được một số điều quan trọng về mối quan hệ giữa vợ với chồng trong một gia đình cũng như giữa mỗi gia đình với Ðức Chúa Trời. I. ĐỨC CHÚA JÊSUS ĐÃ LÌA BỎ THIÊN ĐÀNG ĐỂ KẾT HIỆP VỚI HỘI THÁNH (Câu 31) Có thể nhận ra được rằng Sứ Đồ Phaolô đã suy nghĩ về mối tương đồng giữa việc một người nam “Lìa cha mẹ mà dính líu cùng vợ mình” (Sáng. 2:24) với việc Ðức Chúa Jêsus đã lìa Đức Chúa Cha để kết hiệp với Cô Dâu của Ngài là Hội Thánh. Sứ Đồ Phaolô xác nhận: “Sự mầu nhiệm ấy là lớn, tôi nói về Ðấng Christ và Hội Thánh vậy” (Câu 32). Quả thật, không còn cách nào đẹp hơn thế để so sánh với sự “Tự bỏ mình đi” (Phil. 2:7) của Ðức Chúa Jêsus trong việc Ngài lìa bỏ Thiên Đàng để đến với nhân loại. Thiên Đàng vốn là nơi vui thích đời đời của Con Một Ðức Chúa Trời. Ngài đã từng an hưởng sự cao trọng không thể tả ở đó, và đó mới là nơi ở hiệp nghi của Ngài. Thế nhưng Đức Chúa Con đã dấn thân và Đức Chúa Cha đã tâm đắc với sự dấn thân của Đức Chúa Con. Đức Chúa Con đã hy sinh cho Cô Dâu của Ngài là Hội Thánh trên trần gian, là cộng đoàn của vô số linh hồn hạnh phúc mà trong đó mỗi một cá nhân đều có được sự liên hiệp chặt chẽ với Ngài. Dầu vậy, chúng ta không thể nào hiểu hết giá trị cao quí của kế hoạch thành hôn của Đức Chúa Con với vợ Ngài là Hội Thánh. Chúng ta cũng không hiểu hết được sự hạ mình của Đức Chúa Con để thực hiện sự kết hiệp với Hội Thánh của Ngài. Không thể có bất cứ sự khiêm hạ nào trong những cuộc hôn nhân trên trần gian này có thể so sánh được với sự hạ mình của Đức Chúa Con trong việc đến với Cô Dâu của Ngài. Ðức Chúa Jêsus đã đến trong khi loài người đang ở trong tình trạng tội lỗi, băng hoại, hư mất hoàn toàn. Chúng ta có thể tưởng tượng ra được một vị hoàng tử có một tình yêu chân thật, nồng nàn với một người nữ tầm thường nào đó; đã thu xếp để đến một thời điểm thích hợp đón nàng về cung điện của mình để chia sẻ tình yêu và sự vinh quang. Thế nhưng việc Ðức Chúa Jêsus đã lìa ngôi cao sang của mình, chính Ngài đã phải trả một giá quá đắt để có thể tuyển lựa Cô Dâu của Ngài là Hội Thánh giữa dòng dõi nhân loại hư hoại là một điều không sao có thể tưởng tượng nổi. Mọi vua trên thế gian này, cho dầu cao sang đến đâu, cũng chỉ là con người, thuộc giữa vòng loài người. Ðức Chúa Jêsus là Vua Thiên Thượng, Ngài là Ðức Chúa Trời. Ðức Chúa Jêsus đã quyết định đến với Cô Dâu nhân loại của mình bằng tình yêu Thiên Thượng. Ðức Chúa Jêsus đã phải mặc lấy bản chất người để đem Ân Điển Thiên Thượng đến cho nhân loại: Ngài cứu chuộc, thanh tẩy, thánh hóa để Hội Thánh có thể hội hiệp với chính mình Ngài. Để chồng có thể hội hiệp trọn vẹn với vợ theo ý chỉ Thiên Thượng rằng “Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà dính díu với vợ mình, hai người cùng nên một thịt” (Câu 31), người làm chồng phải ghi khắc sâu đậm trong lòng hình ảnh Ðức Chúa Jêsus đã lìa bỏ Thiên Đàng để kết hiệp với Hội Thánh của Ngài. Dầu Hội Thánh hữu hình chưa trọn vẹn, Ðức Chúa Jêsus vẫn cứ yêu. Dầu Hội Thánh hữu hình chưa hoàn toàn tinh sạch, Ðức Chúa Jêsus không ngừng ban quyền năng thanh tẩy, đổi mới. Bằng một tình yêu không dời đổi, và với Ân Điển vô lượng, vô biên, trong tương lai, Hội Thánh sẽ được trình ra trước mặt Ngài “Đầy vinh hiển, không vết, không nhăn, không chi giống như vậy” (Câu 27). Ý nghĩa dạy dỗ của công trình cao thượng ấy sẽ luôn luôn có quyền năng giúp cho người làm chồng điều chỉnh được sự quan tâm mà mình cần phải dành cho vợ theo như ý Ðức Chúa Trời muốn. II. SỰ CHĂM SÓC ĐỨC CHÚA JÊSUS DÀNH CHO HỘI THÁNH LÀ MẪU MỰC LÝ TƯỞNG ĐỂ NGƯỜI LÀM CHỒNG NOI THEO TRONG VIỆC CHU TOÀN PHẬN SỰ ĐỐI VỚI VỢ (Câu 25-33) Đây là ý tưởng bao quát mà Sứ Đồ Phaolô muốn dạy dỗ qua phân đoạn Kinh Thánh này. Ý tưởng này đã được diễn đạt theo một thứ tự rất chặt chẽ: 1. “Ðấng Christ đã yêu Hội Thánh” (Câu 25). Tình yêu tối cao và vị tha này của Ðức Chúa Jêsus là cốt lõi xuyên suốt sự tận hiến của Ðức Chúa Jêsus chúng ta. Tâm tình Thiên Thượng của Ðức Chúa Jêsus là dùng khả năng biến đổi của tình yêu thương đối với những linh hồn đang hư mất. Ðức Chúa Jêsus đã quyết định, và Ngài đã thực hiện, Ngài “Đã yêu Hội Thánh”. Tình yêu có sự mầu nhiệm, và vì “Sự mầu nhiệm ấy là lớn”, người làm chồng phải yêu vợ mình như “Ðấng Christ đã yêu Hội Thánh”. 2. “(Ðấng Christ đã) phó chính mình vì Hội Thánh” (Câu 25). Điều này nói lên một tình yêu quả cảm. Theo bản chất của sự vật, người làm chồng không sao có thể thực sự bỏ mình vì tình yêu đối với vợ mà vẫn còn cơ hội để vui hưởng sự dấn thân của mình nữa. Tuy nhiên, Ðức Chúa Jêsus có khả năng phó chính mình Ngài vì Hội Thánh để sau đó bước vào sự kết hiệp làm một với Hội Thánh của Ngài. Dầu vậy, người làm chồng thực sự yêu vợ phải chứng tỏ được trong đời sống gia đình là sẵn sàng phó mình cho tình yêu đối với vợ theo mẫu mực mà Ðức Chúa Jêsus đã nêu gương. Chỉ như thế cuộc kết hiệp giữa vợ với chồng mới được thăng hoa. 3. Sự hy sinh của Ðức Chúa Jêsus là để bảo đảm cho sự nên thánh của Hội Thánh (Câu 26, 27). Suốt chiều dài lịch sử tận hiến của Ðức Chúa Jêsus cho Hội Thánh, chúng ta thấy Ngài luôn giữ vững sự thánh hóa cho chúng ta. Trước hết, khi ban tình yêu thương đến cho những linh hồn tội lỗi, dầu rằng Ðức Chúa Jêsus gớm ghiếc tội lỗi của chúng ta, nhưng Ngài vẫn cung ứng chính huyết mình để tẩy sạch tội lỗi cho chúng ta. Không chỉ dừng lại ở sự thanh tẩy, sự thánh hóa mà Ðức Chúa Jêsus dành cho Hội Thánh của Ngài là nhằm làm cho “Hội Thánh đầy vinh hiển, không vết, không nhăn, không chi giống như vậy, nhưng thánh sạch không chỗ trách được trước mặt Ngài” (Câu 27). Có thể nói cách khác rằng sự thánh hóa mà Ðức Chúa Jêsus dành cho Hội Thánh là trọn vẹn. Phải chăng đây cũng chính là một mẫu mực cho người làm chồng trong việc theo đuổi một tiến trình thánh hóa bền bỉ dành cho vợ mình? Nếu người làm chồng biết cậy ơn Chúa để cố gắng thăng tiến cho sự thánh hóa của vợ, người vợ sẽ không bao giờ phải trở thành nạn nhân của những tham vọng bất khiết mà sẽ được sự thánh hóa ấy khuôn đúc cho nhân cách mình thông qua các mối quan hệ gia đình. 4. Tình yêu hào hiệp dành cho vợ là tình yêu của một bản ngã được thăng hoa (Câu 28-30). Sứ Đồ Phaolô khích lệ tinh thần san sẻ để người chồng có thể bày tỏ được một tình yêu hào hiệp đối với vợ. Chồng và vợ phải được kết hiệp làm một như Ðức Chúa Jêsus với Hội Thánh là một. Cần phải phân biệt giữa ái kỷ (biết chăm nuôi cho mình) với vị kỷ (chỉ biết chăm nuôi cho riêng mình mà thôi). Kinh Thánh không hề đòi hỏi người ta phải ghét thân xác mình. Trái lại, Kinh Thánh dạy mọi người phải biết chăm nuôi cho thân thể được an lành, và đó là điều hợp với bản năng sinh tồn của nhân loại. Người làm chồng phải biết quí trọng việc chăm nuôi chính bản thân mình thì mới có năng lực chăm chút cho vợ trong tình yêu thương. Mối quan tâm dành cho vợ phải được dấy lên từ một sự hiểu biết thường trực rằng người vợ cũng cần có được sự chăm nuôi ân cần như chính bản thân mình cần. Không biết ái kỷ thì cũng sẽ không biết ái nhân. Nhờ biết chăm nuôi chính mình một cách thỏa đáng, bản ngã của người làm chồng được thăng hoa lên một tầm cao mới để có thể biết chăm chút cho vợ trong tình yêu thương chân thật, biết“Yêu vợ như chính thân mình”. Mặt khác, vợ là một phần tất yếu của cuộc sống người làm chồng, thế nên“Ai yêu vợ mình thì yêu chính mình vậy”. Ðức Chúa Jêsus đã trang bị cho chúng ta một kiểu mẫu dấn thân lý tưởng trong việc Ngài nuôi nấng, săn sóc Hội Thánh. Chúng ta không thể đi tìm tinh thần hào hiệp trong phong cách của các nhà hiệp sĩ được. Chúng ta cần phải đến với thập tự giá để học theo gương yêu thương trọn vẹn của chính Ðức Chúa Jêsus đã nêu qua mối quan hệ của Ngài với Hội Thánh. III. TÌNH YÊU TÔN KÍNH CỦA HỘI THÁNH ĐỐI VỚI ĐỨC CHÚA JÊSUS LÀ MẪU MỰC LÝ TƯỞNG CHO SỰ TẬN HIẾN CỦA NGƯỜI LÀM VỢ (Câu 22-24) Sứ Đồ Phaolô chẳng những kêu gọi người làm chồng phải biết nâng mình lên một tầm cao mới để chu toàn phận sự làm chồng, vị Sứ Đồ này còn mời gọi người làm vợ đáp lại tình yêu của chồng bằng một đời sống tận hiến đầy tôn kính. Trên phương diện kính yêu và vâng lời Ðức Chúa Jêsus, Hội Thánh là một mẫu mực lý tưởng cho sự dấn thân trong phận sự làm vợ. Ðức Chúa Jêsus không dắt dẫn Hội Thánh Ngài bằng một chế độ chuyên quyền hà khắc mà là bằng một sự cai quản chu đáo trong tình yêu thương. Ðức Chúa Jêsus luôn biểu lộ sự chăm chút ân cần vô bờ bến của Ngài đối với Hội Thánh. Không hề có sự thịnh nộ của Ðức Chúa Jêsus trong việc chăn dắt Hội Thánh Ngài. Hội Thánh của Ðức Chúa Jêsus luôn cảm thấy được yên ấm, thoải mái. Nhờ đó, từ trong tấm lòng của mỗi người theo Chúa dấy lên được sự khát khao trung tín với Ngài. Người theo Chúa dần dần kinh nghiệm được rằng vâng lời Ngài là một điều thú vị không gì so sánh được. Một khi người làm vợ cũng có được những điều tương tự như thế trong mối quan hệ đối với chồng, tức thấy được rằng mọi ước muốn của chồng đều xuất phát từ một tình yêu chân thật, điều tất yếu phải đến sẽ là một sự vâng lời đầy tin yêu, kính trọng đối với chồng mình. Người làm vợ sẽ “Vâng phục chồng mình như vâng phục Chúa” vì kinh nghiệm được rằng đó không những là bổn phận mà còn là một đặc ân nữa. Kinh Thánh Tân Ước cũng nhấn mạnh khá rõ nét cơ chế quyền lực trong gia đình Cơ Ðốc: “Vì chồng là đầu vợ, khác nào Ðấng Christ là đầu Hội Thánh” (Câu 23). Trong lịch sử dân Chúa, trận chiến đức tin luôn luôn được đắc thắng thông qua gia đình, vì gia đình là đơn vị tổ chức của dân sự Ðức Chúa Trời (Sáng. 2:18). Hội Thánh chỉ là sự mở rộng của đơn vị gia đình (Êph. 2:19). Ngay cả Thiên Đàng cũng chính là gia đình được mở rộng ở một qui mô lớn hơn Hội Thánh, ở đó Ðức Chúa Trời là Cha chung của mọi kẻ tin trong mọi thời kỳ (Khải. 21:4). Nếu Cơ Đốc Giáo muốn bảo đảm cho người tin một gia đình chung thánh khiết trong cõi đời đời, Cơ Đốc Giáo phải thành công trong việc đòi hỏi gia đình mỗi Cơ Ðốc Nhân là một đơn vị có đời sống thánh khiết và yêu thương ngay trên trần gian này. Mỗi gia đình Cơ Ðốc trên thế gian phải là một thiên đàng thu nhỏ thể hiện được trật tự Cơ Ðốc. Gia đình Cơ Ðốc không những chỉ có tình yêu thương mà còn cần phải có một trật tự Cơ Ðốc theo ý chỉ của Ðức Chúa Trời để thực hành đức thánh khiết của Ngài:“Ấy vậy, như Hội Thánh vâng phục dưới Ðấng Christ, thì đàn bà cũng phải phục dưới quyền chồng mình trong mọi sự” (Câu 24). Gia đình Cơ Ðốc phải có quan hệ Cơ Ðốc, và mẫu mực quan hệ Cơ Ðốc được tìm thấy trong mối quan hệ của Ðức Chúa Jêsus với Hội Thánh của Ngài. Ðức Chúa Trời muốn “Mỗi người trong anh em phải yêu vợ mình như mình, còn vợ thì phải kính chồng” (Câu 33). Mối quan hệ giữa chồng với vợ cũng như mối quan hệ của mỗi gia đình với Ðức Chúa Trời đều có mục đích thăng tiến tình yêu và sự thánh khiết của Ngài. Sự hạ cố của Ðức Chúa Jêsus đối với dân Ngài có tác dụng điều chỉnh sự chiếu cố mà chồng phải dành cho vợ; và sự trung thành của dân Chúa đối với Ngài làm mẫu mực cho lòng trung thành mà vợ phải có đối với chồng. Chỉ tuân theo mẫu mực của Ðức Chúa Jêsus đã bày tỏ trong quan hệ với Hội Thánh, mối quan hệ vợ chồng trong mỗi gia đình mới được thắm đượm ơn phước, trật tự gia đình mới được giữ gìn, đời sống gia đình mới được hạnh phúc. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“NHỮNG KẺ THAN KHÓC” (Ma. 5:4) “Phước cho những kẻ than khóc, vì sẽ được yên ủi.” (Ma. 5:4) Sống trên đời, khóc - cười là việc không sao tránh khỏi. Thông thường, khi vui người ta mới cười; và khóc là dấu hiệu của việc chẳng hay, ít ai mong muốn. Khóc - cười thể hiện trạng thái tâm lý; là hình thức phản ánh của các kích thích tâm lý - thần kinh, ít khi lệ thuộc sự tác động của ý chí. Phản ứng tâm lý - thần kinh mang tính chủ quan; do đó nhiều khi khóc - cười cũng có thể là “có duyên” hay “vô duyên” đối với các nhận thức khách quan. Dưới ánh sáng Kinh Thánh, theo sự nhìn nhận Thiên Thượng, khóc - cười còn có thể “được phước” hay “mất phước” nữa! Tất nhiên, “được phước” khi phù hợp theo ý chỉ Thiên Thượng của Đức Chúa Trời; và “mất phước” khi không đẹp ý Đức Chúa Trời. A. “NHỮNG KẺ THAN KHÓC” Vì một người không thể nào đến với Đức Chúa Jêsus Christ khi chưa được Đức Chúa Cha đổi lòng, cho nên “kẻ than khóc” cũng đồng thời là người đã được Đức Chúa Trời làm cho đổi lòng. Do đó, người nhận biết tội lỗi và tình trạng vô phương tự cứu của mình trước mặt Đức Chúa Trời, người “có lòng khó khăn” (Ma. 5:3), cũng sẽ đồng thời là người biết xót xa cho tình trạng băng hoại thuộc linh của mình: “Phước cho những kẻ than khóc, vì sẽ được yên ủi” (Ma. 5:4). Sự than khóc này không phải chỉ là tâm lý buồn thảm, cũng không phải là trạng thái chấn động tình cảm; mà là nỗi xót xa của tâm linh và là cảm thức ê chề xuất hiện theo sau sự nhận thức về tính chất suy thoái của bản thân. Người công nghĩa không muốn đắm đuối một cách ích kỷ trong sự sa đọa của xác thịt. Người công nghĩa có sự quặn thắt về tội lỗi mình, vì họ tôn trọng những điều Đức Chúa Trời quan tâm. Một khi bắt đầu nhận thức được sự hiện diện của tội lỗi, người có xu hướng công nghĩa cũng biết được rằng sự suy thoái của họ làm tổn thương Đức Chúa Trời thánh khiết nữa: “Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy?” (Rô. 7:24). B. “PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ THAN KHÓC” I. Họ Là Người Công Nghĩa Một người bị bắt, bị phạt vì hành vi tội lỗi có thể sẽ biết hối tiếc về tội lỗi mình đã phạm mặc dầu người ấy có thể chẳng có chút cảm thức tội lỗi nào theo sự cáo buộc của Kinh Thánh. Và, một người theo một loại triết lý hay tôn giáo phi Kinh Thánh nào đó rất có thể sẽ hết sức xót xa vì đã không thể trội vượt lên trên các tiêu chuẩn (phi Cơ Đốc) của những gì họ tin. Đức Chúa Trời chẳng hề “yên ủi” những người “than khóc” phi Kinh Thánh này bao giờ! Đức Chúa Jêsus đang dạy về một loại “than khóc” đến từ sự hạ mình và sự ăn năn thật đẹp ý Đức Chúa Trời. Sự “than khóc” được Đức Chúa Jêsus nói đến ở đây không đến bởi lòng sùng mộ phản Kinh Thánh cũng như sự nản lòng, thoái chí mang tính chất tâm lý cá nhân hay dưới ảnh hưởng xã hội. Nói cho cùng, loại “than khóc” được nêu ra ở đây là loại “than khóc” của sự tin kính chứ không phải là sự than khóc bất kính của đời thường: “Vì sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự hối cải, và sự hối cải dẫn đến sự rỗi linh hồn; về sự đó người ta chẳng hề ăn năn, còn sự buồn rầu theo thế gian sanh ra sự chết” (2Cô. 7:10). Người có lòng công nghĩa – tức là người đã được Đức Chúa Trời chứng giải, chứng tri, và chứng chiếu – không những chỉ xót xa cho tội lỗi của riêng mình mà còn biết tiếc cho tội lỗi của người khác, nhất là của những người cùng chung trong một cộng đồng thuộc linh, chung Hội Thánh. Khi Đức Chúa Trời bày tỏ tội lỗi cho Êsai, Nhà Tiên Tri đã hết sức thấm thía về những gì mình được chứng giải; đã “than khóc” chẳng những cho bản thân mà còn cho tội lỗi của những người sống chung quanh mình nữa: “Khốn nạn cho tôi! Xong đời tôi rồi! Vì tôi là người có môi dơ dáy, ở giữa một dân có môi dơ dáy, bởi mắt tôi đã thấy Vua, tức là Đức Giêhôva vạn quân!” (Ês. 6:5). Cùng một cách tương tự, Giêrêmi đã bày tỏ sự “than khóc” tột độ của mình về tội lỗi trong các Sách Giêrêmi và Ca Thương (và Đức Chúa Trời đã phát vãn Dân Ngài y theo như Giêrêmi đã nói tiên tri). Về sau, khi Đaniên nói về Đức Chúa Trời cùng với lời hứa của Ngài về việc phục hồi Dân Ngài, (cũng như Giêrêmi đã nói), Đaniên cũng “than khóc” cho tội lỗi của dân mình: “4Vậy, ta cầu nguyện Giêhôva Đức Chúa Trời ta, và xưng tội cùng Ngài mà rằng: Ôi! Chúa là Đức Chúa Trời cao cả và đáng khiếp sợ! Ngài giữ lời giao ước và sự nhân từ đối với những kẻ yêu Ngài và giữ các điều răn Ngài, 5chúng tôi đã phạm tội, làm sự trái ngược, ăn ở hung dữ, chúng tôi đã bạn nghịch và đã xây bỏ các giềng mối và luật lệ của Ngài” (Đa. 9:4-5). II. Họ Thuộc Về Đức Chúa Trời Theo văn mạch của “Bài Giảng Trên Núi”, có thể là Đức Chúa Jêsus bao gồm cả sự “than khóc” của người tín hữu đối với sự chống đối, bắt bớ của những người không tin: “10Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì Nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy! 11Khi nào vì cớ Ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. 12Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các Đấng Tiên Tri trước các ngươi như vậy” (Ma. 5:10-12). Đức Chúa Jêsus phán cho biết rằng những ai chịu “than khóc” sẽ được “phước”; không phải được phước vì chính hành vi “than khóc” mà là sự “than khóc” nói lên được họ là ai, tấm lòng của họ thế nào,… Sự than khóc của một cá nhân thể hiện trạng thái thuộc linh của họ là điều Đức Chúa Trời quan tâm. Người “than khóc” vì nhận thức được tình trạng tội lỗi của bản thân cũng sẽ được “phước” như người “than khóc” vì bị áp bức bởi các thế lực tội lỗi. Đối với những ai giảng dạy và tuân hành các điều răn của Đức Chúa Trời, người đời này sẽ đàn áp họ. Sự áp bức trên những người “than khóc” vì cớ sự công bình của Đức Chúa Trời có nhiều hình thái và cấp độ khác nhau, từ các xu thế xã hội vô đạo cho đến những chính sách tàn bạo của các thể chế trong đời này. Đối với những ai chịu áp bức như thế mà vẫn vững lòng tin nơi sự yên ủi và giải cứu của Đức Chúa Trời, Ngài sẽ đáp ứng sự trông cậy của họ bằng mọi thứ phước thiêng liêng từ nơi Ngài, vì họ thuộc về Ngài: “18Ví bằng người đời ghét các ngươi, thì hãy biết rằng họ đã ghét Ta trước các ngươi. 19Nếu các ngươi thuộc về thế gian, thì người đời sẽ yêu kẻ thuộc về mình; nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian và Ta đã lựa chọn các ngươi giữa thế gian, bởi cớ đó người đời ghét các ngươi” (Gi. 15:18-19). III. Họ Không Còn Ở Dưới Sự Phán Xét Qua lời phán này, Đức Chúa Jêsus cũng còn vạch rõ thế đối lập trong cách nghĩ của người đời. Có nhiều người vốn phá sản về thuộc linh nhưng họ không hề biết như thế, họ vẫn cứ làm như thể là mình sung mãn về thuộc linh lắm: Thay vì phải “than khóc”, họ tự đắc về vi phạm mình. Có lắm người trong vai trò “chức sắc tôn giáo” vẫn tỏ ra an nhiên trong việc lợi dụng các kẽ hở tổ chức để mưu cầu lợi lộc bản thân! Các tay “anh chị” trong giới giang hồ vẫn hiu hiu tự đắc về lề thói “xã hội đen” của họ! Lắm khi những người “chẳng ra gì” trên phương diện luân lý, đạo đức (ấy là chưa kể đến thân phận tội nhân trước mặt Đức Chúa Trời) nhưng lại rất vênh váo! Cứ xem tình trạng “được đằng chân, lân đằng đầu” của các trào lưu hắc ám trong xã hội ngày nay là đủ biết. Họ không hề có bất cứ một chút gì là “kính sợ” Đức Chúa Trời cả. Họ không bao giờ đếm xỉa đến Đức Chúa Trời. Hơn nữa, họ tự cho mình là một loại “thượng đế” hoặc nghĩ rằng Thượng Đế tồn tại là để nuông chìu họ! Kinh Thánh không cho thấy Đức Chúa Trời phải như thế. Kinh Thánh dạy cho biết rằng Đức Chúa Trời chỉ tha thứ cho những ai được Ngài ban cho sự ăn năn thật. Ngoại giả, Đức Chúa Trời định tội nặng nề cho các tội nhân không chịu ăn năn về tội lỗi mình, không biết “than khóc” cho thân phận mình theo sự nhìn nhận của Ngài. Những hạng người này chẳng những tự đắc về tội lỗi của họ, họ còn ủng hộ cho những ai sống giống như họ nữa. Thậm chí, có những người tự nhận mình là Cơ Đốc Nhân nhưng vẫn bất chấp sự dạy dỗ của Kinh Thánh một cách hiển nhiên. Giữa vòng các Hội Thánh ngày nay trên thế giới, người ta vẫn thường công khai ủng hộ các thần học gia giả danh thần học gia, hoặc lập những con người bất minh, bất chính và bất kính vào các vai trò lãnh đạo thuộc linh : “Dầu họ biết mạng lịnh Đức Chúa Trời tỏ ra những người phạm các tội dường ấy là đáng chết, thế mà chẳng những họ tự làm thôi đâu, lại còn ưng thuận cho kẻ khác phạm các điều ấy nữa” (Rô. 1:32). Ngày nay, người ta thường tỏ ra tự đắc về việc có một lập trường “cởi mở” đối với những điều phi Kinh Thánh. Dầu vậy, Sứ Đồ Phaolô lên án những việc như thế một cách nặng nề. Theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, thay vì dung túng thái độ không ăn năn và các sự vi phạm luân lý, đạo đức; thay vì đồng tình với các sự giảng dạy tà vạy và những kẻ lầm đường lạc lối; chúng ta phải có thái độ thẳng thắn đối với họ, sẵn sàng loại trừ khỏi Hội Thánh những kẻ không chịu ăn năn: “1Có tin đồn ra khắp nơi rằng trong anh em có sự dâm loạn, dâm loạn đến thế, dẫu người ngoại đạo cũng chẳng có như vậy: là đến nỗi trong anh em có người lấy vợ của cha mình. 2Anh em còn lên mình kiêu ngạo! Anh em chẳng từng buồn rấu, hầu cho kẻ phạm tội đó bị trừ bỏ khỏi vòng anh em thì hơn!” (1Cô. 5:1-2). “12Vì chưng có phải tôi nên đoán xét kẻ ở ngoài sao? Há chẳng phải anh em nên đoán xét những người ở trong sao? 13Còn như kẻ ở ngoài, thì Đức Chúa Trời sẽ đoán xét họ. Hãy trừ bỏ kẻ gian ác khỏi anh em” (1Cô. 5:12-13). Sự dạy dỗ của Kinh Thánh là rất hiển nhiên. Dầu vậy, ngày nay chỉ có một thiểu số cộng đoàn Dân Chúa là giữ lòng trung tín trong việc thi hành các mệnh lệnh Kinh Thánh đối với các sự vi phạm Kinh Thánh. Còn tệ hơn thế, hiện đang có một xu hướng muốn để cho những người vi phạm Kinh Thánh lãnh đạo Hội Thánh “dầu họ biết mạng lịnh Đức Chúa Trời tỏ ra những người phạm các tội dường ấy là đáng chết…”! Tương tự như việc người công nghĩa và người bất nghĩa có các thái độ đối nghịch nhau đối với vấn đề tội lỗi, Đức Chúa Trời đã định phận trái ngược nhau cho hai hạng người ấy. Kinh Thánh cho biết rằng Đức Chúa Trời sẽ trút cơn giận Ngài trên những ai dung túng tội lỗi, đang đùa với tội lỗi. Ngày nay, có nhiều người cứ khăng khăng rằng Đức Chúa Trời chỉ muốn cho họ được vui (theo cách của họ), và họ lấy sự giả định phi Kinh Thánh ấy làm nguyên tắc để ra các quyết định cho đời sống của mình. Vì họ tưởng rằng Đức Chúa Trời sẽ chìu chuộng họ, Ngài sẽ không hạn chế tư dục của họ; cho nên họ được phép sống theo cách họ thích! Theo Kinh Thánh, Đức Chúa Trời không bao giờ như thế cả! “Vả, cơn giận của Đức Chúa Trời từ trên trời tỏ ra nghịch cùng mọi sự không tin kính và mọi sự không công bình của những người dùng sự không công bình mà bắt hiếp lẽ thật” (Rô. 1:12). “3Vì ý muốn của Đức Chúa Trời, ấy là khiến anh em nên thánh: Tức là phải lánh sự ô uế, 4mỗi người phải biết giữ thân mình cho thánh sạch và tôn trọng, 5chẳng bao giờ sa vào tình dục luông tuồng như người ngoại đạo, là kẻ không nhìn biết Đức Chúa Trời. 6Chớ có ai phỉnh phờ anh em mình, hay là làm hại anh em bất kỳ việc gì, vì Chúa là Đấng báo oán những sự đó, như chúng tôi đã nói trước cùng anh em và đã làm chứng. 7Bởi chưng Đức Chúa Trời chẳng gọi chúng ta đến sự ô uế đâu, bèn là sự nên thánh vậy. 8Cho nên, ai khinh bỏ điều chúng tôi nói, thì không phải khinh bỏ người ta đâu, bèn là khinh bỏ Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban Thánh Linh của Ngài trong anh em” (1Tê. 4:3-8). “Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đương no, vì sẽ đói! Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đương cười, vì sẽ để tang và khóc lóc” (Lu. 6:25). Hai hạng người, hai định phận đối nghịch nhau. Nếu sự đoán phạt để dành cho kẻ bất nghĩa thì phước hạnh của Đức Chúa Trời đang chờ đón những ai biết trăn trở, xót xa về vi phạm mình để rồi từ đó có thể đến với Ngài, tìm được ơn trong lúc có cần: “Phước cho những kẻ than khóc, vì sẽ được yên ủi” (Ma. 5:4). Cười là cười và khóc là khóc, Đức Chúa Trời không hề ban phước cho tự thân tiếng cười hay tiếng khóc. Người có cảm thức về tội lỗi của mình (hoặc của người chung quanh), có ý chí quyết lòng từ bỏ (hay cảnh tỉnh cho người khác từ bỏ) là người được phước của Đức Chúa Trời vì nhờ đó mà người ta có thể có thể đến với sự sống đời đời qua sự tái sinh. Cuộc biến đổi thuộc linh thiêng liêng trong đời sống cá nhân bắt đầu từ cảm thức ăn năn của cá nhân về tội lỗi. Sự quặn thắt về thân phận dẫn người ta đến sự hối cải, và bởi ơn của Đức Chúa Trời, sự hối cải giúp thay đổi được định phận đời đời của mình: “Phước cho những kẻ than khóc, vì sẽ được yên ủi” (Ma. 5:4); “Vì sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự hối cải, và sự hối cải dẫn đến sự rỗi linh hồn; về sự đó người ta chẳng hề ăn năn, còn sự buồn rầu theo thế gian sanh ra sự chết” (2Cô. 7:10). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“NHỮNG KẺ NHU MÌ” (Ma. 5:5) “Phước cho những kẻ nhu mì vì sẽ hưởng được đất.” (Ma. 5:5) Từ liệu “nhu mì” thường được dùng để nói về những người khiêm nhường và đức khiêm nhường. Trong xã hội ngày nay, khái niệm “nhu mì” bao giờ cũng khiến cho người ta liên tưởng đến sự “dịu dàng”, “hòa nhã”, và cho rằng cứ được như thế là “khiêm nhường”. “Nhu mì” hay “khiêm nhường” theo cách hiểu hiện nay luôn luôn chứa đựng tính chất “yếu đuối”, và đó là một cách hiểu không hợp Kinh Thánh. Một lần nữa, chúng sẽ nhận thấy được rằng lời giảng về “Các Phước Lành” của Đức Chúa Jêsus trong “Bài Giảng Trên Núi” hoàn toàn trái với sự suy nghĩ của người đời. Đức Chúa Jêsus phán: “Phước cho những kẻ nhu mì vì sẽ hưởng được đất” (Ma. 5:5). Đây không phải chỉ là một loại “lời hay ý đẹp” của người đời mà là yêu cầu Thiên Thượng của Đức Chúa Trời. Lời này là lời phán của Đức Chúa Trời trong thân vị Đức Chúa Jêsus chứ không phải chỉ là sự dạy dỗ thuần túy của loài người. Ý chỉ Thiên Thượng được bày tỏ không phải để cho người ta suy diễn tùy tiện và lựa chọn tùy ý. Lời Chúa phải được hiểu theo Ý Chúa đã được khải thị một cách vô ngộ và bất bại trong Kinh Thánh. Ai muốn được hưởng phước Thiên Thượng phải để cho Ân Điển Thiên Thượng hành động trong đời sống qua việc học và làm theo Lời Đức Chúa Trời một cách thành tâm. I. “PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ NHU MÌ” Theo lời phán này của Đức Chúa Jêsus, thế giới này sẽ được chinh phục bởi những người nhu mì, những ai nhu mì giữa vòng mọi dân tộc sẽ được trao cho quyền sở hữu cả thế gian này. Quả thật là bất ngờ! Người đời trải qua mọi thời đại vẫn cậy ở sức mạnh, quyền thế, năng lực để tranh đoạt ảnh hưởng, để lấn lướt trên đồng loại mình, để khống chế, để cai trị, để cầm quyền,… Lịch sử nhân loại được dệt bằng một chuỗi dài những cuộc chiến tranh. Thân sử của từng đời người, khi nhìn lại cũng thấy lắm điều lo toan, tính toán, giành giật. Các hoạt động trong xã hội loài người thật rất phong phú và đa dạng, không thể đếm hết được. Tuy nhiên, trên một phương diện, người ta dễ dàng nhận thấy rằng mọi sự trong đời sống con người nhìn chung chủ yếu thuộc về hai mối: “Danh” và “Lợi”. Vì “danh” mà đấu, vì “lợi” nên tranh; đấu tranh diễn biến tạo ra “thành”, “bại”. “Thành” khiến cho có kẻ cười, “bại” khiến cho có người khóc. “Khóc”, “cười” làm nên cuộc sống muôn mặt và chóng mặt! Mọi sự trong sinh hoạt xã hội loài người đều gồm trong hai mối ấy. Thế mà Đấng Sáng Tạo Và Tể Trị trong thân vị Đức Chúa Jêsus lại khẳng định rằng quyền cai trị tối hậu trên thế gian này thuộc về tất cả những ai khiêm nhường! Theo sự khải thị này của Kinh Thánh, có vẻ như nhân loại đang lạc đường, vì hiển nhiên là sự dạy dỗ của Kinh Thánh trái ngược với sự dạy dỗ của thế gian: Trong khi sự khôn ngoan đời này dạy rằng phải “hống hách”, thì khi Kinh Thánh dạy rằng phải “khiêm hòa”; trong khi sự khôn ngoan đời này dạy rằng phải “tranh đọat”, thì khi Kinh Thánh dạy rằng phải “nhường nhịn”; trong khi sự khôn ngoan đời này dạy rằng muốn thống lĩnh thì phải “áp chế”, “phô trương”, “cưỡng đoạt” thì Kinh Thánh khải thị rằng những kẻ khiêm nhường sẽ đồng trị đời đời trên thế gian dưới vương quyền đời đời của Đức Chúa Trời: “Vì ngươi đã giữ lời nhịn nhục Ta, Ta cũng sẽ giữ ngươi khỏi giờ thử thách, là giờ sẽ đến trong khắp thế gian, đặng thử những người ở trên đất” (Khải. 3:10). “26Kẻ nào thắng, và giữ các việc của Ta đến cuối cùng, Ta sẽ ban cho quyền trị các nước: 27Kẻ đó sẽ cai trị bằng một cây gậy sắt, và sẽ phá tan các nước như đồ gốm, khác nào chính Ta đã nhận quyền cai trị đó nơi Cha Ta. 28Ta sẽ cho kẻ ấy ngôi sao mai. 29Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng các Hội Thánh” (Khải. 2:26-29). Bạo lực chỉ làm nên quyền lực nhất thời, đức khiêm nhường theo sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời ban cho người tin Ngài quyền lực đời đời từ chính tay Ngài. Đức khiêm nhường có một vai trò nổi bật trong các sự dạy dỗ của Kinh Thánh. Trong mọi mối quan hệ xã hội, Cơ Đốc Nhân được đòi hỏi phải tuyệt đối khiêm nhường: “1Hãy nhắc lại cho các tín đồ phải vâng phục những bậc cầm quyền chấp chánh, phải vâng lời các bậc ấy, sẵn sàng làm mọi việc lành, 2chớ nói xấu ai, chớ tranh cạnh, hãy dung thứ, đối với mọi người phải tỏ ra một cách mềm mại trọn vẹn” (Tít 3:1-2). Đức khiêm nhường là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi mối quan hệ trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Giữa vô vàn bất cập của các mối quan hệ nhiều chiều trong Hội Thánh, đức khiêm nhường phải hiện diện; điều đó phải là một trong các nguyên tắc nền tảng cho mối thông công Cơ Đốc giữa vòng những người đã được cứu: “Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại; chính mình anh em lại phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng” (Gal. 6:1). Nguyên tắc căn bản cho sự ứng sử của người hầu việc Đức Chúa Trời cũng là đức khiêm nhường: “24Vả, tôi tớ của Chúa không nên ưa sự tranh cạnh; nhưng phải ở tử tế với mọi người, có tài dạy dỗ, nhịn nhục, 25dùng cách mềm mại mà sửa dạy những kẻ chống trả, mong rằng Đức Chúa Trời ban cho họ sự ăn năn để nhìn biết lẽ thật, 26và họ tỉnh ngộ mà gỡ mình khỏi lưới ma quỉ, vì đã bị ma quỉ bắt lấy đặng làm theo ý nó” (2Ti. 2:24-26). Nói chung, đức khiêm nhường là điều kiện không thể thiếu đối với tất cả những ai thực tâm tin theo Đức Chúa Jêsus. Có đức khiêm nhường người ta mới có thể tiếp nhận Lời Chúa vào lòng mình một cách phải lẽ, nhiên hậu đời sống họ mới được biến đổi phù hợp theo ý muốn Đức Chúa Trời: “Vậy, hãy bỏ đi mọi điều ô uế và mọi điều gian ác còn lại, đem lòng nhu mì nhận lấy lời đã trồng trong anh em, là lời cứu được linh hồn của anh em” (Gia. 1:21). II. “…VÌ SẼ HƯỞNG ĐƯỢC ĐẤT” Muốn nắm vững thế nào là “khiêm nhường”, chúng t a cần phải biết thế nào không phải là “khiêm nhường”. “Khiêm nhường” hiểu theo nghĩa Kinh Thánh không phải là một đức tính tự nhiên theo bản tính của con người. “Khiêm nhường” không bao giờ đồng nghĩa với “yếu đuối”, “nhút nhát”. “Khiêm nhường” hoàn toàn khác với “lẩn tránh”, “che dấu” cho khỏi bộc lộ con người thật. Có những người thực sự có một vẻ bề ngoài hòa nhã, dịu dàng; nhưng liệu họ có phải là người khiêm nhường theo đúng nghĩa của Kinh Thánh hay không còn là một vấn đề khác. Cũng có rất nhiều người có vẻ bề ngoài dường như “khiêm nhường” nhưng thực chất họ không hề “khiêm nhường” gì cả, chẳng qua họ chỉ là người khéo che đậy bằng sự thể hiện bên ngoài. Đừng kết luận về đức khiêm nhường mà chỉ căn cứ theo vẻ bề ngoài! Bất kể vẻ bề ngoài của một người là thế nào, người duy ngã không phải là một người khiêm nhường. Bất kể vẻ bề ngoài của một người là thế nào, người ngạo mạn không phải là một người khiêm nhường. Bất kể vẻ bề ngoài của một người là thế nào, người gian hùng không phải là một người khiêm nhường. Bất kể vẻ bề ngoài của một người là thế nào, người ngoan cố không phải là một người khiêm nhường. Cũng tương tự như vậy đối với những người huênh hoang, vênh váo, hão huyền, tự phụ… Chúng ta có thể nêu ra nhiều nhân vật Kinh Thánh khác nhau có những cá tính như thế (và họ đều không phải là người khiêm nhường). Một trong các nhân vật ấy được đề cập và xử lý trong 3Gi. 9-11: “9Tôi đã viết mấy chữ cho Hội Thánh rồi, nhưng Điôtrép là kẻ ưng đứng đầu Hội Thánh không muốn tiếp rước chúng ta. 10Cho nên, nếu tôi đến, tôi sẽ bới việc xấu người làm, là lấy lời luận độc ác mà nghịch cùng chúng ta. Điều đó còn chưa đủ, người lại không tiếp rước anh em nữa, mà ai muốn tiếp rước, thì người ngăn trở và đuổi ra khỏi Hội Thánh. 11Hỡi kẻ rất yêu dấu, chớ bắt chước điều dữ, nhưng bắt chước điều lành. Ai làm điều lành là thuộc về Đức Chúa Trời, còn kẻ làm điều dữ, chẳng hề thấy Đức Chúa Trời”. Nhân vật Điôtrép mà Sứ Đồ Phaolô nói đến ở đây có những nét tính cách nào? Theo sự khải thị của Lời Kinh Thánh, Điôtrép là một người duy ngã, ngạo mạn, gian hùng, và ngoan cố: (1) “Ưng đứng đầu Hội Thánh” (C. 9) Điôtrép là một người duy ngã. Nghĩa là, Điôtrép chỉ biết yêu có chính mình mà thôi: Điôtrép muốn đường lối của mình phải được tuân theo, không muốn chấp nhận bất kỳ điều gì khác. (2) “Không muốn tiếp rước chúng ta” (C. 9) Điôtrép là một người ngạo mạn. Nghĩa là, Điôtrép không chịu thuận phục thẩm quyền Đức Chúa Trời và Hội Thánh của Ngài. (3) “Lấy lời luận độc ác mà nghịch cùng chúng ta” (C. 10) Điôtrép là một người gian hùng. Nghĩa là, Điôtrép sẵn sàng bôi nhọ, phao vu tiếng xấu cho người nào mình không thích để thỏa mãn tham vọng ích kỷ của mình. (4) “Mà ai muốn tiếp rước, thì người ngăn trở và đuổi ra khỏi Hội Thánh” (C. 10) Điôtrép là một người ngoan cố. Nghĩa là, Điôtrép không cần quan tâm đến bất cứ điều gì ngoài ý muốn chủ quan của mình, và chỉ biết thực hiện nó cho bằng được. Cá tính của Điôtrép nghịch lại với “Các Phước Lành” mà Đức Chúa Jêsus bày tỏ trong “Bài Giảng Trên Núi” cho nên Sứ Đồ Phaolô phải xử lý vấn đề Điôtrép như được trước thuật ở đây: Điều ác phải được vạch trần và loại trừ. Thật ra, đức khiêm nhường theo Kinh Thánh hoàn toàn tương hợp với sự dũng cảm và đó là một đức tính đòi hỏi nghị lực cao. Chỉ có hai nhân vật được Kinh Thánh mô tả như mẫu mực của đức khiêm nhường. Cả hai đều là những nhân vật đầy quyền lực. Một người được đánh giá khách quan bởi Lời Đức Chúa Trời, và nhân vật còn lại tự khải thị cho nhân loại biết Ngài là Đấng khiêm nhường. Nhân vật thứ nhất được Lời Kinh Thánh khẳng định là đầy dẫy đức khiêm nhường là Môise: “Vả, Môise là người rất khiêm hòa hơn mọi người trên thế gian” (Dân. 12:3). Theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời, Môise là người khiêm nhường bậc nhất. Thế nhưng, chúng ta đã biết rằng Môise là một nhà lãnh đạo đầy dũng khí và quyền lực. Môise đã được đào tạo hoàn chỉnh từ trong cung điện Pharaôn, và được rèn luyện thuần thục ngoài trường đời. Môise là một lão tướng văn võ song toàn. Môise đã lãnh đạo dân Ysơraên từ Aicập đến đồng vắng, đưa cuộc đấu tranh lập quốc nguyên khai của dân Do Thái đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, thắng lợi sau to hơn thắng lợi trước, mở ra thắng lợi cuối cùng mà người kế nhiệm của ông là Giôsuê đã kế thừa. Lời Kinh Thánh cũng còn cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng khiêm nhường theo như chính Ngài đã khải thị thành văn: “28Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. 29Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của Ta, và học theo Ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. 30Vì ách Ta dễ chịu và gánh Ta nhẹ nhàng” (Ma. 11:28-30). Đức Chúa Jêsus là Đấng khiêm nhường nhưng Ngài không hề là người yếu đuối. Chưa hề có một họa phẩm nào trên thế gian tả vẻ Đức Chúa Jêsus như một người ẻo lả giống với những con người giả bộ khiêm nhường ngày nay. Đức Chúa Jêsus nhu mì, khiêm nhường như chính Ngài khải thị. Đức Chúa Jêsus đã sống trong nhân trạng một đời sống yêu thương, dịu dàng, hòa nhã, hạ mình, và tuyệt đối nương cậy Đức Chúa Cha. Tuy nhiên, chính Ngài là Đấng đã bày tỏ đức dũng cảm có một không hai khi chống trả các sự giảng dạy sai trật của người Pharisi và Sađusê. Ngài đã không ngại khi phải dùng đến roi da để đánh đuổi bọn người đa trá mượn danh thánh và nơi thánh của Đức Chúa Trời để làm những điều vô phép. Ngay cả đối với những người thân nhất của Ngài trên thế gian, Ngài vẫn không thỏa hiệp theo cách nghĩ, việc làm theo xác thịt của họ và sẵn sàng quở nặng cho họ tỉnh ngộ mà thoát ra khỏi bẫy, lưới của Ma Quỉ. Chính Ngài là Đấng có sự can đảm cái thế để chịu lấy thập tự giá mà Ngài biết trước, hoàn thành công trình đền tội thay cho chúng ta, trở nên Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Khiêm nhường là thuận thiên hành đạo chứ không phải là yếu đuối, đầu hàng. Đức Chúa Jêsus là hiện thân của sự nhu mì, khiêm nhường. Ngài đã sống trong nhân trạng một đời sống yêu thương, dịu dàng, hòa nhã, hạ mình, và tuyệt đối nương cậy Đức Chúa Cha. Dầu vậy, dũng khí của Ngài cao ngất thượng thiên, chói lòa nhật, nguyệt; rạng rỡ suốt dòng lịch sử nhân loại! Từ “Bài Giảng Trên Núi” cho đến các sự dạy dỗ khác trong Kinh Thánh, Đức Chúa Jêsus luôn kêu gọi chúng ta học theo Ngài để được đồng trị với Ngài cho đến đời đời: “Phước cho những kẻ nhu mì vì sẽ hưởng được đất” (Ma. 5;5). “28Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. 29Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của Ta, và học theo Ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. 30Vì ách Ta dễ chịu và gánh Ta nhẹ nhàng” (Ma. 11:28-30). “5Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có, 6Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời nhưng không coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; 7chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; 8Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự. 9Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, 10hầu cho nghe đến danh Đức Chúa Jêsus, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống, 11và mọi lưỡi thảy đều xưng Jêsus Christ là Chúa, và tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha” (Phil. 2:5-11). “26Kẻ nào thắng, và giữ các việc của Ta đến cuối cùng, Ta sẽ ban cho quyền trị các nước: 27Kẻ đó sẽ cai trị bằng một cây gậy sắt, và sẽ phá tan các nước như đồ gốm, khác nào chính Ta đã nhận quyền cai trị đó nơi Cha Ta. 28Ta sẽ cho kẻ ấy ngôi sao mai. 29Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng các Hội Thánh” (Khải. 2:26-29). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“NHỮNG KẺ HAY THƯƠNG XÓT” (Ma. 5:7) “Phước cho những kẻ hay thương xót vì sẽ được thương xót.” (Ma. 5:7) Có chuyện kể rằng một ngày nọ John Westley đến thăm tướng Ogelthorpe khi vị này còn cai trị Georgia như một thuộc địa. Tướng Ogelthorpe kể cho John Westley nghe về chuyện một người nọ đã làm cho ông tức giận. Tướng Ogelthorpe nói một cách cương quyết: “Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho người này cả!”. Nghe nói thế, John Westley ôn tồn nói: “Thưa ngài, vậy tôi hy vọng rằng ngài sẽ không bao giờ phạm tội cả!”. Hiển nhiên là John Westley muốn ngầm nhắc nhở cho vị tướng nghiêm khắc kia về lời dạy của Đức Chúa Jêsus: “Phước cho những kẻ hay thương xót vì sẽ được thương xót” (Ma. 5:7). Với sự dạy dỗ này của Đấng tể trị cả vũ trụ, chúng ta có thể nói rằng việc sống mà không có lòng thương xót chính là giấy bảo đảm cho một quá trình chết không được xót thương! Tại sao? Ấy là vì Đấng Tối Cao dạy rằng muốn nhận được sự thương xót thì người ta phải sống tha thứ, nhân từ. Vậy, thế nào là sự thương xót? Cơ Đốc Nhân thế nào để có thể sống giàu lòng thương xót? Và, người ta sẽ nhận được những gì từ nếp sống thương xót của mình? I. SỰ THƯƠNG XÓT LÀ GÌ? Từ liệu “thương xót” được dùng khoảng 250 lần trong Kinh Thánh Cựu Ước. Từ liệu này cũng còn có thể được hiểu là “lòng nhân từ” (96 lần), “lòng tốt” (38 lần). Từ liệu này xuất hiện 6 lần trong Kinh Thánh Tân Ước (Ma. 5:7; Lu. 6:36; 18:13; Hê. 2:17; 8:12) trong đó có 1 lần được dịch trong Kinh Thánh Tân Ước là “tha thứ” (Hê. 8:12). “Thương xót” theo Kinh Thánh không phải chỉ thuần túy là cảm xúc; sự thương xót hợp Kinh Thánh không bao giờ chỉ thuần túy là một phó sản của chủ nghĩa cảm xúc cả! “Hay thương xót”, tức là “giàu lòng thương xót”, vượt xa hơn việc “chảy nước mắt” do xúc động vì thương cảm. Tất nhiên là những người giàu lòng thương xót lắm khi đã khóc thể theo sự xúc cảm dấy lên trong lòng họ. Chính Đức Chúa Jêsus cũng đã không cần phải kiềm chế nước mắt của Ngài trước nỗi đau quằn quại của Mathê và Mari đối với cái chết của anh họ là Laxarơ; Kinh Thánh cho biết rằng “Đức Chúa Jêsus khóc” (Gi. 11:35). Một lần khác, khi Đức Chúa Jêsus nhìn thành Giêrusalem, nghĩ về tai họa tương lai của thành, Ngài cũng đã khóc cho thành. Thật đáng để chúng ta ghi nhận rằng dầu là Đấng Chủ Tể cả vũ trụ, Đức Chúa Jêsus cũng đã khóc. Thế nhưng, Đức Chúa Jêsus đã làm nhiều hơn là khóc: Ngài không những chỉ khóc cho chúng ta, Ngài còn phó mình Ngài để chuộc chúng ta ra khỏi sự khóc lóc đời đời nữa. Vấn đề chính không phải chỉ có khóc, có lắm người đã khóc rất nhanh và rất nhiều nhưng đó là cái khóc vô nghĩa và không hề đem lại một kết quả có ích nào cả. “Sự thương xót” hợp Kinh Thánh không phải chỉ là chủ nghĩa nhân đạo mà chúng ta thường thấy: “Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi” (1Cô.13:3). “Sự thương xót” chân chính vượt xa hơn việc phân phát y phục, lương thực, thuốc men,… cho các nạn nhân. Người ta có thể cho mà không hề yêu gì cả. Hành vi thương xót sẽ vô nghĩa nếu thái độ của sự thương xót không chân thực và chính đáng (chân chính). “Sự thương xót” mà Đức Chúa Jêsus phán dạy ở đây không phải chỉ thuần túy là hành vi thương xót máy móc. Về căn bản, “giàu lòng thương xót” không phải là sự xúc cảm đối với tình huống mà là thái độ sống. Sự xúc cảm trước những tình huống nhất định và sự nhận thức về một thái độ sống phải có thường xuyên là hai điều khác nhau. “Giàu lòng thương xót” là một nếp sống. Đó là một điều không thể “bật lên” hay “tắt đi” theo xúc cảm chủ quan của một người được. “Đức thương xót” chân chính không thể là một cái gì đó có thể biến động “theo mùa” được. “Sự thương xót” hợp Kinh Thánh mà Đức Chúa Jêsus đã từng biểu lộ trong cuộc sống phận người của Ngài chính là một dạng thức cảm nhận chân chính của tâm trí, làm nền tảng cho một thái độ sống, thể hiện ra qua một lối sống cao thượng một cách thường xuyên. Cơ Đốc Nhân “thương xót” là nhìn nhận tha nhân theo cùng một cách mà Đức Chúa Jêsus nhìn nhận họ, và thấu cảm tha nhân theo cùng một cách mà Đức Chúa Jêsus thấu cảm họ. “Giàu lòng thương xót” là thái độ thương xót phổ quát dành cho tất cả mọi người. Sự thương xót của Đức Chúa Trời phổ quát trên nhân loại như thế nào thì đức thương xót trong Cơ Đốc Nhân cũng phải phổ quát cho đồng loại mình như thế ấy. Trên một phương diện, thái độ thương xót thể hiện ra qua đức bác ái Cơ Đốc của cộng đoàn Cơ Đốc với biểu hiện cuối cùng là các hoạt động từ thiện cho xã hội. Thái độ “thương xót” biểu hiện ra qua hành động. Nếu một người thực sự có lòng thương xót, lòng thương xót của người ấy phải được thể hiện bằng hành vi. “Sự thương xót” hợp Kinh Thánh không thể là một cái gì đó bí mật hay tiềm ẩn (bí ẩn)t mà phải được chuyển hóa thành hành động. Không thể nói rằng mùa Xuân đã về mà chưa hề có lấy bất cứ một sự chuyển dịch nào theo hướng tươi đẹp hơn của mùa Đông. “Sự thương xót”, nếu có, nhất định phải được bộc lộ ra qua nhiều cách khác nhau. Nếu chúng ta thực sự có lòng thương xót, chúng ta sẽ tỏ ra nhân từ, độ lượng trong việc xét đoán người khác. Chúng ta sẽ tỏ ra quan tâm đến phúc lợi của người khác. Khi thực sự có lòng thương xót, nếu có ai đó làm hại chúng ta, chúng ta sẽ không còn hoàn toàn bị sự căm hận cuốn hút mà sẽ biết tìm hiểu vì sao người ta lại phạm tội như thế, và sẽ quyết định tha thứ cho họ chứ không phải là trừng phạt họ. Khi thực sự có lòng thương xót, chúng ta không còn cố tìm lý lẽ để buộc tội mà là để giải tội cho tha nhân. Thương xót nghĩa là chăm sóc cho tha nhân để họ sống tốt đẹp hơn. Đức thương xót khiến Cơ Đốc Nhân dám hy sinh để dấn thân cất đi gánh nặng cho người khác, mà nặng nhất là gánh nặng về án phạt của tội lỗi trên đời sống họ. Thương xót nghĩa là tha thứ: Không có biểu hiện nào của sự thương xót cao hơn là sự tha thứ (vì thế mà Hê. 8:12 được dịch là “tha thứ”). Khi một người hoàn toàn có quyền trả thù nhưng lại quyết định tha thứ, người ấy đã đạt đến đỉnh cao của sự thương xót, và phần thưởng là sự bình an và niềm vui chan chứa luôn luôn cặp theo quyết định thánh thiện ấy. Như vậy, “sự thương xót” chính là một biến thể của Ân Điển: Dành cho tha nhân điều đáng lẽ ra họ không thể có được. Cơ Đốc Nhân nhận Ân Điển của Đức Chúa Trời và sống thể hiện Ân Điển Ngài trên đời sống mình bằng đức thương xót. II. LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ THỂ SỐNG GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT? “Phước cho những kẻ hay thương xót vì sẽ được thương xót”, đây là một sự dạy dỗ và cũng là lời hứa tốt đẹp, quí hóa; thế nhưng phải làm những gì để có thể sống giàu lòng thương xót được? Muốn sống được như thế quả thật là rất khó, và đó là con đường hẹp mà Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta đi. Xét đoán, phê phán, kết án luôn luôn dễ làm hơn là thương xót, tha thứ. Chúng ta cần phải như thế nào để có thể vượt lên trên bản chất của con người cũ vốn có của chúng ta, sống theo đức thương xót mà Đức Chúa Trời kêu gọi? Trước hết, đừng quên rằng chính mỗi người chúng ta đều cần có được sự tha thứ. Trước mặt Đức Chúa Trời, mỗi người chúng ta “thảy đều vấp phạm nhiều cách lắm” (Gia. 3:2), chúng ta cần sự đối đãi giàu lòng thương xót của Đức Chúa Trời đối với chúng ta, chúng ta cần được Ngài tha thứ. Vậy chúng ta cũng cần phải đối dãi một cách giàu lòng thương xót với mọi người, phải tha thứ cho người khác một cách tương tự: “Xin tha tội lỗi cho chúng tôi, như chúng tôi cũng tha kẻ phạm tội nghịch cùng chúng tôi” (Ma. 6:12). “Vả, nếu ngươi tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ tha thứ các ngươi” (Ma. 6:14). Chúng ta rất dễ rơi vào chỗ thiếu tha thứ, thường tỏ ra rất nặng tay đối với người khác, và hay quên rằng sự yếu đuối và nguy cơ bị cám dỗ không phải chỉ riêng có ở người khác mà thôi: “Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại; chính mình anh em lại phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng” (Gal. 6:1). Để có thể sống giàu lòng thương xót, chúng ta phải biết để cho Đức Chúa Jêsus bày tỏ sự thương xót của Ngài qua chúng ta. Cơ Đốc Nhân là chỗ để cho Chúa bày tỏ sự vinh hiển của Ngài ra cho Dân Ngoại được biết, để rồi họ sẽ đặt niềm tin nơi Ngài: “Vì Đức Chúa Trời muốn khiến họ biết sự vinh hiển của sự mầu nhiệm đó ở giữa Dân Ngoại là thể nào, nghĩa là Đấng Christ ở trong anh em, là sự trông cậy về sự vinh hiển” (Côl. 1:27). Bằng sức riêng, chúng ta không thể nào thực sự thương xót tha nhân theo như Đức Chúa Trời muốn được. Chỉ khi nào chúng ta trình dâng hết nỗi cay đắng, buồn phiền của chúng ta cho Đức Chúa Jêsus, bằng lòng để cho Ngài sống và hành động qua con người của chúng ta thì đức thương xót mới có thể trở nên một thái độ thường trực trong nếp sống của chúng ta được: “12Vậy anh em là kẻ chọn lựa của Đức Chúa Trời, là người thánh và rất yêu dấu của Ngài, hãy có lòng thương xót. Hãy mặc lấy sự nhân từ, khiêm nhượng, mềm mại, nhịn nhục, 13nếu một người trong anh em có sự gì phàn nàn với kẻ khác, thì hãy nhường nhịn nhau và tha thứ nhau: Như Chúa đã tha thứ anh em thể nào, thì anh em cũng phải tha thứ thể ấy” (Côl. 3:12-13). III. PHẦN THƯỞNG CHO ĐỨC THƯƠNG XÓT Trước hết, trong sự dạy dỗ này của Đức Chúa Jêsus có kèm theo một lời hứa về sự “được thương xót”: “Phước cho những kẻ hay thương xót vì sẽ được thương xót” (Ma. 5:7). Một khi Đức Chúa Jêsus đã phán hứa như thế thì chắc chắn là người sống giàu lòng thương xót sẽ được hưởng phước từ nơi Ngài, vì Ngài là thành tín. Trước hết, người có đức thương xót được hưởng sự bình an. Người có đức thương xót là người chịu để Thánh Linh của Đức Chúa Trời hành động trong tấm lòng của họ, qua đời sống của họ. Người sống giàu lòng thương xót không còn bị dày vò bởi sự tranh chiến nội tâm do khuynh hướng tự cao, ương ngạnh và lòng nặng nề, căm tức, bực bội,… Được Đức Thánh Linh thanh tẩy các xúc cảm tiêu cực, người có đức thương xót sẽ kinh nghiệm được niềm vui, đời sống tinh thần của họ sẽ được thăng hoa, hướng thượng: “13Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài. 14Phàm làm việc gì chớ nên lằm bằm và lưỡng lự, 15hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian” (Phil. 2:13-15). Người có đức thương xót sẽ nhận được sự thương xót của tha nhân. Trên một phương diện, cuộc đời này như một tấm gương phẳng có tác dụng phản chiếu những gì người ta đặt trước nó. Qui luật “gieo và gặt” vẫn nghiệm đúng đối với đức thương xót . Ngoài ra, nếu tình yêu sản sinh ra tình yêu thì sự thương xót cũng sẽ đem về sự thương xót: “36Hãy thương xót như Cha các ngươi hay thương xót. 37Đừng đoán xét ai, thì các ngươi khỏi bị đoán xét; đừng lên án ai, thì các ngươi khỏi bị lên án; hãy tha thứ, người sẽ tha thứ mình. 38Hãy cho, người sẽ cho mình; họ sẽ lấy đấu lớn, nhận, lắc cho đầy tràn, mà nộp trong lòng các ngươi; vì các ngươi lường mực nào, thì họ cũng lường lại cho các ngươi mực ấy” (Lu. 6:36-38). Tuy nhiên, quan trọng hơn hết là người có đức thương xót sẽ được chính Đức Chúa Trời thương xót: “14Vả, nếu ngươi tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ tha thứ các ngươi. 15Song nếu không tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha lỗi cho các ngươi” (Ma. 6:14-15). Bằng sức riêng của bản chất người thiên nhiên, người ta chỉ có thể yêu thương, tha thứ, nhân từ đối với những ai yêu thương, tha thứ, nhân từ đối với họ mà thôi. Cơ Đốc Nhân là người mới trong Đức Chúa Jêsus (2Cô. 5:17), họ phải được đổi mới nhờ quyền năng Đức Thánh Linh. Mệnh lệnh đối với Cơ Đốc Nhân là phải giàu lòng thương xót, và lời hứa dành cho họ là họ sẽ được thương xót. Dầu vậy, đức thương xót của Cơ Đốc Nhân không phải chỉ để được thưởng mà chính yếu là để trở nên giống với Đấng kêu gọi họ: “46Nếu các ngươi yêu những kẻ yêu mình, thì có được thưởng gì đâu? Những kẻ thâu thuế há chẳng làm như vậy sao? 47Lại nếu các ngươi tiếp đãi anh em mình mà thôi, thì có lạ gì hơn ai? Người ngoại há chẳng làm như vậy sao? 48Thế thì các ngươi hãy nên trọn vẹn, như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn” (Ma. 5:46-48). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“NHỮNG KẺ CÓ LÒNG TRONG SẠCH” (Ma. 5:8) “Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ thấy Đức Chúa Trời.” (Ma. 5:8) Billy Graham có lần đã nói như thế này: “Tất cả chúng ta đều phải chịu khổ vì một chứng bệnh chung trên toàn thế giới. Nan đề chính của thế giới không phải là vấn đề chủng tộc. Nan đề chính của thế giới không phải là vấn đề chiến tranh. Nan đề chính của cả thế giới này là vấn đề sự bệnh hoạn của tấm lòng”. Kinh Thánh tuyên cáo vấn đề ấy một cách tỏ tường và đầy nghiêm túc: “9Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất xấu xa: Ai có thể biết được? 10Ta, Đức Giêhôva, dò xét trong trí, thử nghiệm trong lòng, báo cho mỗi người tùy đường họ đi, tùy kết quả của việc họ làm” (Giê. 17:9-10). MỘT THỰC TRẠNG Về nguyên tắc cũng như theo thực tế, điều gay go là ở chỗ tấm lòng của con người đều đã bại hoại theo những chừng mực nhất định nào đó. Mỗi một người chúng ta đều bị lúng túng trong một sự mâu thuẫn muôn thuở giữa việc toàn tâm, toàn trí theo Chúa với việc thỏa mãn các sự đòi hỏi tự nhiên của con người chúng ta. Cuộc tranh chiến giữa hai con đường ấy được Sứ Đồ Phaolô xác nhận: “18Vả, tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi đâu, nghĩa là trong xác thịt tôi, bởi tôi có muốn làm điều lành, nhưng không có quyền làm trọn. 19Vì tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn. 20Ví bằng tôi làm điều mình không muốn, ấy chẳng phải là tôi làm điều đó nữa, nhưng là tội lỗi ở trong tôi vậy. 21Vậy tôi thấy có luật này ở trong tôi: Khi tôi muốn làm điều lành, thì điều dữ dính dấp theo tôi” (Rô. 7:18-21). Chúng ta phải biết rõ và phải nhìn nhận một thực trạng là sức mạnh của tội lỗi vẫn còn hiện hữu trong con người chúng ta. Chúng ta phải nhìn nhận rằng sự hoành hành của tội lỗi trong xác thịt của chúng ta đã làm lu mờ hình ảnh của Cứu Chúa mà chúng ta vốn đã nhận được khi tiếp nhận sự cứu rỗi của Ngài. Chúng ta phải thành thật ngay với chính mình để quay lại trong sự nương cậy: “24Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy? 25Cảm tạ Đức Chúa Trời, nhờ ơn Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta!” (Rô. 7:24-25). MỘT SỰ KÊU GỌI Trong “Bài Giảng Trên Núi”, Đức Chúa Jêsus đã đề cập đến một nguyên lý chi phối toàn bộ đời sống chúng ta: “Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ thấy Đức Chúa Trời” (Ma. 5:8). Dầu rằng chỉ là một lời dạy ngắn gọn nhưng đây chính là tấm bản đồ chỉ đường cho Cơ Đốc Nhân đi đến với lời hứa về cuộc hạnh ngộ riêng tư với Đức Chúa Trời. Sự kêu gọi ở đây là sự kêu gọi về tấm lòng trong sạch. Lời phán này của Đức Chúa Jêsus cho thấy rằng tấm lòng của chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời có vai trò quan trọng quyết định. Trong cương vị là tín hữu của Đức Chúa Trời, ưu tiên hàng đầu của chúng ta là phải giữ cho được một tấm lòng trong sạch đối với Ngài. Đức Chúa Trời quan tâm một cách đặc biệt đến tình trạng của tấm lòng chúng ta; Đối với Ngài, mọi sự khác đều kém quan trọng hơn: “Nhưng Đức Giêhôva phán cùng Samuên rằng: Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó, vì Ta đã bỏ nó. Đức Giêhôva chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giêhôva nhìn thấy trong lòng” (1Sa. 16:7). Đức Chúa Trời bỏ qua ngoại hình của một người, và ngoại hiện của hành vi người ấy để nắm bắt thẳng vào vấn đề chính: Đó là tình trạng của tấm lòng: “Các đường lối của loài người đều chính đáng theo mắt họ;_Song Đức Giêhôva cân nhắc cái lòng” (Châm. 21:2). Đức Chúa Trời “cân nhắc” (Hb. takan) tức là Ngài xem xét và đánh giá xem có phù hợp theo ý chỉ đời đời và các chuẩn mực thiện hảo của Ngài hay không. Từ thời Cựu Ước, Đức Chúa Trời đã luôn luôn nêu cao vấn đề thái độ công chính của tấm lòng. Đavít tỏ ra thấu đáo về mối quan tâm ấy của Đức Chúa Trời khi ông dâng lời cầu nguyện cho Salômôn có được “một tấm lòng trọn vẹn”: “Tôi xin Chúa hãy ban cho Salômôn, con trai tôi, một tấm lòng trọn vẹn, để gìn giữ các điều răn, chứng cớ, và luật lệ của Chúa, cùng làm cho các công việc nầy, xây cất cái đền mà tôi đã sắm sửa tài liệu cho” (1Sử. 29:19). Tấm lòng quan trọng vì trạng thái của tấm lòng sẽ qui định địa vị của một người trước mặt Đức Chúa Trời. Nói cách khác, khi tấm lòng không biết “đói khát sự công bình” (Ma. 5:7), tức không có khát vọng về Chúa, người ta sẽ bị điều ác cuốn hút mất: “Rôbôam làm điều ác, vì không rắp lòng tìm cầu Đức Giêhôva” (2Sử. 12:14). Như vậy, chúng ta cần phải học cho biết khi Đức Chúa Jêsus phán về vấn đề tấm lòng “trong sạch”. Sự trong sạch mà Ngài đòi hỏi có nghĩa như thế nào? Phải chăng “trong sạch” là “hoàn hảo”, hay “vô nhiễm”? Và, nếu quả thật sự “trong sạch” mà Đức Chúa Jêsus dạy ở đây có nghĩa như thế thì tất cả chúng ta đều bị nguy to! “Trong sạch” được dịch từ katharos là một từ liệu Hylạp. Từ liệu này có nghĩa là “làm cho trở nên thanh khiết bằng cách tẩy rửa cho sạch”. Sự “trong sạch” nói về việc tẩy rửa cho tâm trí, ý chí, và tình cảm khỏi các sự ô uế; nhiên hậu, đem đặt dưới và làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời: “Sự tin đạo thanh sạch không vết, trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, là: Thăm viếng kẻ mồ côi, người góa bụa trong cơn khốn khó của họ, và giữ lấy mình cho khỏi sự ô uế của thế gian” (Gia. 1:27). Lòng “trong sạch” là tấm lòng được tẩy rửa cho khỏi sự chi phối của một tâm trí mê muội bởi tri thức ngụy xưng, một ý chí ngoan cố, và một tình cảm không trong sáng. Khi Kinh Thánh Cựu Ước nói về tấm lòng, cả ba lĩnh vực tâm trí, ý chí, và tình cảm đều được bao gồm trong đó: “Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con hơn hết,_Vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra” (Châm. 4:23). Tương tự như vậy, Kinh Thánh Tân Ước cũng gồm tóm ba lĩnh vực ấy trong phạm trù “tấm lòng”: “Vì từ nơi lòng mà ra những ác tưởng, những tội giết người, tà dâm, dâm dục, trộm cướp, làm chứng dối, và lộng ngôn” (Ma. 15:19). “Tấm lòng” gồm luôn cả tâm trí và ý chí chứ không phải chỉ có tình cảm. Tấm lòng của một người sẽ qui định toàn bộ hành vi của người ấy. Hiển nhiên là khi Đức Chúa Jêsus phán dạy về “lòng trong sạch”, Ngài kêu gọi về động cơ trong sạch cho hành vi chứ không phải chỉ là sự xúc cảm của nội tâm, Ngài kêu gọi về hành động chứ không phải chỉ là sự cảm động: “7Vậy, hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em. 8Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; 9hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:7-10). MỘT TƯƠNG LAI Theo lời phán dạy này của Đức Chúa Jêsus, lý do duy nhất khiến chúng ta phải có cho được “lòng trong sạch” là để “thấy Đức Chúa Trời”. Theo cách diễn đạt dưới ngòi bút của Sứ Đồ Giacơ, “Thấy Đức Chúa Trời” là được Ngài đến gần, và để được Ngài “đến gần” Cơ Đốc Nhân phải chủ động đến gần Ngài. Tuy nhiên, “thấy” phải được hiểu như thế nào cho đúng theo ý chỉ Thiên Thượng là một vấn đề quan trọng. Bà Helen Keller vừa mù, vừa điếc. Một ngày kia, có người tỏ ra thấu cảm hoàn cảnh của bà và đã nói như thế này: “Bà ơi, vừa mù lại vừa điếc quả thật là quá khủng khiếp nhỉ?”. Helen Keller đã làm cho mọi người phải kinh ngạc đến sửng sốt khi câu trả lời của bà như sau: “Thà tôi mù mà thấy được bằng tấm lòng của mình còn hơn là sáng cả hai mắt nhưng lại chẳng thấy gì hết!”. Một sự thật hiển nhiên là người ta có thể “thấy” bằng tấm lòng của mình trên những phương diện nào đó. Một khi Đức Chúa Jêsus đã phán rằng “Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ thấy Đức Chúa Trời” thì có nghĩa là nếu tấm lòng càng được trong sạch, người ta sẽ càng nhìn thấy Đức Chúa Trời rõ hơn! Khi một người càng “đói khát sự công bình”, người ấy sẽ càng “được no đủ” (Ma. 5:7). Một khi tấm lòng càng xu hướng về Đức Chúa Trời thì càng được những sự thuộc về Đức Chúa Trời cuốn hút; người ta càng ít bị chi phối, xao lãng bởi các sự khác; họ đơn thuần hơn, chân thành hơn trong việc tìm kiếm Đức Chúa Trời; tấm lòng của họ trở nên thuần thành với Đức Chúa Trời hơn vì chỉ có sự khát khao Đức Chúa Trời là mãnh liệt hơn hết trong lòng họ mà thôi. Một khi tấm lòng của chúng ta càng trở nên “trong sạch”, Lời Chúa càng được khắc ghi sâu đậm trong lòng chúng ta. Khi được Lời Đức Chúa Trời đáp đậu trong tấm lòng, chúng ta luôn nhận ra được ý muốn, tình yêu thương, và khải tượng mà Đức Chúa Trời dành cho đời sống mình: “Nguyền xin Lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời” (Côl. 3:16). Chúng ta chẳng những được sống vui thỏa mà còn được chia sẻ sự vinh hiển của Cứu Chúa chúng ta, sống bày tỏ Ngài qua đời sống chúng ta nữa. Một khi lòng chúng ta trong sạch, chúng ta có năng lực cảm thụ cao độ các giá trị mà Ngài quan tâm. Các thuộc tính vinh hiển của Đức Chúa Trời được Ngài bày tỏ khi chúng ta đến gần Ngài sẽ được chúng ta thực hành bởi sự ban quyền năng của Đức Thánh Linh. Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sẽ được tha nhân nhận ra ngay trên đời sống chúng ta: “Chúng ta ai nấy đều để mặt trần mà nhìn xem vinh hiển của Chúa như trong gương, thì hóa nên cũng một ảnh tượng Ngài, từ vinh hiển qua vinh hiển, như bởi Chúa, là Thánh Linh” (2Cô. 3:18). Tuy nhiên, đỉnh cao của cuộc hạnh ngộ giữa người “có lòng trong sạch” với Đức Chúa Trời là thuộc về tương lai, khi họ được đối diện Đức Chúa Trời trong thân thể mới! Chúng ta chưa biết được một cách đầy đủ lắm về ngày phước hạnh ấy, nhưng chúng ta có thể chắc chắn là trong nháy mắt, ngay vào tích tắc đầu tiên được đối diện Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ tận hưởng một niềm vui mà cả đời này gộp lại cũng không bằng. Chúng ta sẽ được quyến rũ đến ngất ngây bởi sự vinh hiển của Ngài. Kinh Thánh luôn dạy cho chúng ta rằng niềm khát khao “thấy Đức Chúa Trời” là đỉnh cao của sự trông cậy. “Thấy Đức Chúa Trời” là một quá trình tiệm tiến trong đời sống Cơ Đốc Nhân; là niềm tin và lẽ sống của những người “có lòng trong sạch” theo nghĩa hợp Kinh Thánh: “25Còn tôi, tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi vẫn sống,_Đến lúc cuối cùng Ngài sẽ đứng trên đất._26Sau khi da tôi, tức xác thịt nầy, đã bị tan nát,_Bấy giờ ngoài xác thịt tôi sẽ xem thấy Đức Chúa Trời;_27Chánh tôi sẽ thấy Ngài,_Mắt tôi sẽ nhìn xem Ngài, chớ chẳng phải kẻ khác,_Lòng tôi hao mòn trong mình tôi” (Gióp 19:25-27). “Người có lòng trong sạch” là một nhân chủng hiếm hoi trong xã hội loài người thời hiện đại, nhưng họ không thể bị tiệt chủng được bất chấp mọi nổ lực diệt chủng của Satan và các quỉ sứ của nó! Tính hiếm hoi có thể nhận ra ngay giữa vòng các Hội Thánh Địa Phương của Đức Chúa Trời! Thực tế hiển nhiên là chúng ta dễ thất vọng khi khó tìm thấy được giữa vòng Dân Sự Đức Chúa Trời những người có tâm tình đơn thuần, có đời sống thành tâm tận hiến cho Ngài. Tuy nhiên, phương tiến triển của Hội Thánh của Đức Chúa Trời là xu thế tất yếu vì “Các cửa Âm Phủ chẳng thắng được Hội đó” (Ma. 16:18)! Điều mà Đức Chúa Trời muốn đối với mỗi người chúng ta là chúng ta “9Hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:7-10). Đức Chúa Trời muốn chúng ta đến với Ngài, và cách để làm được việc ấy không phải là lý sự mà là tâm sự với Ngài: “Đức Chúa Trời ôi! Hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch,_Và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng” (Thi. 51:10). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ CHỊU BẮT BỚ VÌ SỰ CÔNG BÌNH” (Ma. 5:10) “Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì Nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy.” (Ma. 5:10) Sứ Đồ PhaoLô đã từng mô tả nhiều hình thức bắt bớ mà ông phải chịu trong quãng đời hầu việc Chúa ở cương vị người giảng Tin Lành. PhaoLô kể cho chúng ta biết Đức Chúa Trời đã giải cứu ông qua tất cả những điều ấy. Các từng trải cá nhân của Sứ Đồ PhaoLô được Đức Thánh Linh cảm thúc thành lời: “12Vả lại, hết thảy mọi người muốn sống cách nhân đức trong Đức Chúa Jêsus Christ, thì sẽ bị bắt bớ. 13Nhưng những người hung ác, kẻ giả mạo thì càng chìm đắm luôn trong điều dữ, làm lầm lạc kẻ khác mà cũng lầm lạc chính mình nữa” (2Ti. 3:12-14). Đức Chúa Trời không hề hứa cho những người tin Ngài về một đời sống “thoải mái”! Thật ra, sống giữa thế gian này, nếu ai kính yêu Đức Chúa Trời thì tất phải gặp bắt bớ; chỉ có điều là việc ấy thuộc trong chương trình tốt đẹp của Đức Chúa Trời: “10Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy. 11Khi nào vì cớ Ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. 12Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các Đấng Tiên Tri trước các ngươi như vậy” (Ma. 5:10-12). Cơ Đốc Nhân thường chịu bắt bớ vì hai lý do chính: Thứ nhất, vì họ sống một đời sống công nghĩa theo tiêu chí của Đức Chúa Trời. Thứ hai, họ không còn chịu ở dưới sự điều khiển của tên chủ nô ngày trước mà đã thuộc về Đức Chúa Trời: “Phước cho các ngươi khi vì cớ Con Người, thiên hạ sẽ ghét, đuổi, mắng nhiếc các ngươi, bỏ tên các ngươi như đồ ô uế…” (Lu. 6:22). I. MỘT SỐ HÌNH THỨC BẮT BỚ… A. HẠI HÀNH… Ý nghĩa căn bản của từ liệu “bắt bớ” (Gk. dioko) là xua đuổi hay săn đuổi, săn lùng. Từ liệu này bao hàm cả sự hại hành, sách nhiễu, ngược đãi mà tình trạng tù tội hay bị sát hại là các biểu hiện tập trung trong mọi giai đoạn lịch sử của xã hội loài người. Kể từ ngày Êtiên bị ném đá cho chết (Công. 7:54-60) vì sự kết ước sắt son với Cứu Chúa của mình, sự bắt bớ thuộc thể trên các Cơ Đốc Nhân không ngừng gia tăng. Giacơ, con của Xêbêđê, bị chém đầu. Tục truyền rằng trên đường ra pháp trường, kẻ cáo giác Giacơ đã rất cảm kích trước lòng dũng cảm của Giacơ nên đã ăn năn tội, cũng đã tự nhận mình là Cơ Đốc Nhân để cùng chịu xử tử hình với Giacơ. Sứ Đồ Philíp đã bị bỏ tù và cuối cùng bị xử đóng đinh năm 54 SC. Sứ Đồ Mathiơ đã phải chịu chết dưới lưỡi gươm. Sứ Đồ Mathia bị ném đá tại thành Giêrusalem trước khi bị chém đầu. Anhrê, em của Sứ Đồ Phierơ, đã bị đóng đinh trên thập tự giá hình chữ X. Sứ Đồ Mác đã phải bị ngựa kéo trên pháp trường tại thành Alécxandria, thân thể nát tan thành hàng trăm mảnh. Người ta kể rằng khi Sứ Đồ Phierơ bị xử đóng đinh, ông đã xin một đặc ân là được treo ngược đầu xuống đất vì ông cảm thấy mình chẳng xứng để chịu cùng một loại pháp hình với Đức Chúa Jêsus. Sứ Đồ PhaoLô đã bị chém đầu. Sứ Đồ Giuđe bị xử đóng đinh. Sứ Đồ Batêlêmy đã bị đánh đập tơi bời trước khi đem treo lên thập tự giá. Sứ Đồ Thôma đã bị giáo đâm xuyên qua ngực cho chết. Theo truyền thuyết, Sứ Đồ Luca bị treo cổ trên một cây Ôlive. Sứ Đồ Simôn bị xử đóng đinh năm 74 SC. Banaba cũng đã bị hành hình trước đó một năm, năm 73 SC. B. SỈ NHỤC… Trút đổ những lời thóa mạ, hằn học hay trêu chọc nham nhở đối với các Cơ Đốc Nhân là chuyện thường tình. Làm công dân của Nước Thiên Đàng là chấp nhận mọi điều phỉ báng của thế gian. Đến như Đức Chúa Jêsus cũng đã từng phải chịu bạt tai, đánh đâp, sỉ vả suốt quãng đường lên đồi Gôgôtha. Lòng trung tín với Đức Chúa Jêsus của Cơ Đốc Nhân nhất định phải được trả giá bằng mọi loại lời lẽ sỉ nhục, chế nhạo. Không phải chỉ ở những xứ mà Cơ Đốc Giáo là thiểu số Cơ Đốc Nhân mới chịu khổ. Ngay tại các quốc gia tiên tiến cũng vẫn thế. Cơ Đốc Nhân tại Hoa Kỳ vẫn phải gặp sự chế nhạo, đố kỵ, kỳ thị,… Họ vẫn có thể bị chủ đuổi việc vì niềm tin tôn giáo của họ cũng giống như Cơ Đốc Nhân ở các nước Châu Á, Châu Phi,… C. VU CÁO… Không những chỉ chịu sỉ nhục trước mặt, Cơ Đốc Nhân còn bị cáo kiện sau lưng nữa. Trong lịch sử nhân loại, Cơ Đốc Nhân là đối tượng để người ta “đổ thừa”: Đốt thành, giết trẻ em, ăn thịt người, lật đổ chế độ… Chúng ta không nên lấy làm lạ về những điều ấy, cả Giăng Báptít lẫn Đức Chúa Jêsus đều cùng chịu cáo buộc tương tự: “18Vì Giăng đã đến, không ăn, không uống, người ta nói rằng: Giăng bị quỉ ám. 19Con Người đến, hay ăn, hay uống, thì họ nói rằng: Kìa, là người ham mê ăn uống, bạn bè với người thâu thuế cùng kẻ xấu nết. Song le, sự khôn ngoan được xưng là phải, bởi những việc làm của sự ấy” (Ma. 11:18-19). II. PHẢN ỨNG CỦA CHÚNG TA… Cơ Đốc Nhân chỉ có duy nhất một thái độ để theo trước các sự bắt bớ đối với niềm tin của họ. Đó là sự vui vẻ chấp nhận: “Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ,…” (Ma. 5:12a). Đây là một sự dạy dỗ lạ lùng: “Hãy vui vẻ” (Gk. chairo). Làm thế nào chúng ta có thể vui vẻ được khi phải chịu bắt bớ? Chúng ta chỉ có thể có thái độ ấy nếu thật lòng tin vào chương trình “Tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời” (Rô. 12:2). Chúng ta sẽ có thể vui vẻ đối với sự bắt bớ vì cớ niềm tin tôn giáo của mình khi tin quyết rằng Đức Chúa Trời đã sắm sẵn phần thưởng cho chúng ta: “… Vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; …” (Ma. 5:12b). Thánh đồ mọi thời đại đều biết vui vẻ, họ chấp nhận “Chịu đau đớn với Ngài hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài’ (Rô. 8:17). Sứ Đồ PhaoLô viết bởi Đức Thánh Linh để dạy chúng ta: “… 3Chúng ta cũng khoe mình trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn sanh sự nhịn nhục, 4sự nhịn nhục sanh sự rèn tập, sự rèn tập sanh sự trông cậy. 5Vả, sự trông cậy không làm cho hổ thẹn, vì sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta” (Rô. 5:3-5). Sứ Đồ Phierơ cũng viết dạy chúng ta theo cùng một ý tưởng ấy: “Nếu có ai vì làm tín đồ Đấng Christ mà chịu khổ, thì đừng hổ thẹn: Thà hãy vì Danh ấy ngợi khen Đức Chúa Trời là hơn” (1Phi. 4:16). Cơ Đốc Nhân chỉ có thể vui vẻ trước các sự bắt bớ khi họ nhận thức được một cách rõ ràng rằng đời sống trên thế gian này là tạm, và họ kể rằng “Đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời” (Côl. 3:3). Cơ Đốc Nhân chỉ có thể vui vẻ trước các sự bắt bớ khi họ không “19Chứa của cải ở dưới đất, là nơi có sâu mối, ten rét làm hư, và kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy; 20nhưng phải chứa của cải ở trên trời, là nơi chẳng có sâu mối, ten rét làm hư, cũng chẳng có kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy” (Ma. 6:19-20). Sự vui vẻ của Cơ Đốc Nhân trước các sự bắt bớ sẽ đến khi họ biết được rằng họ thuộc về đại gia đình các thánh đồ của mọi thời đại: “ … Bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các Đấng Tiên Tri trước các ngươi như vậy” (Ma. 5:12c, Sv. Hê. 11:32-40). Đức Tổng Giám Mục John Chrysostom (Tức John of Antioch, 347-407 SC., được tấn phong Linh Mục năm 386 SC., Tổng Giám Mục tại Constantinople năm 407 SC.) đã từng mạnh mẽ giảng dạy để vạch trần tội lỗi đến nỗi làm mếch lòng Hoàng Hậu Eudoxia cũng như nhiều chức sắc Giáo Hội khác. Khi Hoàng Đế Arcadius cho đòi vào để răn đe rằng nếu không chịu ngưng sự giảng dạy ấy sẽ bị lưu đày. John Chrysostom trả lời Hoàng Đế Arcadius: “Thưa Ngài, Ngài không thể nào lưu đày tôi được, vì cả thế gian này là nhà của Cha tôi!”. Khi Hoàng Đế Arcadius dọa giết, John Chrysostom dõng dạc trả lời: “Ngài không thề giết được tôi đâu, vì sự sống của tôi đã được giấu với Đức Chúa Jêsus Christ trong Đức Chúa Trời”. Tức giận, Hoàng Đế Arcadius hét lên: “Giỏi! Ta sẽ tịch thu hết tài sản nhà ngươi!”. John Chrysostom trả lời: “Thưa Ngài, đó cũng là một điều Ngài không sao làm được, vì tôi đã chứa của cải của tôi ở trên trời là nơi không ai có thể đào ngạch khoét vách mà lấy được!”. Hoàng Đế Arcadius ra quyết định: “Trẫm sẽ bắt nhà ngươi đến một nơi hoang vu, xa lạ; phải sống cô đơn không có bất cứ ai ở bên cạnh nhà ngươi cả”. John Chrysostom trả lời: “Không khi nào Ngài có thể làm được như thế vì Đức Chúa Trời của tôi có hứa rằng Ngài sẽ không bao giờ lìa bỏ tôi!”. Sau đó John Chrysostom đã bị phát vãn. Ban đầu phải chịu biệt cư ở Armenia. Vẫn không thỏa lòng, những kẻ bắt bớ John Chrysostom quyết định đày ông xa hơn về phía Hắc Hải, tại Pytius. Thế nhưng Arcadius đã không thể được toại nguyện vì trên đường đi Pytius, Đức Chúa Trời đã đón linh hồn John Chrysostom về Thiên Đàng để vui hưởng phước hạnh đời đời, thoát khỏi sự bắt bớ của đời ác này… “10Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy. 11Khi nào vì cớ Ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. 12Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các Đấng Tiên Tri trước các ngươi như vậy” (Ma. 5:10-12). III. PHẢI HIỂU CHO ĐÚNG… Để có thể hưởng được ơn phước Thiên Thượng, chúng ta cần phải hiểu đoạn văn Kinh Thánh này cho đúng. Phước hạnh và sự an ủi của đoạn văn Kinh Thánh này không dành cho tất cả những ai “bị bắt bớ’ mà chỉ dành cho những ai “chịu bắt bớ vì sự công bình”. Trong lịch sử nhân loại, có nhiều hoạt động tôn giáo và khá nhiều nhà hoạt động tôn giáo phải chịu bắt bớ, thế nhưng không phải tất cả các sự bắt bớ vì tôn giáo đều là “bắt bớ vì sự công bình”: “Trong anh em chớ có ai chịu khổ như kẻ giết người, như kẻ trộm cướp, như kẻ hung ác, như kẻ thày lay việc người khác…” (1Phi. 4:15). Phước hạnh không dành cho những người thực hành niềm tin tôn giáo của mình một cách lập dị, trái khoáy. Phước hạnh không dành cho những người phát triển niềm tin tôn giáo của mình một cách ngạo mạn, dối gạt, hay kém thiếu về đức khiêm nhường. Phước hạnh cũng không dành cho những con người giả danh tôn giáo… Kinh Thánh không hề hứa sự phước hạnh cho những con người ngoan cố, ngỗ ngáo. Kinh Thánh dạy: “16Kìa, Ta sai các ngươi đi khác nào như chiên vào giữa bầy muôn sói. Vậy, hãy khôn khéo như rắn, đơn sơ như chim bồ câu. 17Hãy coi chừng người ta; vì họ sẽ nộp các ngươi trước tòa án, đánh đòn các ngươi trong Nhà Hội…” (Ma. 10:16-17). Thật ra, những người “chịu bắt bớ vì sự công bình” chính là những người có đời sống bày tỏ được các mỹ đức của Đức Chúa Jêsus, họ có đời sống giống như Cứu Chúa của mình và cho Cứu Chúa của mình: “14Nếu anh em phải vì sự công bình mà chịu khổ, ấy thật là có phước. Chớ sợ điều họ sợ và đừng rối trí; 15nhưng hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ” (1Phi. 3:14-15). “Ví bằng anh em vì cớ Danh Đấng Christ chịu sỉ nhục, thì anh em có phước; vì sự vinh hiển và Thánh Linh của Đức Chúa Trời đậu trên anh em” (1Phi. 4:14). “18Ví bằng người đời ghét các ngươi, thì hãy biết rằng họ đã ghét Ta trước các ngươi. 19Nếu các ngươi thuộc về thế gian; thì người đời sẽ yêu kẻ thuộc về mình; nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian và Ta đã lựa chọn các ngươi giữa thế gian, bởi cớ đó người đời ghét các ngươi” (Gi. 15:18-19). Lời hứa trong sự dạy dỗ ở đây tương đồng với lời hứa dành cho “những kẻ có lòng khó khăn” (Ma. 5:3). Cả hai đối tượng này cùng được hưởng “Nước Thiên Đàng”. Trên một phương diện, “Nước Thiên Đàng” chính là kinh nghiệm bản thân về sự điều khiển, dắt dẫn của Đức Chúa Trời trên đời sống cá nhân. Để hưởng được “Nước Thiên Đàng”, trước hết người ta phải mở cửa lòng mình ra để đón nhận (Ma. 5:3). “Nước Thiên Đàng” là năng lực cảm thụ và đáp ứng với quyền năng Thiên Thượng khiến cho Cơ Đốc Nhân không còn sống theo các tiêu chí của thế gian. Một khi “Nước Thiên Đàng” ngự trị trong đời sống một người, bông trái Thánh Linh tất yếu phải được bày tỏ, và cũng chính vì thế mà Cơ Đốc Nhân phải “chịu bắt bớ” (Ma. 5:10). Ngày nay, thế gian bắt bớ Cơ Đốc Nhân vì cùng một lý do mà ngày xưa người ta đã bắt bớ Đức Chúa Jêsus. Cơ Đốc Nhân “chịu bắt bớ” vì phẩm hạnh của họ có tác dụng vạch trần tính chất bại hoại của đời này. Phẩm hạnh Cơ Đốc luôn luôn là mẫu đối chứng để thế gian nhận biết mỹ đức Thiên Đàng. Sự khác biệt giữa Cơ Đốc Nhân và người đời là một sự khác biệt căn bản, đó là sự khác biệt giữa sáng và tối. “Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hế nhận lấy sự sáng…” (Gi. 1:5). “Họ thấy anh em chẳng cùng họ theo sự dâm dật bậy bạ ấy, thì họ lấy làm lạ và gièm chê…” (1Phi. 4:4). Nhưng nào có hề gì! “19Sự cuối cùng của họ là hư mất, họ lấy bụng mình làm Chúa mình, và lấy sự xấu hổ của mình làm vinh hiển, chỉ tư tưởng về các việc thế gian mà thôi. 20Nhưng chúng ta là công dân trên trời, ấy là từ nơi đó mà chúng ta trông đợi Cứu Chúa của mình là Đức Chúa Jêsus Christ, 21Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật” (Phil. 3:19-21). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHƯỚC CHO KẺ LÀM CHO NGƯỜI HÒA THUẬN” (Ma. 5:9) “Phước cho những kẻ làm cho người hòa thuận, vì sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời.” (Ma. 5:9) Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy dẫy sự đấu đá và tranh cạnh mà mọi lĩnh vực xã hội đều chịu ảnh hưởng nghiêm trọng. Giữa một bối cảnh như vậy, Đức Chúa Trời kêu gọi Dân Ngài hãy sống làm người hiếu hòa. “Phước cho những kẻ làm cho người hòa thuận, vì sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời” (Ma. 5:9). Để có thể hiểu được điều gì Đức Chúa Trời muốn cho chúng ta sống theo, cần phải hiểu rõ thế nào là “bất hòa”, thế nào là “ngụy hòa”, và thế nào mới là “hiếu hòa” theo ý muốn của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh. I. NGƯỜI BẤT HÒA Người bất hòa là người theo đuổi một đường lối làm suy yếu, đổ vỡ các mối quan hệ để tạo nên các sự trục trặc và chia rẽ. Người bất hòa chỉ biết lôi kéo người khác để thỏa mãn ý muốn chủ quan và bản ngã của họ. Kinh Thánh có những lời dạy về họ rất dứt khoát, minh bạch: “17Hỡi anh em, tôi khuyên anh em coi chừng những kẻ gây nên bè đảng và làm gương xấu, nghịch cùng sự dạy dỗ mà anh em đã nhận. Phải tránh xa họ đi. 18Vì những kẻ đó chẳng hầu việc Đấng Christ, Chúa chúng ta, song hầu việc cái bụng họ, và lấy những lời ngọt ngào dua nịnh dỗ dành lòng kẻ thật thà” (Rô. 16:17-18). Hội Thánh của Đức Chúa Trời không thể nào dung túng những con người bất hòa được, vì người bất hòa sẽ thủ tiêu các nguyên tắc sống còn của Hội Thánh Địa Phương. Những người bất hòa luôn chống lại sự vận hành của Đức Chúa Trời, họ là tác nhân ngăn trở đối với sự phấn hưng theo ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống Hội Thánh. Ngược lại, Kinh Thánh đề cao sự hòa thuận, lấy đó làm nguyên tắc sống cho đời sống của cộng đoàn Dân Chúa: “1Kìa, anh em ăn ở hòa thuận nhau_Thật tốt đẹp thay!_2Ấy khác nào dầu quí giá đổ ra trên đầu,_Chảy xuống râu, tức râu của Arôn,_Chảy đến trôn áo người…” (Thi. 133:1-2). Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể loại bỏ sự bất hòa (cũng như người bất hòa) khỏi Hội Thánh nếu từng người chúng ta biết tra xét chính tấm lòng của mình! “1Hỡi anh em, trong vòng anh em chớ có nghiều người tự lập làm thầy, vì biết như vậy, mình sẽ phải chịu xét đoán càng nghiêm hơn. 2Chúng ta thảy đều vấp phạm nhiều cách lắm. Nếu có ai không vấp phạm trong lời nói mình, ấy là người trọn vẹn, hay hãm cầm cả mình” (Gia. 3:1-2). Con đường ngắn nhất để đi đến sự bất hòa là việc sử dụng môi miệng vô nguyên tắc: Nói hành, nhiều chuyện, phao phản, xét đoán,… Đó chính là điều sẽ tạo ra rạn nứt, phân rẽ dẫn đến sụp đỗ. Gài cho Cơ Đốc Nhân mắc bẫy bằng chính môi miệng của họ là một loại vũ khí dầu rất cổ điển nhưng vô cùng lợi hại mà Satan luôn luôn tận dụng để phá hoại Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Chúng ta phải hết sức thận trọng trong sự tiết độ môi miệng: “9Bởi cái lưỡi chúng ta khen ngợi Chúa, Cha chúng ta, và cũng bởi nó chúng ta rủa sả loài người, là loài tạo theo hình ảnh Đức Chúa Trời. 10Đồng một lỗ miệng mà ra cả sự khen ngợi và rủa sả! Hỡi anh em, không nên như vậy!” (Gia. 3:9-10). II. NGƯỜI NGỤY HÒA Đức Chúa Trời đòi hỏi phải loại trừ sự bất hòa (cũng như người bất hòa) ra khỏi Hội Thánh của Ngài. Tuy nhiên, Kinh Thánh cũng không hỗ trợ cho thái độ ngụy hòa: “14Ngài muốn chúng ta không như trẻ con nữa, bị người ta lừa đảo, bị mưu chước dỗ dành làm cho lầm lạc, mà day động và dời đổi theo chiều gió của đạo lạc, 15nhưng muốn chúng ta lấy lòng yêu thương nói ra lẽ chân thật, để trong mọi việc chúng ta đều được thêm lên trong Đấng Làm Đầu, tức là Đấng Christ” (Êph. 4:14-15). Người ngụy hòa cho rằng “hòa thuận” là không được có bất kỳ sự tranh luận, dị biệt nào cả; là phải chấp nhận tất cả. Đối với người ngụy hòa, lẽ thật Kinh Thánh không cần phải có vị trí ưu tiên hàng đầu, mà ưu tiên hàng đầu là sự đầu hàng: Cất bỏ tất cả mọi sự, kể cả lẽ thật Kinh Thánh, để có thể chấp nhận tất cả mọi sự, kể cả những điều phi Kinh Thánh và phản Kinh Thánh. Người ngụy hòa sẵn sàng uốn cong Lời Kinh Thánh theo chủ trương của họ. Họ coi thường các sự dạy dỗ Kinh Thánh để theo đuổi xúc cảm riêng và tham vọng ích kỷ một cách rất bản năng: “…10Những kẻ nầy, hễ điều gì không biết thì khinh dễ hết, và mọi điều chúng nó tự nhiên mà biết cũng như con thú vật vô tri, thì dùng mà làm hư mình. 11Khốn nạn thay cho chúng nó, vì đã theo đường của Cain, lấy lòng tham lợi mà gieo mình vào sự sai lạc của Balaam, và bị hư mất về sự phản nghịch của Côrê” (Giu. 10-11). Trên phương diện bản chất, thái độ ngụy hòa chính là một biến tướng của chủ nghĩa thỏa hiệp. Trên phương diện lý thuyết, thái độ ngụy hòa là phi hiện thực và phản Kinh Thánh. Trên phương diện thực tế, không thể nào dung hợp được giữa sự sáng và sự tối. Cuộc đấu tranh giữa sáng và tối là một cuộc đấu tranh không khoan nhượng. Trước thái độ ngụy hòa (tức chủ nghĩa thỏa hiệp), Cơ Đốc Nhân, nếu là Cơ Đốc Nhân chân chính, phải để Lời Kinh Thánh “nói ra lẽ chân thật, để trong mọi việc chúng ta đều được thêm lên trong Đấng Làm Đầu, tức là Đấng Christ”: “Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng” (Gi. 1:5). “14Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin. Bởi vì công bình với gian ác có hội hiệp nhau được chăng? Sự sáng với sự tối có thông đồng với nhau được chăng? 15Đấng Christ và Bêlian nào có hòa hiệp chi, hay là kẻ tin có phần gì với kẻ chẳng tin?... 17Bởi vậy Chúa phán rằng:_Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó,_Đừng đá động đến đồ ô uế,_Thì Ta sẽ tiếp nhận các ngươi” (2Cô. 6:14-15, 17). “Đấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do, vậy hãy đứng vững, chớ lại để mình dưới ách tôi mọi nữa” (Gal. 5:1). Kinh Thánh không cho phép Cơ Đốc Nhân thỏa hiệp, đầu hàng mà là phải vững vàng, triệt để trong cuộc chiến cho lẽ thật của Đức Chúa Trời: “…Hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ” (1Phi. 3:15). “Song điều tôi làm, tôi còn làm nữa, để cất mọi mưu của kẻ tìm mưu, hầu cho trong những sự họ lấy mà khoe mình, chẳng có một sự nào trỗi hơn chúng tôi được” (2Cô. 11:12). A. W. Tozer viết như sau: “‘Một cây làm chẳng nên non’ là câu nói cửa miệng của những nhà lãnh đạo chính trị nham hiểm, và Satan cũng biết cách làm thế nào để lừa bịp Dân Chúa bằng câu ‘Ba cây chụm lại thành hòn núi cao’… Sức mạnh nằm bên trong sự hiệp nhất của những yếu tố tương đồng, và cũng nằm bên trong sự phân rẽ của những yếu tố dị biệt… Mọi người đều mong ước sự hòa bình, nhưng phấn hưng chỉ có thể đến sau lưỡi gươm của Đức Chúa Jêsus Christ”. Đức Chúa Jêsus phán: “34Chớ tưởng rằng Ta đến để đem sự bình an cho thế gian; Ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm giáo. 35Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia; 36và người ta sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình” (Ma. 10: 34-36). III. NGƯỜI HIẾU HÒA Ai cũng biết Đức Chúa Jêsus là Sứ Giả Bình An từ Thiên Thượng, Ngài là Đấng Hiếu Hòa, nhưng chính Ngài lại phán những lời lạ lùng ấy! Điều này giúp cho chúng ta biết được rằng sự bình an mà Đức Chúa Jêsus thiết lập không cùng một loại theo quan niệm của thế gian. Sự bình an mà Đức Chúa Jêsus đem đến cho chúng ta không chỉ có nghĩa là một trạng thái không tranh chiến. Sứ mệnh thiêng liêng của Đức Chúa Jêsus là đem mọi người trở về với Đức Chúa Trời. Việc đem nhân loại trở về với Đức Chúa Trời là việc lội dòng nước ngược, là làm thay đổi các thứ tự ưu tiên. Đem nhân loại trở về với Đức Chúa Trời là giúp cho “những kẻ có lòng khó khăn” biết “than khóc” cho thân phận mình để trở thành “những kẻ nhu mì”, biết “đói khát sự công bình”, trở nên “hay thương xót”, và “có lòng trong sạch”. Đem nhân loại trở về với Đức Chúa Trời đồng nghĩa với việc chấp nhận một cuộc tranh chiến toàn diện và triệt để! Tuy nhiên, đó mới là sự vận động chân chính của quá trình dẫn đến hình thành con người hiếu hòa, thái độ hiếu hòa: Hòa thuận với Đức Chúa Trời, hòa hợp chính trong bản thân, nhiên hâu mới hòa bình được với tha nhân. Đức Chúa Jêsus là xuất phát điểm mà cũng là đích điểm của tiến trình ấy: “Bởi huyết Ngài trên thập tự giá, thì đã làm nên hòa bình, khiến muôn vật dưới đất trên trời đều nhờ Ngài mà hòa thuận cùng chính mình Đức Chúa Trời” (Côl. 1:20). Không thể làm một người hiếu hòa khi vấn đề tội lỗi đối với Đức Chúa Trời chưa được xử lý xong. Tuy nhiên, không thể xử lý được vấn đề tội lỗi đối với Đức Chúa Trời mà không thông qua Đức Chúa Jêsus: “Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ…” (1Ti. 2:5). “Vả, Đấng Christ cũng vì tội lỗi chịu chết một lần, là Đấng công bình thay cho kẻ không công bình, để dẫn chúng ta đến cùng Đức Chúa Trời…” (1Phi. 3:18). “Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được hòa thuận với Đức Chúa Trời, bởi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta” (Rô. 5:1). Trạng thái nội tại của con người khi chưa tiếp nhận sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus là trạng thái tự tranh chiến giữa các yếu tố xung khắc nhau trong lý trí, ý chí, và tình cảm. Sự bình an với Đức Chúa Trời sẽ thay đổi nhân sinh quan, thế giới quan, và phương pháp luận của mỗi người đã từng một thời bị cầm tù trong sự lừa dối của kẻ thù thuộc linh là tư dục, thế gian, và ma quỉ. Sự bình an ấy có tác dụng khai phóng viễn cảnh của chúng ta. Một người sau khi thiết lập trở lại quan hệ phải lẽ với Đức Chúa Trời qua việc tiếp nhận sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus vẫn mang tên gọi cũ, vẫn còn thân xác cũ, nhưng lại là một con người đã được đổi mới về bản chất và trong các mối quan hệ; và mọi sự trở nên hòa hợp trong họ: “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (2Cô. 5:17). “Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Phil. 4:17). Mệnh lệnh của Đức Chúa Trời là “hãy cầu sự bình an với mọi người” (Côl. 3:15), thế nhưng sự bình an thể hiện qua thái độ hiếu hòa chân chính chỉ có thể có trong đời sống công nghĩa của những con người đã được xưng công nghĩa bởi Ân Điển của Đức Chúa Trời: “Vả, bông trái của điều công bình thì gieo trong sự hòa bình, cho những kẻ nào làm sự hòa bình vậy” (Gia. 3:18). “Mọi điều đó đến bởi Đức Chúa Trời, Ngài đã làm cho chúng ta nhờ Đấng Christ mà được hòa thuận lại cùng Ngài, và đã giao chức vụ giảng hòa cho chúng ta” (2Cô. 5:18). “Con Đức Chúa Trời” có hai nghĩa: (1) Nghĩa xác lập: Được tái sanh bởi Đức Chúa Trời, và (2) Nghĩa thể hiện: Sống đời sống tái sanh. Theo phương diện thứ nhất, chỉ có trở thành con cái của Đức Chúa Trời bằng việc tiếp nhận sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus người ta mới có thể trở nên “kẻ làm cho người hòa thuận”. Theo phương diện thứ hai, “kẻ làm cho người hòa thuận” xác lập được chức phận con Đức Chúa Trời của mình trong thực tế cuộc sống bằng đời sống hiếu hòa. Trong lời dạy “Phước cho những kẻ làm cho người hòa thuận, vì sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời”, từ liệu “con” (Gk. huios) nhấn mạnh đến địa vị cao trọng được thể hiện ra trong đời sống thực tiễn. “Được gọi là con Đức Chúa Trời” tức là được nhìn nhận qua thực tế rằng đã có được sự bình an thật mà Đức Chúa Trời trao ban trong và qua Đức Chúa Jêsus, có sự bình an bản thân của một đời sống tái sanh, và có sự bình an với tha nhân trong chức vụ giảng hòa bằng Tin Lành Cứu Rỗi: “Con Đức Chúa Trời” phải sống rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi họ “ra khỏi nơi tối tăm, đến nới sáng láng lạ lùng của Ngài” (1Phi. 2:9). Họ là “kẻ làm cho người hòa thuận” chứ không còn là người thỏa hiệp, đầu hàng, hay gieo bất hòa vì lợi ích ích kỷ nữa. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHẢI VUI MỪNG GIỮA CẢNH GIAN TRUÂN” (Gia. 1:1-4) “Hỡi anh em, hãy coi sự thử thách trăm bề thoạt đến cho anh em như là điều vui mừng trọn vẹn.” (Gia. 1:2) Ngay từ lời mở đầu, Sứ Đồ Giacơ “chúc bình an” cho các Cơ Ðốc Nhân Do Thái bị tản lạc khắp trong thế giới La Mã. Giacơ hiểu được rằng họ đang phải ở giữa cảnh gian truân; họ không những bị bắt bớ bởi người ngoại giáo mà lại còn phải chịu sự phỉ báng của những người đồng chủng tộc với mình nữa. Hoàn cảnh thật đen tối. Thế nhưng với một tấm lòng đầy yêu thương, đồng cảm, Sứ Đồ Giacơ chúc cho họ được bình an ngay giữa cơn đại nạn. Lời “Chúc bình an” (Gk. “chairo”) ở đây là một lời chào kêu gọi sự vui mừng: “Hãy vui mừng lên!”. Hiển nhiên đây là một sự kêu gọi các Cơ Ðốc Nhân về một tinh thần, thái độ, niềm tin, lối sống,… chứ không phải chỉ thuần túy là một sự cầu mong được an lành qua cơn gian truân. I. PHẢI BIẾT VUI MỪNG NGAY GIỮA CẢNH GIAN TRUÂN (Câu. 2) Ở vào địa vị của những độc giả đầu tiên của Thư Tín này, ai cũng phải tự hỏi vì sao Sứ Đồ Giacơ lại đưa ra một lời cầu chúc, nói đúng hơn là một sự dạy dỗ, như thế? Một cách hết sức tự nhiên, người ta sẽ đặt câu hỏi rằng liệu như thế có bình thường hay không? 1. Vui Mừng Giữa Cảnh Gian Truân Là Điều Có Thể Thực Hiện Được. Sự vui mừng giữa cảnh gian truân là điều có thể thực hiện được, nhưng chỉ với các Cơ Ðốc Nhân chân thực mà thôi. Đối với một người thế gian, lời kêu gọi của Sứ Đồ Giacơ là một điều không bình thường, không thể nào chấp nhận được, và quả thực đó là một điều họ không sao hiểu được. Đối với một người khắc kỷ, khi lâm vào vòng nghịch cảnh, cố gắng hết sức thì họ cũng chỉ có thể tự kiềm chế mình để có thể thuận theo tình thế bắt buộc mà thôi. Đối với người theo chủ nghĩa hưởng lạc, trong trường hợp lâm cảnh gian truân, họ không thể nào tự mình xoay xở để thoát khỏi tai ương. Chỉ duy nhất những người có đức tin đặt nơi Ðức Chúa Trời mới nắm vững được thuật luyện vàng trong đời sống đức tin để có thể biến buồn ra vui được. 2. Vui Mừng Giữa Cảnh Gian Truân Là Biết Vâng Lời. Vui mừng ngay giữa vòng gian truân là điều vốn có trong sự hiểu biết, đức tin và niềm hy vọng của mọi Cơ Ðốc Nhân chân chính. Các Cơ Ðốc Nhân đều biết rằng Ðức Chúa Trời là Cha của mình, và họ biết chắc rằng Ngài yêu quí con cái Ngài. Các Cơ Ðốc Nhân biết chắc rằng Ðức Chúa Trời có một sự sắp đặt để đem lại điều tốt nhất cho họ (Rô. 8:28). Các Cơ Ðốc Nhân trưởng thành biết rõ rằng ngay cả trong trường hợp phải sửa phạt các con cái vi phạm của mình, Ðức Chúa Trời vẫn cứ giữ tấm lòng người Cha nhân từ đối với họ. Không có gì có thể phân rẽ các Cơ Ðốc Nhân khỏi tình yêu thương của Ðức Chúa Trời được. Các Cơ Ðốc Nhân tin quyết rằng tất cả những nghịch cảnh và tai ương trên đời này chỉ là “sự hoạn nạn nhẹ và tạm” để rồi sẽ đem lại cho họ “sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng vô biên” (2Cô. 4:17). Những từng trải đau thương của các Cơ Ðốc Nhân chỉ là cách để tô điểm cho họ nét đẹp của đời sống mới để rồi “Ngó như buồn rầu, mà thường được vui mừng” (2Cô. 6:10). 3. Vui Mừng Giữa Cảnh Gian Truân Để Nêu Gương Tốt. Sự vui mừng giữa cảnh gian truân chính là phẩm cách cao quí hơn hết của đức tin. Môise đã “Coi sự sỉ nhục về Ðấng Christ là quí hơn của châu báu xứ Êdíptô, vì người ngửa trông sự ban thưởng” (Hê. 11:26). Tại thành Philíp, Sứ Đồ Phaolô vẫn hát ngợi khen Chúa dầu cho chân đang bị khóa chặt trong cùm (Công. 16:24, 25). Sứ Đồ Phierơ dạy chúng ta rằng “Nếu có ai vì làm tín đồ Ðấng Christ mà chịu khổ, thì đừng hổ thẹn; thà hãy vì danh ấy ngợi khen Ðức Chúa Trời là hơn” (1Phi. 4:16). Vị Sứ Đồ dũng cảm này vừa khích lệ, vừa nêu gương cho chúng ta “Hãy cứ làm lành mà phó linh hồn mình cho Ðấng Tạo Hóa thành tín” (1Phi. 4:19). Có biết bao gương sáng về sự vui mừng giữa cảnh gian truân mà những người vâng lời Ðức Chúa Trời đã nêu. Bunyan chịu đựng cảnh lao tù suốt 12 năm dài trước khi qua đời và kể đó là thời gian ông được ở trong tiền sảnh của Thiên Đàng. Chính vì biết rằng “Có phần trong sự đau đớn, thì cũng có phần trong sự yên ủi” (2Cô. 1:7) mà tiến sĩ Arnold, ngay giữa khi cơn bạo bệnh bộc phát, đã nói rằng “Con xin cảm tạ Chúa về sự đau đớn này!”. Không thể thấy hết và đếm hết được, nhưng thực ra mỗi ngày đều có hàng ngàn Cơ Ðốc Nhân biết sống đời sống làm chứng trong hoạn nạn, vì họ biết rằng “Hoạn nạn sanh ra nhịn nhục, sự nhịn nhục sanh sự rèn tập, sự rèn tập sanh sự trông cậy” (Rô. 5:3, 4). Khi các Cơ Ðốc Nhân biết vui mừng ngay giữa cảnh gian truân, họ nêu gương sáng về sự trông cậy nơi Ðức Chúa Trời; gương trông cậy của họ giúp khích lệ người khác cũng biết trông cậy như chính họ vậy. II. LỢI ÍCH CỦA SỰ GIAN TRUÂN (Câu 3, 4) Những gian truân đến trong đời sống các Cơ Ðốc Nhân chính là những thử thách ngoại lai. Trên cương vị con cái của Ðức Chúa Trời, Ngài cho phép thử thách đến để thăng tiến đời sống của họ. 1. Sự Thử Thách Thăng Tiến Sự Tự Thức Của Cơ Ðốc Nhân (Câu 3). Trên một phương diện, sự thử thách là bằng chứng của đức tin. Sự thử thách đến để thử nghiệm bản lãnh và tính cách của mỗi người. Khi đứng trên boong của một con tàu đang chìm người ta có thể nhận ra được mình là một tay anh hùng hay chỉ là một tên hèn nhát. Hoạn nạn làm bộc lộ ra ngoài những gì ẩn kín bên trong tấm lòng của một con người. Sự căng thẳng do tai ương đem lại có thể giúp bày tỏ được những nhược điểm của một tính cách mà không có cách nào khác làm cho chúng lộ rõ ra như thế được. Tai ương cũng giúp cho người ta thấy được mình đã đạt đến đâu trên tiến trình nên thánh. 2.Sự Thử Thách Giúp Phát Triển Đức Kiên Nhẫn (Câu 3). Trong suốt thư tín của mình, Sứ Đồ Giacơ luôn đề cao và khắc họa ân điển này. Lời của Sứ Đồ Giacơ ở đây là “sự nhịn nhục”, tức sự bền lòng chịu đựng. Đức kiên nhẫn Cơ Ðốc không đồng nghĩa với sự khuất phục một cách miễn cưỡng, cũng không đồng nghĩa với ý chí ngoan cố. Vốn được cảm kích bởi một tấm lòng tin kính sống động cho nên đức kiên nhẫn Cơ Ðốc có đầy sự thông biết và tính ngoan cường. Cốt lõi của đức kiên nhẫn Cơ Ðốc là ở việc yên lặng duy trì những phần nhất định nào đó trong bản chất của Cơ Ðốc Nhân theo như ý chỉ của Ðức Chúa Trời muốn họ phải duy trì, trong khi đó các nét tính cách khác của họ được sự kiên nhẫn ấy thực tập, rèn luyện. Theo cách nói ở đoạn Kinh Thánh này, Sứ Đồ Giacơ cho thấy đức kiên nhẫn Cơ Ðốc là một điều quí giá không tả xiết. Sứ Đồ Giacơ cho rằng ai có được đức kiên nhẫn ấy chính là người khôn ngoan hơn hết, thịnh vượng hơn hết vì nhờ đó mà họ có được “sự vui mừng trọn vẹn” (Gk. “pas”: mọi hình thức, tất cả,…). Ai biết vận dụng mọi gian truân trong đời sống mình để rèn luyện đức kiên nhẫn Cơ Ðốc theo cách như thế sẽ là người thắng cuộc. Họ sẽ không bị hoàn cảnh đè bẹp, và họ sẽ nhận được những lời chúc mừng của các anh, chị, em khác trong đức tin chứ không phải chỉ là những lời chia buồn ảm đạm như người trong thế gian. 3. Sự Thử Thách Góp Phần Cho Sự Hoàn Thiện Đạo Đức (Câu 4). Sự hoàn thiện đạo đức chính là một mục đích mà Ðức Chúa Trời muốn các con cái Ngài đạt được. Ðức Chúa Trời muốn các Cơ Ðốc Nhân “Trọn lành toàn vẹn, không thiếu thốn chút nào”; Ngài muốn chúng ta trở nên hoàn mỹ qua sự giáo hóa thuộc linh. Sự gian truân theo thánh ý luôn có tác dụng giáo dưỡng. Thói quen kiên cường trong gian truân và vui mừng trong sự chịu đựng giúp đem lại sự trưởng thành và sự cân đối cho linh hồn chúng ta. Một số những đức hạnh Cơ Ðốc như sự nhẫn nhục hay đức thấu cảm chỉ có thể có được nhờ sự gian truân. Một tinh thần Cơ Ðốc quân bình một cách tinh tế không phải là kết quả của một cuộc đời bình lặng không hề đối đầu sóng gió. Sự hoạn nạn chính là tác nhân giúp hình thành một tính cách cao đẹp, vì “Hoạn nạn sanh ra sự nhịn nhục” (Rô. 5:3). Từng trải sự gian truân giúp cho Cơ Ðốc Nhân trở nên trọn vẹn (2Cô. 12:9), và đó chính là một sự dạy dỗ xuyên suốt Kinh Thánh Tân Ước. Đời sống của chúng ta có lúc phải được nhào nặn bằng những va đập bất ngờ và mãnh liệt để có được một khuôn dạng đẹp ý Ðức Chúa Trời. Những sự buồn phiền trong đời sống Cơ Ðốc Nhân phải được biến thành những nấc thang thuộc linh giúp họ mỗi ngày càng trèo lên cao hơn để càng lúc càng thấy được sự chói lọi, vinh hiển của Ðức Chúa Trời rõ hơn. Trong gian truân và qua gian truân, linh hồn của chúng ta sẽ tiến gần đến Ðức Chúa Trời. III. Ý NGHĨA ĐÍCH THỰC CỦA SỰ GIAN TRUÂN Từng trải sự gian truân không phải chỉ là một sự chọn lựa tùy ý (2Ti. 3:12) mà là một phương thức thăng tiến cho các Cơ Ðốc Nhân (Rô. 8:28). Ý nghĩa đích thực của sự thử thách cần phải được nhìn nhận: 1. Theo Một Góc Nhìn Mới. Đối với những người chưa tin Chúa, họ luôn kêu ca, phàn nàn giữa cơn hoạn nạn vì phải chịu đựng ngoài ý muốn. Cơ Ðốc Nhân không được phép nhìn sự việc theo góc nhìn chật hẹp ấy. Không có điều gì xảy đến với Cơ Ðốc Nhân ngoài ý muốn của Ðức Chúa Trời. Ðức Chúa Trời luôn có mục đích tốt đẹp trong công việc của Ngài và cho những người nương cậy Ngài. Sự từng trải gian truân của các Cơ Ðốc Nhân không phải chỉ thuần túy là sự khuất phục một cách lãnh đạm, miễn cưỡng. Sự chịu đựng thử thách của Cơ Ðốc Nhân là việc bền lòng duy trì những đức hạnh Cơ Ðốc nhất định nào đó qua nghịch cảnh, đồng thời cũng kinh qua nghịch cảnh ấy mà phát triển các đức hạnh Cơ Ðốc khác nữa để đạt đến mức “Thành nhân, được tầm thước vóc giạc trọn vẹn của Ðấng Christ” (Êph. 4:13). 2. Trong Một Ý Nghĩa Mới. Biết được rằng những sự gian truân chính là những thập tự giá được gửi đến cho đời sống Cơ Ðốc (Ma. 16:24), Cơ Ðốc Nhân hoàn toàn có quyền vui mừng vì chính đó là phương thức Ðức Chúa Trời sử dụng để thăng tiến đời sống của họ. Sự gian truân trong đời sống Cơ Ðốc Nhân không còn mang ý nghĩa thường tình vốn có của nó. Đối với các Cơ Ðốc Nhân, sự gian truân trong đời sống họ chỉ là sự thử thách để họ có cơ hội được tự chứng về mình. Sự gian truân trong đời sống Cơ Ðốc hoàn toàn đồng nghĩa với sự rèn luyện cho được vững vàng hơn. 3. Với Tầm Quan Trọng Trong Sự Nghiệp Đời Đời. Mỗi Cơ Ðốc Nhân đều đứng trước một sự thử nghiệm có tính chất quyết định: Phải kinh qua thử thách một cách đắc thắng để đạt đến sự trưởng thành thuộc linh mà Ðức Chúa Trời đòi hỏi. Qui mô phần thưởng của các Cơ Ðốc Nhân tùy thuộc vào mức độ hoàn thành sự thử nghiệm của họ (Khải. 2:10; 22:12). Vinh hiển tương lai của Cơ Ðốc Nhân được bảo đảm bằng các thử thách hiện tại. Sự gian truân đến bởi thánh ý Ðức Chúa Trời không phải là hoạn nạn thất thường mà chính là phước hạnh Thiên Thượng. Nhằm mục đích tối hậu là giáo dưỡng cho con cái Ngài đạt được sự viên thục thuộc linh, Ðức Chúa Trời ban đến đời sống chúng ta những thử thách ngoại lai để vừa kiểm chứng, vừa để rèn luyện bản lĩnh thuộc linh của chúng ta. Nhận thức được ý nghĩa đích thực của sự gian truân trong đời sống người theo Chúa, chúng ta hoàn toàn được khích lệ để không những chẳng lo buồn mà còn có thể “Khoe mình trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn sanh ra sự rèn tập, sự rèn tập sanh sự trông cậy” (Rô. 5:3-4). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |