“HÃY VÙNG DẬY KHỎI TỘI LỖI!” (Xa. 3:1-5) “Ngươi đương ngủ, hãy thức, hãy vùng dậy từ trong đám người chết, thì Đấng Christ sẽ chiếu sáng ngươi.” (Êph. 5:14) “Một tín hữu là một người được xưng công nghĩa nhưng cũng đồng thời là một tội nhân (Simul Iustus Et Peccator - Same Time Just And Sinner)”. Đây là sự tuyên bố có vẻ ngược đời của Martin Luther để giải thích rằng Cơ Đốc Nhân có sự xưng nghĩa địa vị hợp pháp trước mặt Đức Chúa Trời thể theo công nghiệp cứu chuộc của Đức Chúa Jêsus, nhưng đồng thời Cơ Đốc Nhân cũng sống trong sự vương vấn với tội lỗi căn cứ theo các vi phạm không thể tránh khỏi của mình. Thật ra tư tưởng này của Martin Luther phản ánh trung thực giáo lý Kinh Thánh về tiến trình nên thánh của Cơ Đốc Nhân; khích lệ Cơ Đốc Nhân về sự bền đỗ theo Chúa; sống gắn bó, vâng phục Chúa; thăng tiến đời sống công nghĩa thực hành... Xa. 3:1-5 là một trong các cơ sở Kinh Thánh của giáo lý ấy. A. VỀ NHÂN VẬT, BỐI CẢNH VÀ Ý NGHĨA I. Giêhôsua Giêhôsua là con trai của Giêhôxađác, Thầy Tế Lễ trong thời kỳ lưu đày ở Babylôn (1Sử. 6:14-15; Aghê 1:1, 12, 14; 2:2, 4; Xa. 6:11). Giêhôsua cũng còn được gọi là Giêsua, là Thầy Tế Lễ đã cùng Xôrôbabên từ Babylôn trở về Giêrusalem để tái thiết Đền Thờ (Exr. 2:2; Nê. 7:7; 12:1). Giêhôsua là một trong những người đã xây lại Bàn Thờ cho Đức Giêhôva (Exr. 3:2), trợ giúp Xôrôbabên xây lại Đền Thờ (Exr. 3; 4:1-6; 5; Aghê 1:1, 12-14; 2:2), cùng đấu tranh chống lại những người muốn phá hoại việc tái thiết này (Exr. 4:1-3; 5:1-2). Thầy Tế Lễ Cả Giêhôsua là biểu tượng của sự phục hồi Ysơraên (Xa. 3; 6:9-15). Giêhôsua tiêu biểu cho cả dân tộc, mà theo Xuất. 19:6 là “một nước Thầy Tế Lễ”. Các khải tượng về đêm mà Đức Chúa Trời ban cho Xachari đều có liên quan đến sự tồn vong của Giêrusalem hiện tại và tương lai. Tội của cả dân tộc Ysơraên đã đem lại cho Satan cái cớ để cáo kiện, mà ở đây được biểu hiệu bằng “áo bẩn”. Nhà Tiên Tri được cho thấy về Thầy Tế Lễ Cả Giêhôsua đang mặc áo bẩn, “bẩn” (Heb. so’im) được dùng với một từ liệu mạnh nhất trong ngôn ngữ Hêbơrơ để diễn đạt sự bẩn thỉu. “Bẩn” tượng trưng cho tội lỗi, đây không phải là tội lỗi của riêng Giêhôsua mà là của cả Ysơraên. Đứng trước Thiên Sứ của Đức Giêhôva (3:1-3) và sự kiện cáo của Satan, Giêhôsua đã được ban cho sự tha tội và áo sạch để mặc. Kế đến, Thầy Tế Lễ Cả và dân Giuđa được hứa về Đấng Mêsia hầu đến, Chồi Mống, để cất bỏ tội lỗi của cả Ysơraên (3: 4-10). Khải tượng này vừa an ủi vừa mời gọi Dân Sự Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời thanh tẩy cho Dân Sự hầu cho họ có thể tôn qui vinh hiển về Ngài. Chính Đức Chúa Trời là Đấng ban quyền năng phong phú để hoàn thiện Đền Thờ của Ngài (ngày nay chính là đời sống người tín hữu, 1Cô. 6:19), nhờ đó Dân Thánh có thể phản ánh được các thuộc tính Thiên Thượng của Ngài ngay giữa đời ác này. II. Thiên Sứ Đức Giêhôva “Thiên Sứ Đức Giêhôva” là một từ liệu xuất hiện trong Kinh Thánh Cựu Ước khoảng 54 lần. Nhiều học giả Kinh Thánh tin rằng đây là một cách để chỉ về sự thần hiện của chính Đức Chúa Trời và là Đức Chúa Jêsus trong trạng thái tiền nhập thể của Ngài (Vd. Xuất. 3:2; Quan. 2:1). Các từ liệu như “Thiên Sứ” (Công. 7:30, 35 Sv. Xuất. 3:2), “Thiên Sứ Ta” (Xuất. 23:20-23; 32:34); “Thiên Sứ Đức Chúa Trời” (Xuất. 14:19; Quan. 13:6; 2Sa. 14:17, 20), “Thiên Sứ Trước Mặt Ngài” (Ês. 63:9) là những từ liệu có cách sử dụng tương đương với từ liệu “Thiên Sứ Đức Giêhôva” trong Kinh Thánh. III. Xachari Xachari là Nhà Tiên Tri, con trai của Barachi, cháu của Yđô (Xa. 1:1), cũng là người cùng trở về Giêrusalem với Xôrôbabên, là người đồng thời với Aghê. Xachari thường được gọi là “Nhà Tiên Tri của hy vọng”. Khi còn trẻ, Nhà Tiên Tri này đã ủng hộ cho các sự thúc giục của Aghê để dẫn đến việc những người bị lưu đày từ Babylôn trở lại Giêrusalem vào khoảng các năm 539-538 TC. để thực hiện và hoàn thành việc tái thiết Đền Thờ vào khoảng năm 520 TC. IV. Sách Xachari Sách Xachari chứa đựng một loạt các khải tượng hấp dẫn, chuyển tải các Lẽ Thật thuộc linh thiết yếu (Xa. 1:7-8:32) và là một bức tranh tiên minh cho các sự kiện tương lai khi sự đắc thắng tối hậu của Đức Chúa Trời đến (Xa. 9:1-14:21). Những chương cuối của Sách Xachari đã có tác dụng khích lệ cao độ đối với cộng đồng Do Thái giữa lúc họ trăn trở với sự suy sụp kinh tế và sự vây hãm của các kẻ thù chung quanh. Đối với chúng ta ngày nay, khi đọc các chương sách này và suy nghiệm về sự đắc thắng chắc chắn sẽ đến trong tương lai của Đức Chúa Trời đối với Ác Giả chúng ta sẽ được thêm sức để hoàn thiện bản thân, sống tôn qui cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Hai luận đề chính trong Sách Xachari đều đầy khích lệ đối với Cơ Đốc Nhân. Thứ nhất, Sách Tiểu Tiên Tri này chứa nhiều sự hàm ý về Đức Chúa Jêsus. Các sự đề cập đến Đấng Mêsia trong Sách nói nhiều về sự khiêm nhường, hạ mình của Đức Chúa Jêsus (Xa. 6:12), mô tả về việc Giuđa Íchcariốt phản Ngài (Xa. 11:12-13), về Thần Tính của Ngài (Xa. 3:4; 13:7), Chức Thầy Tế Lễ của Ngài (Xa. 6:13), Chức Vua của Ngài (Xa. 6:13; 9:9; 14:9, 16). Sách Xachari cũng còn nói về việc Đấng Mêsia phải chịu sự đánh hạ của Đức Chúa Trời (Xa. 13:7), về Sự Tái Lâm của Ngài (Xa. 14:4), sự trị vì vinh hiển của Ngài (Xa. 9:10, 14), và về việc Ngài thiết lập nền hòa bình vĩnh cửu trên thế giới (Xa. 9:9-10; Sv. 3:10). Đây chính là những điều mà chúng ta cũng thường xuyên học được trong các Sách Cựu Ước khác về Cứu Chúa của chúng ta. Luận đề chính thứ hai của Sách Xachari khích lệ Cơ Đốc Nhân ngày nay là về Mạt Thế (Thời Kỳ Cuối Cùng). Phần cuối của Sách mô tả về sự vây hãm ngặt nghèo đối với Giêrusalem (Xa. 12:1-3; 14:1-2). Trong sự mô tả ấy, kẻ thù tạm thời thắng lợi (C. 2) nhưng Giêrusalem được chính Đức Chúa Trời bảo vệ (C. 3-4). Đức Chúa Trời sẽ thân chinh can thiệp để tiêu diệt kẻ thù (Xa. 12:9; 14:3). Sự can thiệp trực tiếp của Đức Chúa Trời khiến tạo nên những thay đổi hết sức sâu sắc đối với Đất Thánh (Giêrusalem, Xa. 14: 4-5), khởi đầu cho Thời Kỳ Cứu Thế (Xa. 14:16-19) để rồi cuối cùng Giêrusalem và Dân Sự của Đức Chúa Trời sẽ được nên thánh trọn vẹn. B. ÁP DỤNG I. Chức Phận Của Chúng Ta Dưới Định Kỳ Tân Ước, chức phận Thầy Tế Lễ thuộc về mỗi Cơ Đốc Nhân. Đời sống nên thánh thường xuyên trở thành của tế lễ phải có và phải được dâng lên Đức Chúa Trời: “Anh em cũng như đá sống, được xây nên nhà thiêng liêng, làm chức tế lễ thánh, đặng dâng của lễ thiêng liêng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ mà đẹp ý Đức Chúa Trời” (1Phi. 2:5) “Anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức Thầy Tế Lễ nhà Vua, là dân thánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài” (1Phi. 2:9) “1Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em. 2Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô. 12:1-2) Chết cho Đức Chúa Trời là một điều khó, nhưng sống cho Đức Chúa Trời mới là điều khó nhất. Phận sự đích thực của Cơ Đốc Nhân là sống cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Trong khuôn khổ ấy, họ phải tìm kiếm “Nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài” mỗi ngày và càng ngày càng tích cực hơn. Cơ Đốc Nhân được kêu gọi sống phản ánh các thuộc tính của Đức Chúa Trời, không được sống theo sự đòi hỏi ích kỷ: “19Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là Đền Thờ của Đức Thánh Linh đang ngự trong anh em, là Đấng mà anh em đã nhận bởi Đức Chúa Trời, và anh em chẳng phải thuộc về chính mình sao? 2Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Đức Chúa Trời” (1Cô. 6:19-20) “Mọi sự tôi có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều có ích; mọi sự tôi có phép làm, nhưng chẳng để sự gì bắt phục được tôi” (1Cô. 6:12) “Mọi sự đều có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều có ích; mọi sự đều có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều làm gương tốt” (1Cô. 10:23) “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm” (1Cô. 10:31) II. Thân Phận Của Chúng Ta Khải tượng của Xachari về Thầy Tế Lễ Giêhôsua “đương đứng trước mặt Thiên Sứ Đức Giêhôva và Satan đứng bên hữu người đặng đối địch người” (3:1) là một bức tranh về sự kiện cáo không ngớt của Ma Quỉ nhằm làm mất thể diện cũng như lòng sốt sắng thờ phượng và hầu việc Đức Chúa Trời của Dân Sự Ngài. Giêhôsua được thấy trong khải tượng này đang “mặc áo bẩn” (3:3) dầu rằng đang ở trong địa vị Thầy Tế Lễ Cả (3:1) giữa vòng Dân Sót được trở về Giêrusalem sau thời kỳ lưu đày ở Babylôn. Khải tượng này nhắc cho chúng ta nhớ rằng Satan là kẻ kiện cáo không biết mệt mỏi của Dân Sự của Đức Chúa Trời. Satan đang không ngớt kiện cáo với Đức Chúa Trời về chức phận Thầy Tế Lễ của Cơ Đốc Nhân của chúng ta. Đời sống của chúng ta lắm khi bị vấy bẩn hiển nhiên. Mỗi khi chúng ta phạm tội là một lần chúng ta đá phản vào lưới nhà, tặng không cho Satan một bàn thua, và đời sống của chúng ta trở nên thiếu xứng đáng để làm một tế lễ dâng lên cho Đức Chúa Trời…. Liệu chúng ta có thể cố gắng để tự hoàn thiện mình được không? Câu trả lời đúng cho vấn đề này là “không”, nhưng sự đắc thắng đã được định cho chúng ta bởi ơn Đức Chúa Trời: “18Vả, tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi đâu, nghĩa là trong xác thịt tôi, bởi tôi có ý muốn làm điều lành, nhưng không có quyền làm trọn; 19vì tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn. 20Ví bằng tôi làm điều mình không muốn, ấy chẳng phải là tôi làm điều đó nữa, nhưng là tội lỗi ở trong tôi vậy… 24Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy? 25Cảm tạ Đức Chúa Trời, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta!” (Rô. 7:18-20; 24-25) “Những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh bị cám dỗ quá sức mình đâu; nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được” (1Cô. 10:13) “1Hỡi các con cái bé mọn, ta viết cho các con những điều nầy, hầu cho các con khỏi phạm tội. Nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Đấng cầu thay ở nơi Đức Chúa Cha, là Đức Chúa Jêsus Christ, tức là Đấng Công Bình. 2Ấy chính Ngài làm của lễ chuộc tội lỗi chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta thôi đâu, mà cũng vì tội lỗi cả thế gian nữa” (1Gi. 1:1-2) III. Định Phận Của Chúng Ta Phần việc của Cơ Đốc Nhân là phải bền đỗ trong đời sống nên thánh của mình nhờ sức toàn năng của Đức Chúa Trời vì “tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (1Cô. 10:23). Nhiên hậu, Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ và bảo tồn các thánh đồ của Ngài trước sự cáo kiện, công kích của Satan và các kẻ thù thuộc linh: “2Đức Giêhôva phán cùng Satan rằng : Hỡi Satan, nguyền Đức Giêhôva quở trách ngươi; nguyền Đức Giêhôva là Đấng đã kén chọn Giêrusalem quở trách ngươi. Chớ thì nầy há chẳng phải cái đóm đã kéo ra từ lửa sao?... 4Thiên Sứ cất tiếng nói cùng những kẻ đứng trước mặt mình rằng: Hãy lột bỏ những áo bẩn khỏi nó. Lại nói cùng Giêhôsua rằng: Hãy nhìn xem, Ta đã bỏ sự gian ác khỏi ngươi, và Ta sẽ mặc áo đẹp cho ngươi. 5Ta bèn nói rằng: Khá đội mũ sạch trên đầu người. Thì người ta đội trên đầu người một cái mũ sạch, đoạn mặc áo xống cho người; Thiên Sứ của Đức Giêhôva đương đứng đó” (Xa. 3:2, 4-5). “Cái đóm đã kéo ra từ lửa…” (C. 2), Cơ Đốc Nhân là Cơ Đốc Nhân của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời có chương trình và phương thức bảo vệ, bảo tồn Cơ Đốc Nhân: “33Ai sẽ kiện kẻ lựa chọn của Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời là Đấng xưng công bình những kẻ ấy. 34Ai sẽ lên án họ ư? Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng đã chết, và cũng đã sống lại nữa, Ngài đang ngự bên hữu Đức Chúa Trời, cầu nguyện thế cho chúng ta” (Rô. 8:33-34) Cơ Đốc Nhân, nếu quả thực là Cơ Đốc Nhân, phải biết thức dậy, vùng dậy khỏi tội lỗi của mình để sống cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời! “Ngươi đương ngủ, hãy thức, hãy vùng dậy từ trong đám người chết, thì Đấng Christ sẽ chiếu sáng ngươi” (Êph. 5:14) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHẢI ĐỐI THOẠI ĐỂ XỬ LÝ SỰ BẤT HÒA” (Ma. 5:22-23; 18:15-20) “Hãy để của lễ trước bàn thờ, trở về giảng hòa với anh em trước đã; rồi hãy đến dâng của lễ.” (Ma. 5:22-23; 18:15-20) Trong cương vị lãnh đạo Hội Thánh, người ta rất dễ phải đứng trước các bất đồng, và ngay cả sự bất hòa, cùng với các hệ lụy lớn lao cặp theo. Xử lý các sự bất đồng và bất hòa là một việc đầy rủi ro và đáng sợ. Tuy nhiên, thái độ chạy trốn khỏi các sự trục trặc có thật trong Hội Thánh là phi Kinh Thánh, thường phản ánh ý thức chủ quan của con người cũ, và nhất định sẽ dẫn đến các chọn lựa sai lầm. Kinh Thánh chỉ rất rõ rằng lẫn tránh việc xử lý bất hòa một cách hợp Kinh Thánh sẽ dẫn đến việc xử tử sinh hoạt thuộc linh của Hội Thánh: Thay vì phải đối đãi với nhau theo ý muốn “tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời” (Rô. 12:2) được bày tỏ qua các nguyên tắc Kinh Thánh người ta cứ mãi bị cầm tù trong “sự cay đắng, buồn giận, tức mình, kêu rêu, mắng nhiếc, cùng mọi điều hung ác” (Êph. 4:31) là những điều phải tránh vì sẽ “làm buồn cho Thánh Linh của Đức Chúa Trời.” (Êph. 4:30) Để giải quyết và tránh khỏi các sai phạm trong việc xử lý các mối quan hệ bất hòa và nguy hiểm, chúng ta phải nghiên cứu ba phân đoạn Kinh Thánh quan trọng, và ghi nhớ các nguyên tắc được dạy dỗ. Sự cầu nguyện và niềm hy vọng ở đây là tất cả mọi người đều nhận ra được rằng “đối thoại” - đôi khi cũng là đối chất, đối nại - là một đòi hỏi Kinh Thánh, vì vậy sự đối thoại là hợp Kinh Thánh và có ích cho Hội Thánh. Đáp ứng theo các nguyên tắc Kinh Thánh là đòi hỏi tất yếu khách quan, không miễn trừ bất cứ một ai. Sứ Đồ PhaoLô viết: “37Nếu ai tưởng mình là tiên tri, hay là được Đức Thánh Linh soi sáng, thì người ấy hãy biết rằng điều tôi viết cho anh em đây là mạng lịnh của Chúa. 38Mà nếu ai muốn bỏ qua thì mặc họ bỏ qua!” (1Cô. 14: 39-40) I THIẾU ĐỐI THOẠI, SỰ BẤT HÒA PHẢI TỒN TẠI (Ma. 5:23-24) Đối với Cơ Đốc Nhân, đối thoại là một yêu cầu Kinh Thánh chứ không phải chỉ là một sự chọn lựa theo sở thích cá nhân để cho một người có thể làm hay không làm tùy theo ý muốn riêng của mình được: “… 23Nếu khi nào ngươi đem dâng của lễ nơi bàn thờ, mà nhớ lại anh em có điều gì nghịch cùng mình, 24thì hãy để của lễ trước bàn thờ, trở về giảng hòa với anh em trước đã; rồi hãy đến dâng của lễ.” (Ma. 5:23-14) Từ liệu “giảng hòa” ở đây là diallasso, một từ liệu Hylạp nói về hành động thay đổi sự suy nghĩ, thay đổi cách nhìn nhận đối với một vấn đề nào đó. Cơ Đốc Nhân không được phép định kiến mà phải có nghĩa vụ làm sáng tỏ vấn đề bằng con đường đối thoại để thay đổi cách nghĩ của chính mình về một điều gì đó cho hiệp với sự thật khách quan. Tự cho rằng những gì xuất hiện trên vỏ bán cầu đại não của mình là luôn luôn đúng là một dấu hiệu của sự kiêu ngạo. Không chịu lắng nghe và đáp ứng theo sứ điệp Kinh Thánh mà cứ sống trong sự ám thị thường xuyên rằng mình luôn luôn bị người khác lấy Lời Kinh Thánh để công kích là ngạo mạn đến độ hoang tưởng và là dấu hiệu của một đời sống thuộc linh còn ấu trĩ. Đối thoại để giải quyết, phục hồi sự quan hệ với đồng đạo là một điều ưu tiên. Sự mắc mướu của chúng ta trong mối quan hệ với các tín hữu khác sẽ là sự ngăn trở đối với sự thờ phượng. Đây là sự nhìn nhận và là tiêu chí của Đức Chúa Trời đề ra cho chúng ta. Khi mà sự mắc mướu chưa được xử lý xong, cho dầu ngồi ở đâu và trong lòng có cảm thấy thế nào thì cũng chỉ là cảm xúc chứ không phải là sự bình an. Sự bình an thật là sự bình an có khả năng “giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Phil. 4:17), vì sự bình an thật là sự bình an luôn luôn đi cặp với đức tin và được ban cho “bởi Đức Chúa Trời, là Cha, và bởi Đức Chúa Jêsus Christ” (Êph. 6:23) để gây dựng lẫn nhau chứ không phải để càng lúc càng tạo ra “những điều rầy rà, ghen ghét, nóng giận, bất hòa, nói hành, nói gần nói xa, kiêu căng, hỗn loạn…” (2Cô. 12:20) II THIẾU ĐỐI THOẠI, SỰ TÁC ĐỘNG CỦA THÁNH LINH PHẢI GẶP TRỞ NGẠI (Ma. 18:15-17) Để Hội Thánh được gây dựng, sự đối thoại để giải quyết bất hòa phải được thực hiện đúng theo qui trình mà Đức Chúa Trời đã ban cho Hội Thánh: “15Nếu anh em ngươi phạm tội cùng ngươi, thì hãy trách người khi chỉ có ngươi với một mình người; như người nghe lời, thì ngươi được anh em lại. 16Ví bằng không nghe, hãy mời một hai người đi với ngươi, hầu cứ lời hai ba người làm chứng mà mọi việc được chắc chắn. 17Nếu người không chịu nghe các người đó, thì hãy cáo cùng Hội Thánh, lại nếu người không chịu nghe Hội Thánh, thì hãy coi như kẻ ngoại và kẻ thâu thuế vậy.” (Ma. 18:15-18) Phân đoạn Kinh Thánh này là một sự hướng dẫn chi tiết có một không hai về vấn đề đối thoại để giải quyết sự bất hòa giữa vòng Hội Thánh Tân Ước. Qui trình được khái quát thành ba bước trong sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh: Thứ nhất, để cho người phạm lỗi biết lỗi, người bị phạm lỗi phải đi bước trước. “Trách” (Gk. elegcho) là nói cho người khác thấy được họ đã mắc lỗi như thế nào. Theo sự dạy dỗ này của Kinh Thánh, người bị phạm lỗi không được phép nói với bất cứ ai khi chưa trực tiếp nói với người phạm lỗi cùng mình. Mục đích của việc “trách” không phải là để buộc tội mà là để phục hồi quan hệ một cách kín đáo nhất và sớm nhất. Cũng cần nên chú ý rằng bước này có thể phải thực hiện đi, thực hiện lại nhiều lần vì Lời Kinh Thánh không hề qui định số lần ở đây. Thứ hai, lời dạy dỗ rằng “hầu cứ lời hai ba người làm chứng mà mọi việc được chắc chắn” (C. 16) phải được hiểu theo tinh thần thuyết phục để gây dựng. Khi được những người có uy tín hợp nhau khuyên bảo người ta thường nhận ra vấn đề dễ dàng hơn. Mục đích sự hiện diện của những người “làm chứng” trong bước đi này là để thuyết phục người mắc lỗi bằng lời nói (Gk. stoma) của họ (Sv. 16a). Cũng nên hiểu rằng nổ lực này không phải chỉ có một lần duy nhất vì Lời Kinh Thánh không hề qui định số lần ở đây. Thứ ba, “Cáo cùng Hội Thánh” là bước đi cuối cùng. Cần chú ý rằng đây là “bước thứ ba” chứ không phải là “lần thứ ba”! “Cáo” (Gk. epo) có vẻ như nói về việc tường thuật sự việc để giới lãnh đạo Hội Thánh có cách nhìn nhận toàn diện về vấn đề và có cơ sở vận dụng thẩm quyền Thiên Thượng đã được trao cho họ để ra quyết định cho hợp Kinh Thánh. Trong bước đi này, mục đích thuyết phục người mắc lỗi vẫn là việc ưu tiên vì việc áp dụng kỷ luật Hội Thánh chỉ có thể bắt đầu “nếu người không chịu nghe Hội Thánh” (C. 17b). Tưởng rằng bằng sức riêng mà người ta có thể biến đổi được người khác là hoang tưởng. Đức Chúa Trời vẫn đẹp ý sử dụng mỗi người để gây dựng Hội Thánh của Ngài, nhưng Cơ Đốc Nhân chỉ là nhân tố. Quyền năng gây dựng Hội Thánh duy nhất thuộc về Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Phương pháp gây dựng Hội Thánh duy nhất thuộc về các nguyên tắc Kinh Thánh của Đức Chúa Trời. Nguyên tắc đối thoại hợp Kinh Thánh để giải quyết bất hòa trong Hội Thánh là một nguyên tắc Kinh Thánh phải được tuân thủ để không gây trở ngại cho công việc của Đức Thánh Linh giữa vòng Hội Thánh của Ngài. III. THIẾU ĐỐI THOẠI, THẨM QUYỀN HỘI THÁNH BỊ TỔN HẠI (Ma. 18:18-20) Hội Thánh không bao giờ chỉ thuần túy là một hội đoàn vô quyền. Tưởng rằng Hội Thánh giống như một câu lạc bộ giải trí, hoặc là một nơi để thư giãn, hoặc là một nơi mà mọi sở thích của mình đều phải được lãnh đạo Hội Thánh chìu chuộng là nhầm. Thẩm quyền Thiên Thượng của Hội Thánh được minh định rất rõ: “18Quả thật, Ta nói cùng các ngươi, hễ điều gì mà các ngươi buộc ở dưới đất thì cũng sẽ buộc ở trên trời, và điều gì mà các ngươi mở ở dưới đất thì cũng sẽ mở ở trên trời. 19Quả thật, Ta lại nói cùng các ngươi, nếu hai người trong các ngươi thuận nhau ở dưới đất mà cầu xin không cứ việc chi, thì Cha Ta ở trên trời sẽ cho họ. 20Vì nơi nào có hai ba người nhân danh Ta nhóm nhau lại, thì Ta ở giữa họ.” (Ma. 18:18-20) Cần phải chú ý rằng những câu Kinh Thánh này thuộc trong văn mạch của vấn đề kỷ luật Hội Thánh, và để xác chứng cho thẩm quyền các quyết định mà giới lãnh đạo Hội Thánh đưa ra đối với những thành viên không chịu tôn trọng sự dạy dỗ của Kinh Thánh trong việc xử lý sự bất hòa theo qui trình được bày tỏ trong các phần trước (Cc. 15-17). Trong bản chất, thẩm quyền Hội Thánh không phải chỉ đóng khung trong các quyết định mang tính tổ chức, sự vụ. Lãnh đạo Hội Thánh “buộc” hay “mở’ (C. 18) không phải chỉ bằng các quyết định mang tính tổ chức (C. 19) mà là ngay từ trong các sự giảng dạy về giáo lý Kinh Thánh. Thẩm quyền Hội Thánh được củng cố hay bị tổn hại là từ cách đáp ứng của các thành viên của Hội Thánh đối với các sự giảng dạy về giáo lý. Khi sự giảng dạy của lãnh đạo Hội Thánh hợp Kinh Thánh và được tôn trọng, linh hồn người nghe sẽ được khai phóng bằng lẽ thật để đáp ứng theo lẽ thật. Nếu sự giảng dạy là phi Kinh Thánh, phản Kinh Thánh hoặc người nghe bịt tai không nghe theo lẽ thật, linh hồn họ sẽ vẫn cứ còn ở trong sự cầm buộc của “sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời” (2Gi. 2:16) và không có năng lực đáp ứng theo lẽ thật. “Ngọt” và “đắng” là hai vị vốn có của Lời Kinh Thánh. (Sv. Thi. 19:10; 119:103; Khải. 10:10). Cùng là Lời Kinh Thánh cả, nhưng cảm được vị ngọt hay vị đắng là tùy theo khẩu vị thuộc linh của người nghe! Quyền lãnh đạo của Hội Thánh luôn đứng trước hai loại phản ứng trái ngược nhau: Hoặc người ta vâng lời Chúa, chịu đối thoại hợp Kinh Thánh, và sự bất hòa được xử lý, Hội Thánh được gây dựng; hoặc người ta cứ cứng lòng, không đáp ứng theo đòi hỏi của các nguyên tắc Kinh Thánh, không chịu “thông công nơi Thánh Linh”, khư khư giữ lấy ý riêng, tự lập lên làm thầy,… khiến cho thẩm quyền Hội Thánh bị phá ngầm từ trong căn bản. Tất nhiên là luôn có nhiều lý do được những con người vô trách nhiệm viện ra để biện minh cho sự bất chấp của họ trước các đòi hỏi Kinh Thánh. Tuy nhiên sự khẳng định của Kinh Thánh là oai nghiêm và đầy đủ: “15Mọi sự là tinh sạch cho những người tinh sạch, nhưng, cho những kẻ dơ dáy và chẳng tin, thì không sự gì là tinh sạch cả; trái lại, tâm thần và lương tâm họ là dơ dáy nữa. 16Họ xưng mình biết Đức Chúa Trời, nhưng theo những việc làm thì đều từ chối Ngài, thật là đáng ghét, trái nghịch và không thể làm một việc lành nào hết.” (Tít 1:15-16) Như vậy, đối thoại để giải quyết bất hòa có vi phạm sự dạy dỗ của Kinh Thánh không? Không! Hòa thuận không có nghĩa là lẫn tránh đụng chạm, mâu thuẫn. Trốn chạy trước một nan đề, giả bộ như thể không hề có nan đề gì hết là giả hình và ngụy hòa. Thái độ hợp Kinh Thánh của Cơ Đốc Nhân trưởng thành không phải là ngụy hòa mà phải “lấy lòng yêu thương nói ra lẽ chân thật” (Êph. 4:15). Hội Thánh nào thất bại trong việc xử lý các cá nhân có cách đối xử gây hại cho mối thông công đích thực của Hội Thánh thì Hội Thánh ấy phải suy yếu. Sự “thông công” đích thực phải là “sự thông công nơi Thánh Linh” (Phil. 2:1), dẫn đến việc “hiệp ý với nhau, đồng tình yêu thương, đồng tâm, đồng tư tưởng” hầu cho mọi sự trong sinh hoạt của Hội Thánh được đến chỗ “vui mừng trọn vẹn” (Phil. 2:2). Tự lập lên làm thầy, kẻ vạch theo ác ý, thông đồng một cách thiên vị,… Tất cả những sự như thế không phải là “thông công nơi Thánh Linh”, và cần phải được từ bỏ. Sự “thông công nơi Thánh Linh” là sự thông công ở trong sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh, có dấu hiệu là sự phù hợp với các nguyên tắc Kinh Thánh. Giữa vòng Hội Thánh ngày nay có một xu hướng sợ nói thẳng, nói thật. Ngày nay, ít thấy ai dám đứng lên chỉ cho thấy sự sai trật của người khác. Tuy nhiên, làm như thế vô hình trung là thông đồng với điều ác. Thông công khác, thông đồng khác. Thông công đem lại sự gây dựng, thông đồng dẫn đến vi phạm, đổ vỡ,… Một khi sự thông công được đánh đồng với sự thông đồng thì công việc của Đức Thánh Linh nhất định phải bị ngăn trở. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“HÃY SỐNG HẠ MÌNH GIỐNG NHƯ CHÚA!” (Phil. 2:5–11) “Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có.” (Phil. 2:5–11) “5Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có, 6Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; 7chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; 8Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự. 9Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, 10hầu cho nghe đến danh Chúa Jêsus, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống, 11và mọi lưỡi thảy đều xưng Jêsus là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha.” (Phil. 2:5-11) Sự dạy dỗ mà Sứ Đồ Phaolô đưa ra ở đây thật rõ ràng: Nếu muốn làm một môn đồ thực sự của Đức Chúa Jêsus, chúng ta phải sống giống như Đức Chúa Jêsus đã sống! Chúng ta phải có suy nghĩ như Ngài, có thái độ như Ngài, và có hành động như Ngài… Chúng ta phải tận hiến đời sống mình để đề cao Chúa và thăng tiến tha nhân hầu cho họ có thể đạt đến chỗ tiếp nhận Ngài. I. XUẤT PHÁT ĐIỂM Đối với con người, sống hạ mình là một điều hết sức khó khăn. Cũng giống như chiếc kim la bàn luôn luôn chỉ về hướng Bắc, sự vận động tự nhiên của ý thức con người là cất mình lên chứ không phải là hạ mình xuống! Chắc chắn sự dạy dỗ của phân đoạn Kinh Thánh này sẽ đem lại một sứ điệp khó sống cho nhiều người. Tận trong sâu thẳm của mỗi linh hồn, xu hướng chung là người ta không hưởng ứng với sự hạ mình. Khi Sứ Đồ Phaolô viết rằng “Vì Đấng Christ là sự sống của tôi, và sự chết là điều ích lợi cho tôi vậy” (Phil. 1:21) thì điều đó có nghĩa là mọi xúc cảm của vị Sứ Đồ này đều phụ thuộc vào Thân Vị và Công Nghiệp của Đức Chúa Jêsus. Chúng ta chỉ có thể sống được như Phaolô nếu chúng ta cũng biết lấy Đức Chúa Jêsus làm lẽ sống cho mình. Chỉ khi nào lẽ sống của chúng ta là chính Đức Chúa Jêsus thì chúng ta mới có khả năng trở thành Cơ Đốc Nhân tận hiến được: “Tôi đã bị đóng đinh vào Thập Tự Giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và phó chính mình Ngài vì tôi.” (Gal. 2:20) Triết lý sống của Cơ Đốc Nhân là lấy đời sống mình làm phương tiện thể hiện cho sự sống của Đức Chúa Jêsus. Không ai vẫn còn nặng mang tham vọng mà lại có thể mặc lấy tâm tình của Đức Chúa Jêsus được, vì Ngài đã thực sự hạ mình, đã từ thiên thượng xuống tận thế hạ để hầu việc và hy sinh. II. PHẠM VI ĐỀ CẬP Cơ Đốc Nhân phải có những dấu hiệu nào bày tỏ cho sự tận hiến của mình trong cuộc sống đời thường mỗi ngày trong mọi việc? Chính đoạn văn Kinh Thánh này trả lời câu hỏi ấy cho chúng ta. Qua ngòi bút của Sứ Đồ Phaolô Đức Thánh Linh đã khải thị cho chúng ta biết rằng để biểu lộ một đời sống tận hiến cho Đức Chúa Jêsus, chúng ta phải thực hiện một số các cấp độ hạ mình khác nhau theo như chính Đức Chúa Jêsus đã thể hiện: Thứ nhất, Đức Chúa Jêsus đã tự rời bỏ Thân Vị Đức Chúa Trời Thiên Thượng: “Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ.” (Phil. 2:6) Tiến trình hạ mình của Đức Chúa Jêsus đã bắt đầu từ đâu? Ấy là từ Thượng Đỉnh (không phải “thượng đỉnh”). Đức Chúa Jêsus là một Thân Vị trong Tam Vị Nhất Thể, Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thượng Đế. Trí tuệ hữu hạn của loài người (là loài thọ tạo) không thể nào hiểu tường tận lẽ đạo Tam Vị Nhất Thể được, nhưng đó là Lẽ Thật, là Chân Lý. Đức Chúa Jêsus hằng hữu đồng đẳng với Đức Chúa Cha và Đức Thánh Linh, khi Đức Chúa Jêsus khởi sự tiến trình hạ mình của Ngài, Ngài đã khởi đầu từ Thượng Đỉnh. Từ đỉnh thang bắc cho nhân loại để họ có thể lên chốn thượng thiên, Đức Chúa Jêsus đã tự hạ mình xuống nơi thấp nhất là thế gian, Ngài đã thân hành xuống tận chân thang để đón nhân loại về! (Sv. Sáng. 28:12; Gi. 1:51). Sự từ bỏ địa vị Thượng Đỉnh của Đức Chúa Jêsus đặt ra cho chúng ta một câu hỏi: Chúng ta đang có thái độ như thế nào đối với các chủ quyền và đặc quyền của chúng ta? Gương hạ mình của Đức Chúa Jêsus phản ánh trung thực các sự dạy dỗ Kinh Thánh về vấn đề quyền lợi của Cơ Đốc Nhân. Quyền hợp Kinh Thánh của Cơ Đốc Nhân nhiều khi lại chính là quyền từ bỏ một hoặc nhiều quyền lợi hợp Kinh Thánh và hợp pháp của họ. “Bị mất” luôn luôn là một ý tưởng đáng sợ đối với tất cả mọi người, kể cả các Cơ Đốc Nhân trưởng thành! Theo bản chất, chúng ta vốn có khuynh hướng giành giật. Đổi sự giành giật những điều thế gian để nắm bắt các giá trị thuộc về sự sống đời đời là một điều quá khó, nhưng đó không phải là một sự tùy chọn để chúng ta có thể từ chối! “1Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. 2Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất; 3vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời. 4Khi nào Đấng Christ, là sự sống của anh em, sẽ hiện ra, bấy giờ anh em cũng sẽ hiện ra với Ngài trong sự vinh hiển.” (Phil. 3:1-4) Đức Chúa Jêsus đã từ đỉnh thang bước xuống đến tận chân thang, chúng ta cũng hãy noi gương Ngài! Thứ hai, Đức Chúa Jêsus đã tự làm cho trống rỗng sự vinh quang của mình: “chính Ngài đã tự bỏ mình đi” (Phil. 2:7a). “Kenoo” (“tự bỏ mình”) là một động từ Hylạp để nói về hành động làm cho trở thành không có những sự vốn có, và giáo lý Kinh Thánh này được gọi là giáo lý “kenosis” – giáo lý tự bỏ mình của Đức Chúa Jêsus. Khi “tự bỏ mình đi”, Đức Chúa Jêsus không bị mất bản chất Thiên Thượng, Ngài vẫn cứ là một Ngôi trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời vinh hiển nhưng không thể hiện các thuộc tính vinh hiển của Ngài ra để Ngài có thể chịu lấy phận người như chúng ta. Niềm tin và hy vọng thiết tha của chúng ta khiến chúng ta thích nghĩ về Chúa với những hình ảnh vinh hiển (và đó là một điều phải lẽ), nhưng Chúa cũng muốn chúng ta học theo Ngài trong sự tự bỏ mình để dấn thân, hy sinh. Cho đến lúc các tôi tớ của Đức Chúa Trời “được đóng ấn” (Khải. 7:3), Kinh Thánh gọi Đức Chúa Jêsus là Chiên Con “đã bị giết”, và kể Hội Thánh của Ngài như “Người Đàn Bà” mang thai bị hiếp đáp: “… Chính giữa Ngôi và Bốn Con Sinh Vật, cùng chính giữa Các Trưởng Lão, có một Chiên Con ở đó như đã bị giết…” (Khải. 5:6). “4… con rồng ấy chực trước người đàn bà gần đẻ, hầu cho khi đẻ ra thì nuốt con người đi…” (Khải. 12:4b). Đức Chúa Jêsus cũng đã từng tỏ cho chúng ta biết rằng có một phép Báptêm mầu nhiệm và đau đớn mà các Cơ Đốc Nhân chân thực đều phải trải qua: “… Các ngươi sẽ uống chén Ta uống, và sẽ chịu phép Báptêm Ta chịu…” (Mác 10:39). Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta sẽ không thể “xuống thang” theo gương Chúa được nếu như chúng ta không biết tự từ bỏ “vinh quang” tạm bợ hiện nay! Thứ ba, Đức Chúa Jêsus đã chịu lấy phận người: “7… lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; 8Ngài đã hiện ra như một người…” (Phil. 2:7b-8a). Sự hạ mình này của Đức Chúa Jêsus chứa đựng ba nội dung chính: (1) Ngài tự mặc lấy bản chất người, (2) Ngài chịu sống theo thân phận con người, (3) Ngài hoàn thành mục đích Thiên Thượng trong nhân trạng của Ngài. Tất cả những điều này đều trái ngược hẳn các thuộc tính vốn có của Ngài, thế mà Đức Chúa Jêsus đã hoàn thành viên mãn tất cả các điều ấy! Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã phản ứng như thế nào khi có người đối xử với chúng ta chưa hợp với chức danh, địa vị,… vốn có của chúng ta? Chúng ta có thái độ như thế nào khi phải hạ cố đối với người khác? Chúng ta đã làm gì để là tỏ ra là “muối của đất”, “sự sáng của thế gian” (Ma. 5:14-14)? Thứ tư, Đức Chúa Jêsus đã thuận phục Đức Chúa Cha cho đến chết: “…tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết…” (Phil. 2:8b) Ngài đã chịu chết! Chúng ta không thể thấy hết ý nghĩa của sự hạ mình này này nếu chúng ta không nhớ được rằng Đức Chúa Jêsus chính là Đức Chúa Trời, Ngài là Sự Sống và là Đấng ban hơi sống cho mọi loài… “Sự Sống đã bày tỏ ra, chúng tôi có thấy, và đang làm chứng cho, chúng tôi rao truyền cho anh em sự sống đời đời vốn ở cùng Đức Chúa Cha và đã bày tỏ ra cho chúng tôi rồi.” (1Gi. 1:2; Sv. Gi. 1:2-3; Rô. 1:3-4; 1Cô. 8:6b) Đấng vốn là Sự Sống đã hạ mình vâng phục để hoàn thành chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Cha: “14Vì con cái có phần về huyết và thịt, nên chính Đức Chúa Jêsus cũng có phần vào đó, hầu cho Ngài bởi sự chết mình mà phá diệt kẻ cầm quyền sự chết, là Ma Quỉ, 15lại cho giải thoát mọi người vì sợ sự chết, bị cầm tromg vòng tôi mọi trọn đời.” (Hê. 2:14-15) Thứ năm, Đức Chúa Jêsus đã chịu lấy cái chết nhục nhã và đau đớn của tội nhân: “… thậm chí chết trên Cây Thập Tự.” (Phil. 2:8b) Thập Tự Giá không phải chỉ để làm cho chết mà là một hình pháp để lăng nhục tội nhân. Đức Chúa Jêsus đã tự xuống khỏi địa vị tối vinh quang để nhận lấy địa vị cực ô nhục. Sự hạ mình của Đức Chúa Jêsus là sự hạ mình tuyệt đối, nghĩa là chẳng còn có sự hạ mình nào hơn thế được. Đức Chúa Jêsus vốn là Đấng Sáng Tạo Và Tể Trị của cả vũ trụ đã tự rời bỏ Thân Vị Đức Chúa Trời Thiên Thượng, đã tự làm cho trống rỗng sự vinh quang của mình, đã chịu lấy phận người, đã thuận phục Đức Chúa Cha cho đến chết, và đã chịu lấy cái chết đau đớn, nhục nhã của tội nhân trên Thập Tự Giá! Tại sao Đức Thánh Linh đã cho phép Sứ Đồ Phaolô trước thuật các bước hạ mình tuyệt đối này của Đức Chúa Jêsus? Phải chăng chỉ để nhắc chúng ta nhớ đức hạ mình độc nhất vô nhị của Cứu Chúa chúng ta? Tất nhiên là Đức Thánh Linh muốn chúng ta nhớ đến công đức hạ mình của Đức Chúa Jêsus, nhưng đó không phải là lý do chính để đoạn văn Kinh Thánh này được trước thuật. Đức Thánh Linh đã sử dụng ngòi bút của Sứ Đồ Phaolô để vừa nhắc nhở, vừa kêu gọi Hội Thánh tại thành Philíp (hai ngàn năm trước) cũng như Hội Thánh chúng ta (ngày nay) phải sống hạ mình như Đức Chúa Jêsus đã sống: “Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có.” (Phil. 2:5) Cặp theo sự dạy dỗ phước hạnh này còn có một sự gợi nhắc về tương lai vinh hiển của chúng ta khi chúng ta sẽ được đồng trị cùng Ngài: “ 9Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, 10hầu cho nghe đến danh Chúa Jêsus, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống, 11và mọi lưỡi thảy đều xưng Jêsus là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha.” (Phil. 2:9-11) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“HÃY ĐỨNG DẬY ĐI!” (Giô. 1:1-9) “Quyển sách Luật Pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước.” (Giô. 1:1-9) Chúng ta nghe được tiếng gọi từ phía nào thì sẽ đi về phía ấy. Chỉ khi nào chúng ta biết thường xuyên nghe theo tiếng phán của Đức Chúa Trời, chúng ta mới có đủ dũng khí để làm theo ý muốn của Ngài, thắng vượt được mọi sự bất cập, tiến lên trong chiến thắng và sự chinh phục. Kinh Thánh cho biết rằng chúng ta đang ở trong một trận chiến thuộc linh chỉ có thể chiến đấu bằng những vũ khí thuộc linh. Để có thể nắm vững chiến lược, chiến thuật, phương án tác chiến, cần phải thường xuyên và liên tục giữ liên lạc với vị Tổng Tư Lệnh của chúng ta là Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy cùng nhau xem xét những gì Đức Chúa Trời phán với Giôsuê để tìm ra bài học cho mình. I. “HÃY ĐỨNG DẬY ĐI” (C. 1-2) Từ đầu Sách Giôsuê, đã có lời phán rằng “Môise, tôi tớ ta, đã chết; bây giờ ngươi và cả dân sự nầy hãy đứng dậy đi…” (C. 2). Cho đến khi Môise qua đời, Dân Sự vẫn còn mơ hồ về mục tiêu chung của mình là tiến vào Đất Hứa, vẫn chưa thấy rõ vì sao họ phải tiếp tục gian nan trong con đường mà Môise đã dẫn họ đi. Đức Chúa Trời không hề có ý định cứ để họ lang thang trong hoang mạc. Thật ra, Đức Chúa Trời đã dành sẵn cho họ nhiều điều tốt hơn. Nhưng tại mọi thời điểm, Dân Chúa đều luôn phải thực hiện một sự chọn lựa: Họ phải quyết định hoặc cứ sống với những gì hiện có hoặc đi theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời và sẽ hoàn thành những việc lớn lao theo ý muốn của Ngài. Chúng ta ngày nay cũng vậy. Lệnh truyền rằng “Hãy đứng dậy đi…” vẫn còn có giá trị đối với chúng ta. Chúng ta phải biết “đứng dậy” khỏi tất cả những gì vẫn còn thắng thế đối với đức tin của mình. Câu hỏi mà chúng ta phải tự vấn phải là “Điều gì đang chiếm ưu thế trong đời sống theo Chúa của chúng ta? Chúng ta đang ở đâu trong sự vâng lời Chúa?”. Nếu chúng ta chỉ biết thỏa lòng với hiện trạng thuộc linh của mình, chẳng trước thì sau chúng ta cũng sẽ rơi vào trạng thái chán nản của Dân Sự ngày xưa khi lang thang trong đồng vắng. Để biết chúng ta đang ở đâu trên phương diện thuộc linh, hãy chú ý những dấu hiệu sau đây của một đời sống còn ở trong hoang mạc thuộc linh: (1) Bất An Trong hoang mạc, Dân Sự không hề có nơi ở ổn định. Dân Sự không thể nào biết ngày mai mình sẽ đến đâu, ở đâu. Các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng sẽ cứ bất an trong thân thể, tâm trí, và tâm linh. Về nguyên tắc, Cơ Đốc Nhân bình an không còn ở trong hoang mạc thuộc linh. (2) Bất Mãn Các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng thường kêu ca, than phiền Đức Chúa Trời và người chăn bầy của Ngài. Đối với những người này, họ không biết đếm các phước hạnh mà Đức Chúa Trời đã ban cho. Các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng luôn phải bận tâm về những lo toan riêng của họ và tỏ ra không đủ sức cho trận chiến thuộc linh. Về nguyên tắc, Cơ Đốc Nhân thỏa lòng không còn ở trong hoang mạc thuộc linh. (3) Không Bông Trái Ngày xưa, Dân Sự đã từng chiến đấu và chiến thắng một số trận chiến nhưng họ đã không dành được lợi thế và lãnh thổ đối với kẻ thù. Những chiến trận của các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng hầu như mang đặc trưng của sự manh động hơn là sự chiến đấu, chiến thắng, và chinh phục. Về nguyên tắc, Cơ Đốc Nhân đầy bông trái không còn ở trong hoang mạc thuộc linh. (4) Tiêu Cực Đối với các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng, tinh thần tiến công rất thấp. Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng được tiêu biểu bằng những gì họ không làm: Không hút, không uống, không dự vào,… Đời sống của họ mang tính chất chung chung, có rất ít tính đặc sắc. Đời sống của các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng được đặc trưng bằng những gì họ làm theo người khác chứ không phải ở những gì họ tự thân khám phá được. Về nguyên tắc, Cơ Đốc Nhân tích cực không còn ở trong hoang mạc thuộc linh. (5) Dao Động Đem Dân Sự ra khỏi Ai Cập thì dễ nhưng làm cho Ai Cập ra khỏi Dân Sự là một sự thách thức lớn lao đối với các nhà lãnh đạo thuộc linh. Nếu công việc hanh thông, người ta dễ dàng cảm thấy tự tin, vững vàng. Thế nhưng khi tình hình trở nên xấu, người ta bắt đầu nhớ lại “Xứ Êdíptô, khi còn ngồi kề nồi thịt và ăn bánh chán chê” (Xuất. 16:3). Trên một phương diện, các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng khá giống với một nhiệt kế cứ khi trồi, khi sụt theo nhiệt độ bên ngoài. Về nguyên tắc, Cơ Đốc Nhân ổn định không còn ở trong hoang mạc thuộc linh. Một con tàu nếu cứ bỏ neo đứng yên trong bến cảng thì sẽ được an toàn, nhưng một con tàu không băng sóng, lướt gió, vượt đại dương thì không còn là một con tàu nữa; và rồi nó sẽ rỉ sét, mục nát một cách vô dụng. Đời sống của các Cơ Đốc Nhân cũng vậy. Đức Chúa Trời có chương trình phong phú cho mỗi Cơ Đốc Nhân tự khám phá. Đức Chúa Trời muốn mỗi người chúng ta “Hãy đứng dậy đi” để tiến vào một xứ “Đẹp đẽ và rộng rãi, đượm sữa và mật” (Xuất. 3:8) chứ không chỉ thỏa lòng với trạng thái tiềm sinh thuộc linh trong hoang mạc. Đức Chúa Trời muốn chúng ta hãy bước ra khỏi sự cầm buộc của cảm xúc, tri giác và hoàn cảnh để tiến lên phía trước theo đức tin. Ngài muốn đời sống thuộc linh chúng ta có nhiều đức tin và ít phụ thuộc vào cảm xúc hơn! Ngay cả khi đã có ý thức và quyết định “Hãy đứng dậy đi”, người ta vẫn còn khả năng mắc lỗi “đi giật lùi”. Vấn vương với quá khứ khiến họ không làm được điều Phaolô đã kinh nghiệm: “Tôi cứ làm một điều: Quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Phil. 3:14). Việc đáp lại mệnh lệnh “Hãy đứng dậy đi” đòi hỏi chúng ta phải có một sự chọn lựa: Chúng ta phải chọn tiến lên phía trước theo tiếng phán của Đức Chúa Trời, và sẽ nhận được quyền năng dẫn dắt không rời của Đức Chúa Trời theo như lời Ngài phán hứa trong Kinh Thánh: “Vậy, hễ những người trọn vẹn trong chúng ta, phải có ý tưởng đó; và nếu anh em tưởng đàng khác, Đức Chúa Trời cũng sẽ lấy sự đó soi sáng cho anh em” (Phil. 3:15). II. “HÃY VỮNG LÒNG BỀN CHÍ” (C. 3-7) Sau khi Môise qua đời, Đức Chúa Trời cần một người đưa Dân Sự tiến lên phía trước, và người ấy chính là Giôsuê. Giôsuê là một mẫu người không chịu thỏa lòng với việc chỉ ngồi yên trong sự an nhàn. Giôsuê muốn làm một điều gì đó giàu ý nghĩa hơn cho Đức Chúa Trời. Chỗ dựa cho cả Giôsuê lẫn Dân Sự là lời hứa của Đức Chúa Trời. Canaan là sản nghiệp của Dân Chúa, điều ấy đã được Đức Chúa Trời hứa với Ápraham và hậu tự Ápraham trong Sách Sáng Thế Ký: “Ta là Đức Giêhôva, Đấng đã dẫn ngươi ra khỏi xứ Urơ, thuộc về xứ Canhđê, để ban cho ngươi xứ nầy làm sản nghiệp” (Sáng. 15:7). Có người giải nghĩa rằng lời hứa này chỉ dành riêng cho Ysơraên, và đã được hoàn nghiệm khi Giôsuê lãnh đạo Ysơraên tiến vào, chinh phục được Canaan. Có người lại cho rằng Canaan là một thực thể trên Thiên Đàng: Sau khi đã trải qua đời này rồi, Dân Chúa mới nhận được xứ ấy. Xứ Canaan là một thực thể địa cầu mà Ysơraên đã chinh phục và sẽ được khôi phục lại cho Ysơraên khi Đức Chúa Jêsus tái lâm. Kinh Thánh cho biết sẽ có Giêrusalem mới, vì vậy cũng sẽ có Canaan hiểu theo nghĩa một thực thể Thiên Đàng trong cõi đời đời. Mặt khác, dưới Định Kỳ Ân Điển, Cananan cũng còn là hình bóng của đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh, là đời sống mà Đức Chúa Trời muốn tất cả các Cơ Đốc Nhân phải có. Đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh không phải chỉ dành riêng cho một số người nào mà là cho tất cả các Cơ Đốc Nhân, tức là các thánh đồ của Đức Chúa Trời: “Môise, tôi tớ Ta, đã chết; bây giờ ngươi và cả Dân Sự nầy hãy đứng dậy đi qua sông Giôđanh, đặng vào xứ mà Ta ban cho dân Ysơraên” (C. 3). Động từ sử dụng cho phần cuối của câu Kinh Thánh này ở thì quá khứ: “ĐÃ ban”. “Xứ”, tức Canaan, đã được ban cho Ysơraên, giống như đời sống mới trong Đức Chúa Jêsus đã được dành sẵn cho tất cả những người tin theo Ngài, không phụ thuộc vào sức riêng mà chỉ tùy theo lượng đức tin của mỗi người. “Phàm nơi nào bàn chân các ngươi đạp đến, thì Ta ban cho các ngươi, y như Ta đã phán cùng Môise…”; “Địa phận các ngươi sẽ lan ra…” (C. 4-6). Hàm ý của những lời phán hứa này là Cơ Đốc Nhân có thể có tất cả những gì họ biết nhận lấy trong và qua Đức Chúa Jêsus. Chúng ta có thể có được mọi chiều kích của sự sống đời đời trong Cứu Chúa của chúng ta. Như vậy, nếu chúng ta còn ở trong một tình trạng chưa xứng hiệp, điều ấy có nghĩa rằng chúng ta không thực sự khát khao có đầy trọn những gì Đức Chúa Trời đã dành sẵn cho chúng ta. Ngày nay, trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời, không có lý do chính đáng cho các tín hữu phải phân vân, lo lắng nếu họ biết bước đi theo tiếng phán của Đức Chúa Trời bởi sự dắt dẫn của chính Ngài qua các nhà lãnh đạo thuộc linh trong Hội Thánh. Nếu đã tin theo Đức Chúa Jêsus, chúng ta có thể “vững lòng bền chí” vì mọi sự tốt đẹp đã thuộc về chúng ta. Một em bé đến tham quan tượng đài Tổng Thống Washington, thấy có người lính gác đứng cạnh, em tiến đến nói với người ấy: - Thưa ông, em muốn mua tượng đài này! - “Em có được bao nhiêu tiền?”, người lính gác hỏi em bé. - “Năm mươi xu”, em bé trả lời. Nghe nói thế, người lính gác này giải thích: - Em cần phải hiểu ba điều sau đây: (1) Thứ nhất, năm mươi xu không đủ để mua tượng đài này; thật ra, đến năm mươi triệu đôla cũng không đủ để mua. (2) Thứ hai, tượng đài của Tổng Thống Washington cũng không phải dành để bán. Và, (3) thứ ba, nếu em thực sự là một công dân Hoa Kỳ, tượng đài này vốn đã là của em rồi, không cần phải mua! Trong cương vị Cơ Đốc Nhân, đôi khi chúng ta cũng không nhận thức được một cách đúng đắn mối quan hệ giữa chúng ta với Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Chúng ta chưa biết tin và nhận lấy bằng sự vâng lời Đức Chúa Trời mà vẫn cứ còn xin những điều vốn đã sẵn dành cho chúng ta: “Quyển sách Luật Pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước” (C. 8). Hãy chú ý lời của Sứ Đồ Phaolô trong Kinh Thánh: “Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời” (Êph. 1:3). Bí quyết để bước đi trong phước hạnh của Đức Thánh Linh chỉ đơn giản là vâng theo lời phán thành văn của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh. Những tấm lòng vâng lời một cách vững lòng bền chí có tác dụng đem lại sự ban cho quyền năng Đức Thánh Linh, và đó chính là đời sống trong miền Đất Hứa dưới Định Kỳ Ân Điển hiện nay. III. “ĐỨC CHÚA TRỜI NGƯƠI VẪN Ở CÙNG NGƯƠI” (C. 8-9) Bí quyết để được ở trong miền Đất Hứa thuộc linh của Đức Chúa Trời còn là việc ở trong sự hiện diện của Ngài. Ở đây, có đến ba lần Đức Chúa Trời phán truyền Giôsuê “Hãy vững lòng bền chí” (C. 6, 7, 9). Tại sao? Đức Chúa Trời phán “hãy vững lòng” có nghĩa là Ngài thấy Giôsuê và Dân Sự cảm biết mình yếu đuối, sợ hãi. Đức Chúa Trời phán “hãy bền chí” có nghĩa là Ngài thấy ở Giôsuê và Dân Sự chưa có được một sự nhìn nhận nghiêm túc và một sự kiên định để hoàn thành sự kêu gọi Thiên Thượng. “Hãy vững lòng bền chí” vẫn còn là một sự khích lệ dành cho tất cả chúng ta ngày nay. Thử hỏi ai trong chúng ta là người không cảm thấy yếu đuối, sợ hãi, thiếu kiên định khi hầu việc Đức Chúa Trời? Đã biết bao lần chúng ta do dự, khước từ đối với tiếng phán của Ngài? Chúng ta thoái thác Đức Chúa Trời mà không hề nhớ những lẽ thật Kinh Thánh qua lời của Sứ Đồ Phaolô: “Chúng tôi đựng của quí nầy trong chậu bằng đất, hầu cho tỏ quyền phép lớn dường ấy là bởi Đức Chúa Trời mà ra, chớ chẳng phải bởi chúng tôi” (2Cô. 4:7). “Của Quí” là Đức Thánh Linh và Tin Lành của Đức Chúa Jêsus. “Chậu Bằng Đất” là chúng ta. Đức Chúa Trời đã đẹp ý chọn sử dụng những cá thể yếu đuối, tầm thường như chúng ta để trao quyền phép Đức Thánh Linh của Ngài. Đức Chúa Trời hiện diện trong chúng ta bởi Đức Thánh Linh của Ngài để chúng ta tôn qui vinh hiển cho Ngài. Đức Chúa Trời phán với Giôsuê và Dân Sự rằng “Hãy vững lòng bền chí” vì Ngài ở cùng họ. Đối với chúng ta cũng vậy, Đức Chúa Trời không bao giờ đòi hỏi chúng ta phải một mình làm bất cứ việc gì cả. Có chăng chỉ là chúng ta xao lãng Ngài, không biết ở trong sự hiện diện của Ngài để vâng lời Ngài mà thôi. Về phần Đức Chúa Trời, Ngài không bao giờ thay đổi về lời hứa ở cùng chúng ta; Đức Chúa Jêsus phán: “19Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báptêm cho họ, 20và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà Ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Ma. 28:19-20). Có một bộ tộc thổ dân Châu Mỹ có một phong tục thực tập lòng can đảm cho các thiếu niên rất độc đáo. Ngay đêm đầu tiên một nam thiếu niên bước vào tuổi mười ba, người ấy sẽ được đem bỏ vào rừng già một mình để sống ở đó suốt một đêm. Cho đến đêm thử thách ấy, các thiếu niên chưa bao giờ phải một mình qua đêm ở đâu cả. Thế nhưng vào đêm thử thách, họ được gia đình bịt kín mắt, đem đến một khu rừng già xa lạ rồi thả ra. Khi người nhà bỏ đi rồi, lột khăn bịt mắt ra, người thiếu niên chỉ thấy đêm đen dày đặc, đưa tay lên tận mắt cũng chẳng thấy gì. Lang thang trong rừng, người thiếu niên được thử thách phải sống những giờ phút hết sức căng thẳng: Chỉ cần tiếng nhánh cây khô gãy “rắc” dưới chân cũng khiến họ hình dung ra hình ảnh một con thú dữ nào đó đang rình rập, sẵn sàng lao ra tấn công bất cứ lúc nào. Nghe tiếng thú dữ gầm, rống xa xa, họ tưởng chừng như mình sẽ là con mồi tiếp theo của chúng trong giây lát, và cái chết sẽ đến không sao tránh khỏi. Mỗi lần nghe tiếng gió lao xao trong cành lá, họ sợ dựng tóc gáy, hoang mang không biết hiểm họa nào sẽ xảy đến… Cứ thế suốt một đêm dài là một cực hình tưởng chừng không sao chịu nổi. Chỉ một đêm mà tưởng chừng như vô tận; thế nhưng cái đêm kinh hoàng ấy rồi cũng trôi qua. Và, ngay khi những tia sáng đầu tiên xuất hiện - vẫn còn mờ nhạt cho đến nỗi chưa phân biệt được màu của lá, của hoa - người thiếu niên được thử thách đã phải ngạc nhiên hết sức khi thấy thấp thoáng trong ánh sáng lờ mờ, yếu ớt ấy một bóng người với đầy đủ cung tên, gươm giáo đang bám theo mình trong một khoảng cách không xa. Đó chính là cha của người được thử thách, ông đã bám sát theo đứa con để sẵn sàng bảo vệ trong suốt đêm qua… Đức Chúa Trời là Đấng kêu gọi chúng ta bước ra khỏi hoang mạc thuộc linh trong thế gian này cũng luôn luôn ở bên cạnh chúng ta như thế. Ngài là Đức Chúa Trời đã truyền phán cho chúng ta “ Hãy đứng dậy đi…”, nhưng đồng thời Ngài cũng là Đức Chúa Trời kết ước với chúng ta: “Hãy vững lòng bền chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng; vì Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi” (C. 9). Đức Chúa Trời của Môise, Đức Chúa Trời của Giôsuê cũng chính là Đức Chúa Trời của chúng ta ngày nay! Kinh Thánh luôn luôn so sánh sự bước đi của Cơ Đốc Nhân với chiến trận thuộc linh. Để làm một chiến sĩ khôn ngoan, chúng ta phải biết tự vũ trang cho mình một cách thỏa đáng. Tuy nhiên, vũ khí của chúng ta sẽ trở nên vô dụng nếu kênh thông tin giữa chúng ta với Tổng Tư Lệnh của chúng ta là Đức Chúa Trời bị nhiễu. Điều bắt buộc là chúng ta phải nghe cho được tiếng phán của Đức Chúa Trời. Thế nhưng, để nghe được tiếng phán của Đức Chúa Trời, chúng ta phải biết phân biệt: (1) Tiếng của Satan là kẻ thù của chúng ta gầm rống như sư tử (1Phi. 5:8). Tiếng của Satan đầy dọa dẫm, dễ làm cho chúng ta khiếp nhược. Nếu chúng ta bị cuốn theo tiếng của Satan, chúng ta sẽ bị tê liệt, không sao tiến lên phía trước được. (2) Tiếng của dân bản địa trong “xứ” là dân mà chúng ta phải chiến đấu để chiến thắng và chinh phục. “Xứ” là thế gian này, là nơi không muốn ánh sáng của Tin Lành soi rọi vào vì nó sẽ làm phơi bày tội lỗi của họ ra. Nếu chúng ta nghe theo tiếng cám dỗ trong thế gian, chúng ta sẽ đánh mất phương hướng, bỏ rơi sự kêu gọi đã được trao ban cho chúng ta. (3) Cũng còn có tiếng huyên náo trong chính trại quân của chúng ta là Hội Thánh nữa! Tiếng này có nhiều giọng khác nhau: Giọng ganh tị, giọng mạ lị, giọng chia rẽ, và cả giọng kiêu ngạo của chính xúc cảm của bản thân… Nếu nghe theo các giọng này, chúng ta dễ bị tụt hậu, thối lui, hoặc bỏ cuộc. Tiếng phán của Đức Chúa Trời mạnh nhưng mang tính yên ủi là thẩm quyền tối hậu đối với chúng ta. Đức Chúa Trời truyền cho chúng ta phải có dũng khí, phải biết nương cậy Ngài không thôi vì Ngài luôn ở với chúng ta. Với sự ở cùng của Đức Chúa Trời trong chúng ta, chúng ta sẽ vô địch (C. 5a), chúng ta sẽ không bao giờ thất bại nếu chúng ta biết kiên trung vâng theo tiếng phán của Ngài: “Quyển sách Luật Pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước” (C. 8). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“HÃY CHUẨN BỊ CHO THIÊN ĐÀNG!” (Gi. 14:1-3) “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa.” (Gi. 14:1-3) Cuộc sống trên thế gian luôn khiến chúng ta phải lo toan và lắm khi phải bối rối vì hầu như mọi sự đều khó khăn và bất định. Chính từ một sự kinh nghiệm cuộc sống như thế mà nhận thức và thái độ của người tín hữu đã bị sai lệch khá nhiều so với ý định và chương trình hoàn hảo của Đức Chúa Trời dành cho họ. Đức Chúa Trời không muốn chúng ta bối rối mà hãy cứ nương cậy Ngài. Nếu chúng ta thực sự đặt niềm tin Đức Chúa Jêsus, chúng ta phải biết rằng Thiên Đàng là có thật và dành sẵn cho chúng ta, đồng thời cũng phải biết chuẩn bị cho mình những gì tương thích với sự chuẩn bị của Ngài ở Thiên Đàng cho chúng ta. I. THIÊN ĐÀNG CÓ THẬT VÀ DÀNH SẴN CHO CHÚNG TA Thiên Đàng là có thật vì từ muôn thuở, linh hồn con người luôn luôn biết hoài vọng về một nơi như thế. Bất cứ nền văn hóa nào trên thế gian này, bất cứ thời điểm lịch sử nào của xã hội chúng ta cũng đều có thể tìm thấy được niềm tin của con người vào một cuộc sống phước hạnh cho đời sau. Chúng ta không thể nào tin được rằng Đức Chúa Trời đã gieo vào linh hồn con người một hoài vọng phổ quát như thế mà Ngài lại không sắm sẵn cho họ thực tại ấy. Thật vậy, Đức Chúa Trời phán qua Lời Kinh Thánh cho biết rằng có một nơi như thế: “2Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở; bằng chẳng vậy, Ta đã nói cho các ngươi rồi. Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. 3Khi Ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó” (Gi. 14:2-3) Đức Chúa Jêsus đã có lời hứa về Thiên Đàng cho những kẻ tin Ngài. Nếu là Cơ Đốc Nhân chân thực, chúng ta phải vui mừng về việc tên mình đã được ghi trên Thiên Đàng: “…Hãy mừng vì tên các ngươi đã ghi trên Thiên Đàng” (Lu. 10:20b) Theo Sứ Đồ Phaolô, Đức Chúa Jêsus đang ngự Ngôi oai nghiêm trên Thiên Đàng cùng với Đức Chúa Cha: “Ngài…khiến Đấng Christ từ kẻ chết sống lại và làm cho ngồi bên hữu mình tại các nơi trên trời” (Êph. 1:20) Và Sứ Đồ Phaolô cho biết rằng Thiên Đàng chính là nhà ở trong tương lai của các tín hữu: “1Vả, chúng ta biết rằng nếu nhà tạm của chúng ta dưới đất đổ nát, thì chúng ta lại có nhà đời đời tại trên trời, bởi Đức Chúa Trời, không phải bởi tay người làm ra. 2Vì chúng ta thật than thở trong nhà tạm nầy, mà hết sức mong được mặc lấy nhà chúng ta từ trên trời” (2Cô. 5:1-2) Thiên Đàng là chắc chắn, đó là nơi cho tương lai vinh hiển của người tín hữu (Côl. 1:27). Phaolô cũng cho chúng ta biết rằng việc Đức Thánh Linh đang ở cùng trong đời sống người tín hữu, trên một phương diện, là một sự bảo đảm cho tương lai vinh hiển ấy: “Đấng đã gây dựng cho chúng ta được sự ấy, ấy là Đức Chúa Trời, đã ban của tin của Đức Thánh Linh cho chúng ta” (2Cô. 5:5) Sứ Đồ Phierơ khẳng định rằng Thiên Đàng “1Là cơ nghiệp không hư đi, không ô uế, không suy tàn, để dành trong các từng trời cho anh em, 2là kẻ bởi đức tin nhờ quyền phép của Đức Chúa Trời giữ cho, để được sự cứu rỗi gần hiện ra trong kỳ sau rốt” (1Phi. 1:4-5) Từ liệu Thiên Đàng (Hb. shamayim; Gk. ouranos) xuất hiện trong Sách Khải Huyền nhiều hơn bất cứ Sách nào khác trong Kinh Thánh. Phân đoạn Kinh Thánh đề cập đến Thiên Đàng rõ nét hơn hết là Khải. 21:1-22:5. Theo đoạn văn Kinh Thánh này, Thiên Đàng được tả vẽ qua ba hình ảnh: [1] Đền Tạm (Khải. 21:1-8); [2] Thành Thánh (Khải. 21:9-27); và là [3] Vườn (Khải. 22:1-5). “Đền Tạm” là hình ảnh mô tả Thiên Đàng theo góc độ mối tương giao hoàn hảo giữa người tín hữu với Đức Chúa Trời. Biểu trưng “Thành Thánh” nhằm cho biết đời sống trên Thiên Đàng là một sự bảo an hoàn toàn. Hình ảnh “Vườn” chỉ cho thấy đời sống trên Thiên Đàng là một sự cung ứng trọn vẹn cho những ai đã từng hết lòng sống nương cậy Đức Chúa Trời. Có một người kia, khi biết không thể sống lâu hơn nữa được, đã cầu xin Đức Chúa Trời ban cho mình một đặc ân là được đem về Thiên Đàng một ít trong số những gì ông có được và quí nhất. Được Đức Chúa Trời cho phép, ông đã suy nghĩ và cuối cùng quyết định đến khi qua đời sẽ mang theo về Thiên Đàng chỉ một vali nhỏ vàng thỏi mà thôi. Đến ngày qua đời, người này đã hết sức vất vả trên đường về Thiên Đàng vì chiếc vali vàng dầu nhỏ là thế nhưng cũng vẫn quá nặng. Đã thế, đến cổng Thiên Đàng, Thiên Sứ giữ cửa ngăn ông lại, không cho đem chiếc vali đựng vàng vào bên trong. Người này đã phải nói cho Thiên Sứ biết rằng ông đã được phép đặc biệt của Đức Chúa Trời để mang theo chiếc vali này; vì thế, Thiên Sứ thôi không ngăn lại nữa mà để cho người ấy kéo lê chiếc vali đầy vàng thỏi của mình vào Thiên Đàng… Qua khỏi cổng Thiên Đàng, người này thật hết sức bất ngờ và ngỡ ngàng: Vật liệu kiến trúc trong Thiên Đàng chỉ toàn bằng ngọc quí và vàng khối! Ngay cả trên con đường dẫn vào Thành Thánh mà ông đang đi, những khối vàng lát mặt đường còn tinh ròng và đẹp hơn những thỏi vàng trong chiếc vali mà ông đã vất vả lắm mới mang lên được đến đây! Thiên Đàng có một cấu hình như thế thì người tín hữu cần phải chuẩn bị những gì cho tương thích với Thiên Đàng? Chúng ta cần phải sống như thế nào để rồi Thiên Đàng sẽ là chỗ ở tiếp theo của chúng ta? II. PHẢI CHUẨN BỊ CHO THIÊN ĐÀNG “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa” (Gi. 14:1) Đây là lời Đức Chúa Jêsus kêu gọi các môn đồ của Ngài hãy tin cậy Đức Chúa Trời trong mọi cảnh ngộ của cuộc đời này. Đức Chúa Jêsus biết Ngài sắp sửa chịu đóng đinh trên Thập Tự Giá và họ sẽ bị tản lạc. Đức Chúa Jêsus truyền cho họ hãy cứ giữ vững lòng tin vì Đức Chúa Trời đã có chương trình hoàn hảo cho những ai nương cậy Ngài. Tin cậy Đức Chúa Trời có nghĩa là vẫn cứ nương cậy nơi thuộc tính của Ngài bất chấp việc xảy ra là gì và xảy ra như thế nào: “Vả, đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đương trông mong, là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy” (Hê. 11:1) Tin cậy Đức Chúa Trời một cách đúng nghĩa vốn đi ngược lại với bản chất tự nhiên của chúng ta. Tin cậy Đức Chúa Trời có nghĩa là chúng ta thừa nhận rằng mình sẽ thôi không còn là chủ nhân ông của đời sống mình nữa, mà là nhường địa vị ấy lại cho Ngài. Trong cuộc sống đời thường, chúng ta vẫn thường phải đặt niềm tin vào một việc gì hoặc một ai đó. Chúng ta tin rằng chiếc xe máy mà chúng ta đi sẽ an toàn chứ không phải ở trong tâm trạng hồi hộp, lo rằng nó có thể đổ sập xuống, rã rời ra từng mảnh vào bất cứ lúc nào. Chúng ta làm việc và tin rằng sẽ được trả lương chứ không ai có thể làm việc bình thường trong tâm trạng nơm nớp lo rằng mình sẽ không được trả lương. Chúng ta đi khám Bác Sĩ và uống thuốc theo đơn Bác Sĩ cho vì tin rằng sẽ được lành bệnh; chẳng ai chịu mất công đi khám, chịu tốn tiền, và uống thuốc mà lại không tin rằng sẽ có được kết quả mong muốn. Người đặt niềm tin nơi Đức Chúa Trời phải tin rằng cuối cùng mình sẽ có một cuộc sống phước hạnh đời đời trong Thiên Đàng. Tin Chúa mà không hề có sự hy vọng về Thiên Đàng, ngược lại chỉ có được một số trông cậy nào đó trong đời này mà thôi thì thật là “vô phước”: “Nếu chúng ta chỉ có sự trông cậy trong Đấng Christ về đời nầy mà thôi, thì trong cả mọi người, chúng ta là kẻ khốn nạn hơn hết” (1Cô. 15:19) Để có thể trải qua cuộc hành hương trên đời tạm này mà không lạc mất phương hướng, người tín hữu phải hoàn toàn tin cậy nơi Đức Chúa Trời. Khi chúng ta cảm thấy yếu mỏn, Đức Chúa Trời là sức lực của chúng ta. Khi chúng ta bị đặt dưới sức ép của cuộc sống, Đức Chúa Trời là sự vơi nhẹ cho chúng ta. Khi chúng ta cần có sự bảo an, Đức Chúa Trời là nơi trú ẩn của chúng ta. Mọi nguồn lực của Đức Chúa Trời sẽ sẵn sàng cho chúng ta sử dụng nếu chúng ta biết đặt niềm tin của mình nơi chính Ngài: “Hãy hết lòng tin cậy Đức Giêhôva,_Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con;_Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài,_Thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con” (Châm. 3:5-6) Không thể nói được rằng mình là người tin cậy Đức Chúa Trời mà lại chưa có Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình, vì không hề có bất cứ phương tiện nào để đến với Đức Chúa Trời mà lại ở ngoài Đức Chúa Jêsus: “5Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người; 6Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người…” (1Ti. 2:5-6a) Nếu không đặt niềm tin của mình nơi Đức Chúa Trời, chúng ta không thể có con đường để tiếp nhận quyền năng, sự thương xót, và tình yêu thương của Ngài. Nếu không đặt niềm tin của mình nơi Đức Chúa Trời, khi sự thử thách đến, chúng ta sẽ thấy quá khó khăn. Thế nên, chúng ta phải biết đặt niềm tin của mình nơi Đức Chúa Trời. Vấn đề cơ bản, và là xuất phát điểm, của tiến trình về Thiên Đàng là việc đặt niềm tin nơi Đức Chúa Trời qua và trong Chúa Cứu Thế Jêsus, Ngài phán: “Ta là Đường Đi, Lẽ Thật, và Sự Sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha” (Gi. 14:6) Thật ra, khi phán rằng “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa” (C. 1), Đức Chúa Jêsus Christ muốn đặt ra một câu hỏi chung cho tất cả mọi người: Đối với những ai chưa nhận được Sự Cứu Rỗi trong Ngài, vẫn còn quằn quại dưới gánh nặng của tội lỗi, Ngài mời gọi: “28Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. 29Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của Ta, và học theo Ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. 30Vì ách Ta dễ chịu và gánh Ta nhẹ nhàng” (Ma. 11:28-30) Đối với những ai đã nhận rằng mình là người tin Chúa, Ngài muốn họ bày tỏ đức tin ấy ra cho mọi người thấy qua đời sống, vì “…Theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở” (2Phi. 3:13). Đời sống Cơ Đốc thực hành của Cơ Đốc Nhân phải được bày tỏ: “Sự tin đạo thanh sạch không vết, trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, là: Thăm viếng kẻ mồ côi, người góa bụa trong cơn khốn khó của họ, và giữ lấy mình cho khỏi sự ô uế của thế gian” (Gia. 1:27) Đức Chúa Jêsus phán rằng “Khi Ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó” (Gi. 14:3). Một khi Đức Chúa Jêsus đã phán như thế thì có nghĩa là của cải của chúng ta là tình yêu thương của Đức Chúa Trời là Đấng Yêu Thương. Của cải của chúng ta là Ân Điển và sự bình an từ nơi Đức Chúa Trời của Sự Yên Ủi. Của cải của chúng ta là sự bảo an từ nơi Đức Chúa Trời là Đấng đời đời bất biến. Của cải của chúng ta là sự gìn giữ và cung ứng từ nơi Đức Chúa Trời là Đấng quyền năng. Của cải của chúng ta là sự tán thưởng từ nơi Đức Chúa Trời là Đấng toàn tri. Của cải của chúng ta là sự sống đời đời từ nơi Đức Chúa Trời là Đấng đã phó Con Một của Ngài cho chúng ta có được tất cả mọi sự. Đức Chúa Trời đang đợi chúng ta đáp ứng thuận theo sự dạy dỗ và kêu gọi này của Ngài, sống tin quyết và nương cậy Ngài trong mọi sự, biết chắc Thiên Đàng dành sẵn cho chúng ta và chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho Thiên Đàng. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“HỘI THÁNH LÀ GÌ?” (1Phi. 2:5) “Anh em cũng như đá sống, được xây nên nhà thiêng liêng, làm chức tế lễ thánh, đặng dâng của tế lễ thiêng liêng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ mà đẹp ý Đức Chúa Trời.” (1Phi. 2:5) Sứ Đồ Phaolô cho biết rằng sự huyền nhiệm về Hội Thánh là “lẽ mầu nhiệm trong các đời khác chưa từng được phát lộ cho con cái loài người, mà bây giờ đã được Đức Thánh Linh tỏ ra cho các Sứ Đồ thánh và Tiên Tri của Ngài” (Êph. 3:5). Lẽ Thật về Hội Thánh đã được kín giấu cho đến lúc Đức Chúa Jêsus tuyên bố công khai về việc thiết lập Hội Thánh của Ngài trong tương lai (Ma. 16:18). Sau đó, Hội Thánh đã được đề cập đến như một thực thể hiện tại khi Sách Công Vụ Các Sứ Đồ cho biết rằng “Mỗi ngày Chúa lấy những kẻ được cứu thêm vào Hội Thánh” (Công. 2:47). Để có thể làm tròn phận sự thành viên trong Hội Thánh Địa Phương, chúng ta phải học biết giáo lý về Hội Thánh… Câu hỏi được nêu lên ở đây là “Theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời, Hội Thánh là gì?” A. HỘI THÁNH THEO SỰ NHÌN NHẬN CỦA CHÚNG TA Chúng ta đã chịu ảnh hưởng của nhiều quan điểm và lề lối phi Kinh Thánh, thiếu lành mạnh đối với đời sống của Hội Thánh khiến cho nhiều khi Hội Thánh không còn trong sáng và hiệu quả theo sự kỳ vọng của Đức Chúa Trời. Chúng ta cần tìm hiểu lại Đức Chúa Jêsus kỳ vọng gì ở Hội Thánh của Ngài. Ngày nay có quá nhiều sự vỡ mộng trong lòng các tín hữu về Hội Thánh. Nhìn chung, chúng ta dễ nhận ra một tâm trạng “mệt mỏi về Hội Thánh, nhưng đồng thời vẫn biết khát khao về Đức Chúa Trời”. Sự thật là có cả những người không còn chút hy vọng nào về Hội Thánh và quả quyết rằng họ “sẽ không bao giờ trở lại với Hội Thánh”. Khi nói về nguyên nhân làm cho “chán” Hội Thánh, người ta có thể kể ra được rất nhiều nguyên nhân, và nguyên nhân nào trông cũng “có vẻ” xác đáng cả! Điều hiển nhiên không thể chối cãi là có nhiều sự bất mãn đối với Hội Thánh vì nhận thấy Hội Thánh thiếu xứng hiệp, thiếu hữu ích, và có vẻ lãng phí thời gian… Sự nhìn nhận về Hội Thánh khác nhau tùy nhận thức cá nhân. Có người nhìn nhận Hội Thánh theo quan điểm “cơ quan” với tính cấu trúc và hành chính cao; cho rằng Hội Thánh phải đủ tính bề thế để họ có thể đứng dưới tên của nó. Có người nhìn Hội Thánh theo quan điểm “cấp dưỡng”; xem Hội Thánh là nơi phải cung cấp cho được âm nhạc họ yêu và bài giảng họ thích. Có người nhìn nhận Hội Thánh theo quan điểm “học tập”; muốn Hội Thánh phải là một loại viện giáo dục_đào tạo với một loại hình giảng dạy không chỗ trách được… Nhìn chung có nhiều tín hữu trông có vẻ đã quên mất (hay chưa biết?) ý nghĩa và giá trị chân chính của Hội Thánh; do đó, họ không có được niềm vui và sự thỏa lòng khi đến với Hội Thánh khiến cho Hội Thánh, đối với họ, chỉ là một “nơi” mà họ có thể tùy tiện đến hoặc không đến chứ không phải là cộng đoàn mà họ phải kết ước gắn bó. B. HỘI THÁNH THEO SỰ NHÌN NHẬN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI Khi nghiên cứu từ liệu “Hội Thánh” trong Kinh Thánh, chúng ta sẽ khám phá được nhiều điều thú vị. Từ liệu “Hội Thánh” (Gk. “ekklesia”) chỉ được Đức Chúa Jêsus sử dụng vỏn vẹn có 3 lần (Ma. 16:18; 18:17[2 lần]), nhưng tổng số lần được các Trước Giả Tân Ước sử dụng lại lên đến 111 lần: Sứ Đồ Phaolô nhắc đến “Hội Thánh” 62 lần, Sứ Đồ Luca sử dụng từ liệu này 23 lần, Sứ Đồ Giăng sử dụng từ liệu ấy 20 lần trong Sách Khải Huyền, và các Trước Giả khác đã sử dụng từ liệu “Hội Thánh” 6 lần. I. Hội Thánh Là Một Cộng Đoàn Thứ nhất, chúng ta cần để ý rằng “Hội Thánh” nói về “con người” chứ không phải về “nơi chốn”. Hội Thánh là tập thể những người được Đức Chúa Trời gọi riêng ra cho Ngài. Trong Tiếng Hylạp, “Hội Thánh” là “ekklesia” với nghĩa nguyên thủy là một nhóm người được gọi ra riêng khỏi các công dân khác. Họ được gọi riêng ra để được hướng dẫn, dạy dỗ, và để thống nhất về những quyết định nào đó. Sau khi người của một “ekklesia” gặp riêng nhau rồi, họ trở về lại gia đình của mình, truyền đạt cho những người còn lại những điều họ đã thống nhất với nhau. Người của một “ekklesia” hành sự như sứ giả nhưng cũng đồng thời là hành giả cho các quyết định của cộng đồng (“ekklesia”) của họ. Đức Chúa Trời kính yêu của chúng ta cũng đã hành sự trong một vai trò tương tự. Đức Chúa Trời đã đến để giảng về và khởi sự cho sự trị vì yêu thương của Ngài ngay trên thế gian này. Đức Chúa Trời đã đến thế gian để kêu gọi nhân loại nhờ Ngài mà vùng dậy khỏi tội lỗi của họ. Ngài đã kêu gọi những người được lựa chọn ra khỏi quỉ quốc của tội lỗi dưới ách cai trị của quỉ vương Satan. Ngài đã kêu gọi Dân Ngài ra khỏi thảm trạng của họ, làm cho họ trở nên một cộng đoàn mới ngay giữa một xã hội cũ: “17Ta sẽ bảo hộ ngươi giữa dân nầy và dân ngoại là nơi Ta sai ngươi đến, 18đặng mở mắt họ, hầu cho họ từ tối tăm mà qua sáng láng, từ quyền lực của quỉ Satan mà đến Đức Chúa Trời, và cho họ bởi đức tin nơi Ta được sự tha tội, cùng phần gia tài với các thánh đồ” (Công. 26:17-18). Đức Chúa Trời đã tập hợp Dân Ngài lại trong một thực thể gọi là Hội Thánh với sự thể hiện hữu hình của các Hội Thánh Địa Phương. Hội Thánh với các Hội Thánh Địa Phương của Đức Chúa Trời là một sự biểu hiện cho Vương Quốc Đức Chúa Trời là một thực thể thuộc linh còn mang tính vô hình trong hiện tại và sẽ là một thực thể thuộc linh có tính hữu hình trong tương lai. Hội Thánh là thực thể nói lên rằng Đức Chúa Trời đang trị vì… “19Dường ấy, anh em chẳng phải là người ngoại, cũng chẳng phải là kẻ ở trọ nữa, nhưng là người đồng quốc với các thánh đồ, và là người nhà của Đức Chúa Trời. 20Anh em được dựng lên trên nền của các Sứ Đồ, cùng các Đấng Tiên Tri, chính Đức Chúa Jêsus là Đá Góc Nhà, 21cả Cái Nhà đã dựng lên trên Đá đó, sắp đặt cách hẳn hoi, để làm nên một Đền Thờ Thánh trong Chúa. 22Ấy, anh em cũng nhờ Ngài mà được dự phần vào Nhà đó, đặng trở nên Nhà Ở của Đức Chúa Trời trong Thánh Linh” (Êph. 2:19-22). Hội Thánh là thực thể nói lên rằng Vương Quốc Đức Chúa Trời đang thực hữu… Tiếng nói của sự kêu gọi, của sự ăn năn, của sự tha thứ, của sự đầu phục Đức Chúa Trời phải được nghe từ Hội Thánh của Đức Chúa Trời: “Ta sẽ giao chìa khóa Nước Thiên Đàng cho ngươi; hễ điều gì mà ngươi buộc dưới đất, thì cũng sẽ phải buộc ở trên trời, và điều gì mà ngươi mở dưới đất, thì cũng sẽ được mở ở trên trời” (Ma. 16:19). II. Hội Thánh Thuộc Về Duy Nhất Đức Chúa Trời Thứ hai, Đức Chúa Jêsus phán cho biết rằng Hội Thánh là thuộc về Ngài và Ma. 16:18 là nơi đầu tiên mà lẽ thật ấy được khải thị: “Còn Ta, Ta bảo ngươi rằng: Ngươi là Phierơ, Ta sẽ lập Hội Thánh Ta trên đá nầy, các cửa Âm Phủ chẳng thắng được Hội đó” Đây là lời phán về một lẽ thật gây ngạc nhiên. Đức Chúa Jêsus tỏ cho biết Hội Thánh của Ngài là một thực thể bất bại trước mọi đối thủ bất kỳ! “Các cửa Âm Phủ” không thể thủ thắng được trước Hội Thánh của Đức Chúa Trời! Quyền lực hung hãn của mọi thế lực thù địch không chận đứng được bước tiến của Hội Thánh vì Hội Thánh là “Hội Thánh Ta” – Hội Thánh của chính Đức Chúa Trời hằng sống! Lẽ thật ấy đã được Sứ Đồ Phaolô nhắc lại: “Anh em hãy giữ lấy mình, và luôn cả bầy mà Đức Thánh Linh đã lập anh em làm kẻ coi sóc, để chăn Hội Thánh của Đức Chúa Trời, mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình” (Công. 20:28). Phận sự của chúng ta đối với Hội Thánh là trọng đại; và, theo sự định mạng của Đức Chúa Trời, nghĩa vụ của Ngài đối với Hội Thánh là một nghĩa vụ nghiêm túc. Vì Hội Thánh là của chính Đức Chúa Trời nên Đức Chúa Jêsus chẳng những công bố chủ quyền Ngài trên Hội Thánh mà Ngài cũng còn bày tỏ cho thấy sự hy sinh tận tụy của Ngài đối với Hội Thánh nữa: “25… Đấng Christ đã yêu Hội Thánh, phó chính mình vì Hội Thánh, 26để khiến Hội nên thánh sau khi lấy nước rửa và dùng Đạo làm cho Hội tinh sạch, 27đặng tỏ ra Hội Thánh đầy vinh hiển, không vết, không nhăn, không chi giống như vậy, nhưng thánh sạch không chỗ trách được ở trước mặt Ngài” (Êph. 5:25-27). III. Đức Chúa Trời Lãnh Đạo Hội Thánh Lẽ Thật thứ ba về Hội Thánh được bày tỏ qua sự dạy dỗ của Sứ Đồ Phaolô về quyền Nguyên Thủ của Đức Chúa Jêsus đối với Hội Thánh: “Ấy cũng chính Ngài là Đầu của Thân Thể, tức là Đầu Hội Thánh. Ngài là ban đầu, sanh trước nhứt từ trong những kẻ chết, hầu cho trong mọi vật, Ngài đứng đầu hàng” (Côl. 1:18). “22Ngài đã bắt muôn vật phục dưới chân Đấng Christ, và ban cho Đấng Christ làm Đầu Hội Thánh, 23Hội Thánh là Thân Thể của Đấng Christ, tức là sự đầy đủ của Đấng gồm tóm mọi sự trong mọi loài” (Êph. 1:22-23). Quyền Nguyên Thủ có nghĩa là quyền lãnh đạo. Đức Chúa Jêsus nắm quyền Nguyên Thủ có nghĩa là Ngài là Lãnh Đạo Tối Cao của Hội Thánh và Ngài lãnh đạo Hội Thánh toàn diện và tuyệt đối. Để Đức Chúa Jêsus thực sự lãnh đạo Hội Thánh, chúng ta phải nghe theo Ngài, tức thuận phục Ngài trong mọi sự. Có khi chúng ta nhìn sai hướng trên vấn đề lãnh đạo Hội Thánh. Thay vì nhận thức một cách rõ ràng và thường trực rằng chính Đức Chúa Jêsus mới là Lãnh Đạo chân thực của Hội Thánh, chúng ta lại lấy các nhà lãnh đạo của Hội Thánh và quyền lãnh đạo Hội Thánh được Chúa trao làm điểm dừng cho quan niệm lãnh đạo Hội Thánh của chúng ta! Loại nhận thức trục trặc này vốn có tuổi thọ từ thời Hội Thánh sơ kỳ: “12Tôi có ý nói rằng trong anh em mỗi người nói như vầy: Ta là môn đồ của Phaolô; - Ta là của Abôlô; - Ta là của Sêpha; - Ta là của Đấng Christ. 13Đấng Christ bị phân rẽ ra sao? Có phải Phaolô chịu đóng đinh trên Cây Thập Tự thế cho anh em, hay là anh em đã nhân danh Phaolô mà chịu Báptêm sao?” (1Cô. 1:12-13). Vì Đức Chúa Jêsus là Lãnh Đạo tối cao và thực sự của Hội Thánh, Hội Thánh được gọi là “Thân Thể Đấng Christ”: “Nay tôi lấy làm vui về sự tôi đã chịu khổ sở vì anh em, tôi lại vì Thân Thể Đấng Christ, là Hội Thánh, mà đem xác thịt mình chịu hết các điều còn lại trong sự thương khó của Ngài” (Côl. 1:24). Hội Thánh Cơ Đốc Phổ Thông thực sự bao gồm tất cả những người đã được cứu trong Định Kỳ Hội Thánh và là những người được kết hiệp bởi sự Báp Tem của Đức Thánh Linh vào trong Đức Chúa Jêsus và kết hiệp với nhau trong Ngài để hợp thành một Thân Thể Huyền Nhiệm mà Ngài là Đầu và là Sự Sống, và trở nên Cô Dâu đã hứa của Ngài. Hội Thánh Cơ Đốc Phổ Thông được biểu thị qua các Hội Thánh Địa Phương. Các kẻ thù thuộc linh của chúng ta luôn luôn muốn làm giảm lòng kính yêu của chúng ta đối với Đức Chúa Trời (1Gi. 2:15) và phải bận tâm với những ý nghĩ trái với ý muốn của Đức Chúa Trời (Êph. 5:17). Tuy nhiên, chúng ta đang giữ chức Thầy Tế Lễ trong Hội Thánh, chúng ta phải sống đẹp ý Chúa: “Anh em cũng như đá sống, được xây nên nhà thiêng liêng, làm chức tế lễ thánh, đặng dâng của tế lễ thiêng liêng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ mà đẹp ý Đức Chúa Trời” (1Phi. 2:5). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“HỘI THÁNH THEO KINH THÁNH” (Công. 2:42) “Vả, những người ấy bền lòng giữ lời dạy của các Sứ Đồ, sự thông công của anh em, lễ bẻ bánh, và sự cầu nguyện.” (Công. 2:42) Đại Mạng Lịnh của Đức Chúa Jêsus đối với tất cả các tín hữu của Ngài là hãy môn đồ hóa muôn dân, “Hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đứa Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép Báptêm cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà Ta đã truyền cho các ngươi” (Ma. 28:19-20). Công. 2 mô tả về một bước khởi đầu rực rỡ của việc thực hiện Đại Mạng Lịnh của Chúa. “Mỗi ngày Chúa lấy những kẻ được cứu thêm vào Hội Thánh” (Công. 2:47b) là tin vui cho Hội Thánh khắp mọi nơi từ thời ấy đến nay. Thế nhưng phải chăng “Hội Thánh” luôn luôn là Hội Thánh hợp Kinh Thánh, là Hội Thánh đẹp ý Đức Chúa Trời? Hội Thánh theo Kinh Thánh cần phải có các loại hình sinh hoạt căn bản nào để bảo đảm được tính hợp Kinh Thánh của Hội Thánh cho đẹp ý Đức Chúa Trời? I. “GIỮ LỜI DẠY CỦA CÁC SỨ ĐỒ” Hội Thánh sơ kỳ đã được thành lập trước khi Kinh Thánh Tân Ước được hoàn thành. Vì vậy, các tín hữu đã phải nhận sự dạy dỗ của các Sứ Đồ về những điều mà các vị Sứ Đồ đã được nhận trực tiếp từ sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus: “Chúng tôi lấy điều đã thấy, đã nghe mà truyền cho anh em, hầu cho anh em cũng được giao thông với chúng tôi. Vả chúng tôi vẫn được giao thông với Con Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ” (1Gi. 1:3). Dầu vậy, đối với các tín hữu ngày nay, khi sự khải thị của Đức Chúa Trời qua Kinh Thánh đã hoàn thành, không còn gì quí hơn cho họ là được hưởng sự bổ dưỡng trực tiếp từ “sữa thiêng liêng của Đạo” là những sự dạy dỗ trực tiếp từ Lời Đức Chúa Trời. “1Vậy anh em đã từ bỏ mọi điều độc ác, mọi điều gian giảo, mọi thứ giả trá, lòng ghen ghét và sự nói hành, 2thì hãy ham thích sữa thiêng liêng của Đạo, như trẻ con mới đẻ vậy, hầu cho anh em nhờ đó lớn lên mà được rỗi linh hồn” (1Phi. 2:1-2). Về phần người chăn bầy của Đức Chúa Trời, việc bền chí dạy cho các tín hữu giáo lý Kinh Thánh chân chính, và chỉ giáo lý Kinh Thánh chân chính mà thôi, là một đòi hỏi bắt buộc: “Hãy giảng Đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi” (2Ti. 4:2). “Nhưng con hãy dạy điều hiệp với đạo lành” (Tít 2:1). “4Lời nói và sự giảng của tôi chẳng phải bằng bài diễn thuyết khéo léo của sự khôn ngoan, nhưng tại sự tỏ ra Thánh Linh và quyền phép; 5hầu cho anh em chớ lập đức tin mình trên sự khôn ngoan loài người, bèn là trên quyền phép Đức Chúa Trời” (1Cô. 2:4-5). “20Anh em biết tôi chẳng trễ nải rao truyền mọi điều ích lợi cho anh em, chẳng giấu điều chi hết, lại biết tôi đã dạy anh em hoặc giữa công chúng, hoặc từ nhà nầy sang nhà kia, 21giảng cho người Giuđa như cho người Gờréc về sự ăn năn đối với Đức Chúa Trời, và đức tin trong Đức Chúa Jêsus là Chúa chúng ta” (Công. 20:20-21). Các nguyên tắc ấy đã được Sứ Đồ Phaolô thiết lập khi thành lập Hội Thánh cho Dân Ngoại, và đó là những nguyên tắc Kinh Thánh phải luôn luôn được giữ vững, không thể được phép làm ngơ. Trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời, việc “sáng tác” giáo lý phi và phản Kinh Thánh, tự nhận cho mình “quyền Sứ Đồ” là một trọng tội đối với Đức Chúa Trời: “36Có phải là Đạo Đức Chúa Trời ra từ nơi anh em, hoặc chỉ đến cùng anh em mà thôi chăng? 37Nếu ai tưởng mình là Tiên Tri, hay là được Đức Thánh Linh soi sáng, thì người ấy hãy biết rằng điều tôi viết cho anh em đây là mạng lịnh của Chúa” (1Cô. 14:36-37). II. “SỰ THÔNG CÔNG CỦA ANH EM” Sự tăng trưởng thuộc linh có thể được khơi dậy nhờ sự thông công giữa vòng anh chị em tín hữu với nhau. Mỗi Cơ Đốc Nhân là một “con chiên” của Đức Chúa Jêsus và là chi thể của Thân Thể Đấng Christ. Mỗi một Cơ Đốc Nhân đều đã được ban cho một hoặc các ân tứ thuộc linh để phục vụ, gây dựng lẫn nhau: “5Chúng ta là nhiều người mà hiệp nên một Thân trong Đấng Christ, và hết thảy chúng ta đều là các phần chi thể của nhau. 6Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta, ai được ban cho nói tiên tri, hãy tập nói theo lượng đức tin, 7ai được gọi đến làm chức vụ, hãy buộc mình vào chức vụ; ai dạy dỗ, hãy chăm mà dạy dỗ; 8ai gánh việc khuyên bảo, hãy khuyên bảo; ai bố thí, hãy lấy lòng rộng rãi mà bố thí; ai cai trị, hãy siêng năng mà cai trị; ai làm sự thương xót, hãy lấy lòng vui mà làm” (Rô. 12:5-8). Sự ràng buộc với nhau nhờ mối thông công sẽ đem lại được sự khoan dung đối với nhau, và sự cưu mang lẫn nhau. Nhờ có sự thông công, các thánh đồ của Hội Thánh Đức Chúa Trời buổi sơ kỳ đã biết chia sẻ cho nhau các nhu cần cơ bản hằng ngày: “34Vì trong tín đồ không ai thiếu thốn cả, bởi những người có ruộng hay nhà, đều bán đi, bán được bao nhiêu tiền cũng đem đến 35đặt dưới chân các Sứ Đồ; rồi tùy theo sự cần dùng của mỗi người mà phát cho” (Công. 4:34-35). Không hề có nơi nào trong suốt cả Kinh Thánh Tân Ước từ liệu “thông công” nói về “sự vui chơi” vì có vẻ đó là điều trái với ý muốn của Đức Chúa Trời: “Nhưng về phần kẻ ưa sự vui chơi, thì dẫu sống cũng như chết” (1Ti. 5:6). Từ liệu “thông công” (Gk. koinonia) hàm ý về sự chia sẻ. Trong Hội Thánh, “thông công” là chia sẻ với nhau về đức tin chung, chia sẻ với nhau về xúc cảm riêng tư, về gánh nặng riêng tư đến nỗi cái riêng của mỗi người, cả buồn và vui, không còn là riêng nữa… “Cả Luật Pháp chỉ tóm lại trong một lời nầy: Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mình… Hãy mang lấy gánh nặng cho nhau, như vậy anh em sẽ làm trọn Luật Pháp của Đấng Christ…” (Gal. 5:14; 6:2). Do đó, sự “thông công” có nghĩa chung là việc tham dự vào một điều gì đó bằng hành vi “cho” hoặc “nhận” tùy theo trường hợp. Mục đích của sự thông công trong Hội Thánh luôn luôn là để gây dựng cho người khác hơn là tìm sự hưởng thụ cho chính mình: “24Ai nấy hãy coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành; 25chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy” (Hê. 10:24-25). III. “LỄ BẺ BÁNH” Sự thông công cần thiết cho sự tăng trưởng thuộc linh của Cơ Đốc Nhân, nhưng mối thông công giữa con người với nhau luôn luôn là một cái gì đó “mỏng manh”, “dễ vỡ” (Gia. 3:1-12; Rô. 7:14; Gal. 5:17). Tinh thần hiệp một trong một công đồng, chẳng hạn một Hội Thánh Địa Phương, có thể dễ dàng bị tổn hại do việc hiểu lầm hoặc các sự tổn thương do còn non yếu về sự trưởng thành thuộc linh. Do đó, Đức Chúa Jêsus, Nguyên Thủ của Hội Thánh, đã thiết lập Lễ Tiệc Thánh của Ngài để các tín hữu muôn đời lấy đó làm một thời điểm, cơ hội để không những tưởng nhớ về công trình đền tội thay mà Ngài đã hoàn thành trên Thập Tự Giá, mà cũng còn để cho họ kết ước với Ngài và kết ước với nhau: “28Vậy mỗi người phải tự xét lấy mình, và như thế mới ăn bánh, uống chén ấy; 29vì người nào không phân biệt Thân Chúa mà ăn bánh uống chén đó, tức là ăn uống sự xét đoán cho mình” (1Cô. 11:28-29). “Tự xét lấy mình” (Gk. dokimazo) là tự tra xét xem mình có thực sự ăn năn tội và đã xử lý xong các vấn đề liên quan chưa. “Phân biệt Thân Chúa” là nhận thức đầy đủ tính biểu tượng thuộc linh của Lễ Tiệc Thánh: “Thân Chúa” (Gk. soma) mà tín hữu phải nhận thức trong Lễ Tiệc Thánh là Hội Thánh của Đức Chúa Jêsus (chứ chẳng phải lễ phẩm sẽ trở nên thân thể hữu cơ của Ngài)! “Phân biệt Thân Chúa” (Gk. diakrino) trong Lễ Tiệc Thánh là nhận thức ý nghĩa không gì so sánh được của Hội Thánh là cộng đoàn mà Đức Chúa Jêsus đã xả thân để mua chuộc về cho Ngài, và nhận thức về vai trò của mình trong Hội Thánh, nhất là trong mối quan hệ với các thành viên khác trong Hội Thánh: “Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại; chính mình anh em lại phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng?” (Gal. 6:1). “14Vả, nếu các ngươi tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ tha thứ các ngươi. 15Song nếu không tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha lỗi cho các ngươi” (Ma. 6:14-15). Dự Lễ Tiệc Thánh, Cơ Đốc Nhân kết ước với Đức Chúa Jêsus về việc sẽ rao sự chết của Ngài cho đến lúc Ngài tái lâm: “Ấy vậy, mỗi lần anh em ăn bánh nầy, uống chén nầy, thì rao sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến” (1Cô. 11:26). Dự Lễ Tiệc Thánh, Cơ Đốc Nhân kết ước tha thứ và yêu thương nhau để tự chứng rằng mình là môn đồ của Đức Chúa Jêsus và để gây dựng Thân Thể thuộc linh của Ngài là Hội Thánh: “Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ Ta” (Gi. 13:35). Cũng chính vì thế mà các thánh đồ của Hội Thánh sơ kỳ đã giữ Lễ Tiệc Thánh mỗi ngày (Công. 2:46). IV. “SỰ CẦU NGUYỆN” Sự cầu nguyện của Hội Thánh không phải chỉ là nghi thức chiếu lệ. Thời gian cầu nguyện là thời gian người tín hữu thiết tha tâm sự với Đức Chúa Trời và rồi sự làm chứng tốt về quyền năng Đức Chúa Trời sẽ được hiển thị ra để đem người ta đến chỗ nương cậy Ngài và có ích cho Ngài nhiều hơn nữa: “Khi đã cầu nguyện, thì nơi nhóm lại rúng động; ai nấy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, giảng Đạo Đức Chúa Trời cách dạn dĩ” (Công. 4:31). “Cầu nguyện” (Gk. proseuche) là sự thông công của người tín hữu với Cứu Chúa của mình, là hơi thở của đời sống thuộc linh Hội Thánh. Mọi sự đều ở trong Chúa nên mọi sự phải được dâng lên cho Ngài: “17Ngài có trước muôn vật, và muôn vật đứng vững trong Ngài. 18Ấy cũng chính Ngài là Đầu của Thân Thể, tức là Đầu của Hội Thánh. Ngài là ban đầu, sanh trước nhứt từ trong những kẻ chết, hầu cho trong mọi vật, Ngài đứng đầu hàng” (Côl. 1:18-19). “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời” (Phil. 4:6). “Lại hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em” (1Phi. 5:7). Trong thời đại chúng ta đang sống, hiện có một khuynh hướng thịnh hành là thiên nhiều về truyền giáo mà lại xao lãng các sinh hoạt căn bản của Hội Thánh. Tất nhiên là chúng ta vui mừng khi biết được rằng có nhiều linh hồn được cứu, nhưng việc các tân tín hữu phải được chăm nuôi như thế nào cũng là một sự đòi hỏi hợp Kinh Thánh nữa. Nhu cần chăm sóc các “chiên con” là một trong những sự quan tâm hàng đầu của Đức Chúa Jêsus (Gi. 21:15). Các tân tín hữu cần một sự bảo vệ và chăm sóc thường xuyên. Họ cần có được sự hướng dẫn thực hành để có được các phẩm hạnh và hành vi cần thiết của một đời sống theo Chúa. Cũng có thể là trong đời sống thuộc linh cá nhân của mỗi người chúng ta vẫn còn yếu kém ở một phương diện nào đó. Chúng ta hãy dũng cảm làm tất cả những gì có thể làm được để bồi dưỡng cho chính bản thân cũng như cho các tín hữu khác đi đến chỗ trưởng thành thuộc linh. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“HÃY CẢM TẠ ĐỨC CHÚA TRỜI” (Thi. 118:1) “Hãy cảm tạ Đức Giêhôva, vì Ngài là thiện;_Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời.” (Thi. 118:1) Kinh Thánh Tân Ước đề cập đến Cơ Đốc Nhân theo một cách đặc biệt: “Anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức Thầy Tế Lễ Nhà Vua, là Dân Thánh, là Dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài.” (1Phi. 2:9) Kinh Thánh Cựu Ước cũng kêu gọi Dân Sự của Đức Chúa Trời “Hãy cảm tạ Đức Giêhôva, vì Ngài là thiện;_Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời.” (Thi. 118:1) Là Cơ Đốc Nhân, thánh chức phổ quát của chúng ta là “rao giảng nhân đức” của Đức Chúa Trời là Đấng đã cứu chúng ta “ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài”. Thánh chức phổ quát này cũng là phận sự phổ quát quan trọng của chúng ta: Chúng ta có phận sự phải sống với lòng cảm tạ Đức Chúa Trời. Lòng cảm tạ Đức Chúa Trời có một bản chất đặc thù, có những tác dụng sâu xa, và cần phải được hình thành và thể hiện với những yêu cầu nhất định. I. BẢN CHẤT CỦA LÒNG CẢM TẠ Tại sao có lòng cảm tạ Đức Chúa Trời là một điều quan trọng, và bản chất của lòng cảm tạ Đức Chúa Trời là gì? Nhìn chung, tấm lòng biết cảm tạ Đức Chúa Trời là một điều tốt đẹp vì như thế là vâng theo ý Ngài (1Tê. 5:18) và đó cũng đồng thời là sản phẩm trực tiếp của đời sống tin kính: “Vả, sự tin kính cùng sự thỏa lòng, ấy là một lợi lớn.” (1Ti. 6:6) Để có được đúng bài học mà Đức Chúa Trời muốn dạy dỗ về sự tin kính, điều quan trọng là cần nên nhận thức rằng Kinh Thánh đặt tấm lòng biết tin kính trong thế đối chiếu (cũng là để đối chọi) với động cơ trục lợi bằng tôn giáo: “3Ví thử có người dạy dỗ đạo khác, không theo lời có ích của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta và đạo lý theo sự tin kính, 4thì người đó là lên mình kiêu ngạo, không biết chi hết; nhưng có bịnh hay gạn hỏi, cãi lẫy, bởi đó sanh sự ghen ghét, tranh cạnh, gièm chê, nghi ngờ xấu xa, 5cùng những lời cãi lẽ hư không của kẻ có lòng hư xấu, thiếu mất lẽ thật, coi sự tin kính như là nguồn lợi vậy._6Vả, sự tin kính cùng sự thỏa lòng, ấy là một lợi lớn.” (1Ti. 6:3-6) “Lợi” là một khái niệm hấp dẫn và thường được nhìn nhận một cách đa biệt. Các trường hợp “lợi” được nói đến ở đây đều dùng từ liệu porismos (Gk.), nhưng nghĩa ở C. 5 và C. 6 vẫn cứ khác nhau! Trong C. 5, vì cớ “lòng hư xấu, thiếu mất lẽ thật” mà “lợi” là “nguồn lợi”, tức là “một sự thu nhập hay một nguồn thu nhập”. Tuy nhiên, “lợi” (Gk. porismos, xuất phát từ “poros” với nghĩa là một phương thức, một phương tiện) được đề cập trong C. 6, nhờ “sự thỏa lòng” mà “lợi lớn” không nói về sự thu nhập mà nói về phương hướng, về sự xu hướng của tấm lòng và đời sống của người tin. Người có tấm lòng cảm tạ là người có đời sống tin kính và vui thỏa trong sự mình đã tin, người ấy có khả năng tiến về những đích điểm đẹp ý Đức Chúa Trời và có lợi cho sự sống đời đời của người ấy: “Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến.” (Gi. 17:3) Tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời trong một người là sự biểu hiện chắc thật rằng người ấy có sự sống đời đời và dốc lòng theo sự sống đời đời, vì nếu chẳng được Đức Thánh Linh chứng giải trong lòng thì không thể nào người ta thực sự nhận biết và có được một mối quan hệ như thế với Đức Chúa Trời (Sv. 1Cô. 12:3). Theo bản chất, tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời không phải là việc làm vì việc làm cho Đức Chúa Trời mà là chứng tích cho thấy một người đang ở đâu trong mối quan hệ với Đức Chúa Trời. II. TÁC DỤNG CỦA LÒNG CẢM TẠ Như vậy, về bản chất, lòng cảm tạ là kết quả tất yếu của mối quan hệ thân thiết giữa người tín hữu với Đức Chúa Trời. Vì vậy, một khi có được lòng cảm tạ đối với Đức Chúa Trời, sự vui thỏa trong đời sống người tín hữu được gia tăng: “Vả, sự tin kính cùng sự thỏa lòng, ấy là một lợi lớn.” (1Ti. 6:6) “Thỏa lòng” (Gk. autarkeia) nói về trạng thái cảm thấy được đầy đủ trong những sự đã có, và sự tin tưởng rằng không cần phải lo lắng về bất cứ điều gì khác. Nhờ đâu mà người ta có thể thỏa lòng để rồi được yên lòng? Sự “thỏa lòng” thực sự luôn luôn là kết quả của đời sống “tin kính”. Sự thỏa lòng và sự yên lòng không thể có được mà lại thiếu đức tin nơi Đức Chúa Trời. Chỉ khi nào người ta thực sự tin cậy rằng Đức Chúa Trời là tất cả những gì họ cần thì sự thỏa lòng, là điều sẽ dẫn đến lòng cảm tạ, mới thực hữu: “5Chớ tham tiền;hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu. 6Như vậy, chúng ta được lấy lòng tin chắc mà nói rằng:_Chúa giúp đỡ tôi, tôi không sợ chi hết._Người đời làm chi tôi được?” (Hê. 13:5-6) Tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời của Cơ Đốc Nhân là một sự làm chứng về quyền năng của Đức Chúa Trời trên đời sống của họ. Những người được dầm thấm trong “sự tin kính cùng sự thỏa lòng” đến độ sắc diện, dáng điệu của họ sáng rực lên “sự tin kính cùng sự thỏa lòng” trong mọi sự bao giờ cũng tạo ra được ấn tượng tốt đối với những người chung quanh. Trái lại, những Cơ Đốc Nhân nào nặng trĩu ưu tư, luôn luôn có cớ để bất mãn và than vãn tự chứng tỏ rằng họ đã được được “báptêm” trong một loại “mật đắng” hay trong một thứ gì đó chứ không phải là trong Thánh Linh! Sự thật đáng buồn là giữa vòng chúng ta vẫn còn có những người chưa sống theo ý muốn của Đức Chúa Trời trên phương diện cảm tạ Ngài: “17Vậy chớ nên như kẻ dại dột, nhưng phải hiểu rõ ý muốn của Chúa là thế nào.” (Êph. 5:17) Trên phương diện cảm tạ, ý muốn của Đức Chúa Trời là: “Hãy thường thường nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, vì mọi sự tạ ơn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta.” (Êph. 5:20; Sv. 1Tê. 5:16-18) “Vậy, hãy cậy Đức Chúa Jêsus mà hằng dâng tế lễ bằng lời ngợi khen cho Đức Chúa Trời, nghĩa là bông trái của môi miếng xưng danh Ngài ra.” (Hê. 13:15) Tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời được thể hiện qua sự chúc tụng Ngài luôn luôn có tác dụng thuyết phục người khác về Ngài: “Ngài để nơi miệng tôi một bài hát mới,_Tức là sự ngợi khen Đức Chúa Trời chúng tôi._Lắm người sẽ thấy điều đó, bắt sợ,_Và nhờ cậy nơi Đức Giêhôva.” (Thi. 40:3; Sv. Công. 16:22-34) Lịch sử Hội Thánh chứng minh rằng một khi Hội Thánh là Hội Thánh sống với tấm lòng vâng phục và cảm tạ Đức Chúa Trời, Hội Thánh sẽ được phấn hưng: “42Vả, những người ấy bền lòng giữ lời dạy của các Sứ Đồ, sự thông công của anh em, lễ bẻ bánh, và sự cầu nguyện. 43Mọi người đều kính sợ, vì có nhiều sự kỳ phép lạ làm ra bởi các Sứ Đồ. 44Phàm những người tin Chúa đều hiệp lại với nhau, lấy mọi vật làm của chung. 45Bán hết gia tài điền sản mình mà phân phát cho nhau, tùy sự cần dùng của từng người. 46Ngày nào cũng vậy, cứ chăm chỉ đến Đền Thờ; còn ở nhà, thì bẻ bánh và dùng bữa chung với nhau cách vui vẻ thật thà, 47ngợi khen Đức Chúa Trời và được đẹp lòng cả dân chúng. Mỗi ngày Chúa lấy những kẻ được cứu thêm vào Hội Thánh.” (Công. 2:43-47) Tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời của Cơ Đốc Nhân là một cánh cửa mở rộng của thái độ chấp nhận. Khi một người biết sống với lòng cảm tạ Đức Chúa Trời, các mối quan hệ của họ đều sẽ được cải thiện dễ dàng. Trước hết, họ là người rất dạn dĩ trong việc tiếp cận Đức Chúa Trời. Họ là những người có khả năng thấy được trên đỉnh đồi có gì ngay khi mới khởi sự cuộc hành trình ở chân đồi: “18Vả, tôi tưởng rằng những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ được bày ra trong chúng ta... 28Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định. 29Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em; 30còn những kẻ Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã gọi, những kẻ Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã xưng là công bình, và những kẻ Ngài đã xưng là công bình, thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển.” (Rô. 8:18, 28-30) Đối với người thực sự tin kính, chẳng gì có thể làm cho họ dao động được vì quan hệ giữa họ với Đức Chúa Trời là một sự quan hệ bền chặt. Người ta không thể luôn luôn có lòng tri ân đối với Đức Chúa Trời khi tầm nhìn còn bị sự vật, sự việc trói buộc. Tầm nhìn của tấm lòng tri ân là một tầm nhìn không phải của đôi mắt mà là của tấm lòng nương cậy. Chính mối quan hệ giữa Cơ Đốc Nhân với Đức Chúa Trời sẽ quyết định tính chất của các mối quan hệ của họ với tha nhân: “3 Chúc tạ Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, là Cha hay thương xót, là Đức Chúa Trời ban mọi sự yên ủi, 4 Ngài yên ủi chúng tôi trong mọi sự khốn nạn, hầu cho nhân sự yên ủi mà Ngài đã yên ủi chúng tôi, thì chúng tôi cũng có thể yên ủi kẻ khác trong sự khốn nạn nào họ gặp!” (2Cô. 1:3-4) Người sống với lòng cảm tạ Đức Chúa Trời sẽ được chính Đức Chúa Trời ban quyền năng để họ có khả năng hòa tan mình trong mối quan hệ dấn thân, hy sinh cho tha nhân hầu cho ngày càng có nhiều người biết sống cảm tạ Đức Chúa Trời hơn: “7Nhưng chúng tôi đựng của quí nầy trong chậu bằng đất, hầu cho tỏ quyền phép lớn dường ấy là bởi Đức Chúa Trời mà ra, chớ chẳng phải bởi chúng tôi... 11Bởi chúng tôi là kẻ sống, vì cớ Đức Chúa Jêsus mà hằng bị nộp cho sự chết, hầu cho sự sống của Đức Chúa Jêsus cũng được tỏ ra trong xác thịt hay chết của chúng tôi; 12vậy thì sự chết làm trong chúng tôi, còn sự sống trong anh em... 15Bởi chưng mọi điều đó xảy đến vì cớ anh em, hầu cho ân điển rải ra cách dư dật, khiến sự tạ ơn nơi nhiều người hơn cũng dư dật, mà thêm vinh hiển cho Đức Chúa Trời.” (2Cô. 4:7, 11-12, 15) III. ĐỂ SỐNG CẢM TẠ ĐỨC CHÚA TRỜI Hãy nhìn thẳng vào các tác dụng của lòng cảm tạ Đức Chúa Trời để nhận ra phần nào lẽ mầu nhiệm của đức nhân từ của Đức Chúa Trời chúng ta. Tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời giúp thăng tiến niềm vui thỏa trong Ngài của chúng ta, tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời giúp thăng tiến hiệu quả làm chứng về Ngài của đời sống chúng ta, và tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời giúp thăng tiến mối quan hệ của chúng ta đối với Ngài cũng như đối với tha nhân. Thiện thay là Đức Chúa Trời của chúng ta! Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết sống cảm tạ Ngài để chúng ta có Ngài, và vì thế mà chúng ta sẽ có đủ tất cả mọi sự: “Sư tử tơ bị thiếu kém, và đói;_Nhưng người nào tìm cầu Đức Giêhôva sẽ chẳng thiếu của tốt gì.” (Thi. 34:10) Lòng cảm tạ Đức Chúa Trời chỉ hình thành và thể hiện trong đời sống Cơ Đốc Nhân nhờ quyền năng Đức Thánh Linh với sự tham dự hoàn toàn của cả thân_hồn_thần của họ: “12Về phần chúng ta, chúng ta chẳng nhận lấy thần thế gian, nhưng đã nhận lấy Thánh Linh từ Đức Chúa Trời đến, hầu được hiểu biết những ơn mà chúng ta nhận lãnh bởi Đức Chúa Trời; 13chúng ta nói về ơn đó, không cậy lời nói mà sự khôn ngoan của loài người đã dạy đâu, song cậy sự khôn ngoan mà Đức Thánh Linh đã dạy, dùng tiếng thiêng liêng để giãi bày sự thiêng liêng.” (1Cô. 2:12-13, Sv. 1Cô. 12:3) “Chúng ta hãy lấy lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong, mà đến gần Chúa” (Hê. 10:22) Trước nhất, người ta chỉ có thể cảm tạ Đức Chúa Trời được khi lý trí họ nhận thức được rằng đó là một điều phải làm chứ không phải là để chọn: “Phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy.” (1Tê. 5:18) Thứ hai, trên phương diện ý chí, người ta chỉ có thể có đời sống cảm tạ khi họ thực sự có một ý chí thực hành sống cảm tạ. Để thực hành đời sống cảm tạ, người ta phải chừa bỏ thói quen lo lắng và than phiền: “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời.” (Phil. 4:6) Đồng thời với việc chừa bỏ sự lo lắng và sự than phiền, người ta cũng phải tập thành thói quen luôn luôn cảm tạ Đức Chúa Trời: “19Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa. 20Hãy thường thường nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, vì mọi sự tạ ơn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta.” (Êph. 5:19-20) Thứ ba, để sống cảm tạ, chỉ có lý trí và ý chí dự phần vẫn chưa đủ. Lý trí và ý chí cần được nuôi dưỡng bằng một loại đức tin xác tín đến độ đã biến thành tình cảm đối với Đức Chúa Trời vì biết rằng Ngài yêu ai thì yêu đến cùng và có chương trình tốt đẹp cho họ: “38Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, 39bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Đức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta.” (Rô. 8:38-39) Lòng cảm tạ Đức Chúa Trời trong đời sống Cơ Đốc Nhân không phải là việc làm của Cơ Đốc Nhân vì việc làm của Đức Chúa Trời! Cơ Đốc Nhân sống cảm tạ Đức Chúa Trời theo phận sự tôn vinh hiển Ngài của mình. Một khi Cơ Đốc Nhân biết sống cảm tạ Đức Chúa Trời như một phận sự Cơ Đốc, đời sống Cơ Đốc của Cơ Đốc Nhân sẽ được thăng tiến trên nhiều phương diện khác nhau dẫn đến việc thăng tiến cho sự sống đời đời của chính họ. Lòng cảm tạ Đức Chúa Trời trong đời sống Cơ Đốc Nhân là hình thức biểu hiện của mối quan hệ mật thiết giữa Cơ Đốc Nhân với Đức Chúa Trời. Mối quan hệ mật thiết ấy là kết quả của quyền năng Đức Thánh Linh cùng với sự dự phần tự giác, tích cực của cả thân_hồn_thần của Cơ Đốc Nhân. Đức Chúa Trời là Đấng tối thiện tối nhân, chính Ngài đã chẳng những đòi hỏi mà còn cho phép Cơ Đốc Nhân có thể sống cảm tạ Ngài trong quyền năng Đức Thánh Linh… “Hãy cảm tạ Đức Giêhôva, vì Ngài là thiện;_Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“ĐỪNG XEM THƯỜNG TỘI LỖI” (Ru. 1:1-5) “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết…” (Rô. 6:23) Trong khắp đại dương mênh mông có biết bao con tàu đã bị đắm, nhưng không có một con tàu đắm nào gây được nhiều chú ý như con tàu Titanic. Titanic đã chìm ngay ở chuyến hải hành đầu tiên của mình vào tháng Tư năm 1912 và giả thuyết về nguyên nhân được người ta tin nhiều nhất là một băng sơn đã làm cho con tàu dài gần 300 mét này đã bị một vết cắt rộng và dài hơn 90 mét dọc sườn tàu. Năm 1985, xác con tàu đắm đã được tìm ra ở độ sâu khoảng 2.200 mét dưới mặt biển ở gần Newfoundland. Từ dạo ấy, các bí ẩn về con tàu đắm này đã được bày tỏ dần dần. Tháng Tám năm 1995, một nhóm các khoa học gia và kỹ thuật gia quốc tế được thành lập để tiếp tục nghiên cứu về con tàu đắm. Phần con tàu bị thương bị vùi lấp dưới bùn của đáy biển nên các nhà nghiên cứu đã phải dùng sóng siêu âm thăm dò để xác định vết thương. Kết quả thu được làm cho ai nấy đều phải ngạc nhiên. Vết thương của con tàu không lớn như trước đây người ta vẫn tưởng. Tổng diện tích bị thủng của con tàu chỉ chừng mười mấy mét vuông mà thôi. Sáu lổ thủng bên sườn tàu đã đánh chìm con tàu mà người ta huênh hoang rằng “Trời cũng không làm cho nó chìm được”. Trong đời sống theo Chúa, nhiều khi chúng ta cứ tưởng rằng chỉ cần tránh những tội lỗi “lớn’ là được rồi; thật ra, tội lỗi ở mọi kích thước đều có thể khiến cho đời sống thuộc linh của chúng ta chìm đắm. Không phải tất cả những người phạm tội trọng đều đã bắt đầu với những ý đồ lớn. Hầu hết đều khởi sự từ những ý tưởng nho nhỏ, tưởng chừng như vô hại, nhưng rồi đã dần dần trượt dài trong tội lỗi, không sao gỡ mình ra được. Những lời đầu tiên của Sách Rutơ cho chúng ta thấy Êlimêléc đã làm một điều mà ngày nay nhiều Cơ Đốc Nhân vẫn thường làm: Chỉ định “tạm thời” thỏa hiệp với tội lỗi mà thôi, nhưng rồi đã phải trả một giá quá đắc! I. ÊLIMÊLÉC ĐẾN VỚI MÔÁP Lỗi đầu tiên mà Êlimêléc đã phạm là viện lý do để “Đến kiều ngụ trong xứ Môáp”. Êlimêléc đã lập luận để tự thuyết phục mình và thuyyết phục người khác rằng việc chung chạ của mình trong Môáp là phải lẽ: Ysơraên đang thiếu lương thực, Môáp đang có sẵn lương thực, đem cả gia đình vào trong xứ Môáp là đến với sự no đủ, đi làm ăn thì có sao đâu… Thế nhưng: “Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời” (Ma. 4:4). Đừng để cho sự đói khát trong lòng làm điếng mất sự đói khát của linh hồn đối với sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời. Việc sống “Nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời” phải mang tính thứ nhất, mọi quyết định khác đều phải tùy thuộc vào đó. Người Môáp là hậu duệ của con trai Lót. Người Môáp vốn nổi tiếng về sự kiêu ngạo của họ: “Môáp kiêu ngạo vô chừng, sự xấc xược, sự cậy mình, sự khoe khoang của lòng kiêu căng nó, chúng ta đều nghe cả” (Giê. 48:29). Người Môáp không được cho phép được thờ phượng với người Ysơraên: “3Dân Amôn và dân Môáp sẽ không được phép vào Hội Đức Giêhôva, dầu đến đời thứ mười cũng chẳng hề bao giờ vào được; 4bởi vì khi các ngươi ra khỏi xứ Êdíptô, chúng nó không đem bánh và nước ra rước các ngươi trên đường, và bởi vì chúng nó có mướn Balaam, con trai Bêô, ở Phêthôrơ tại Mêsôbôtami đi đến rủa sả ngươi” (Phục. 23:3-4). Theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời, người Ysơraên không được phép có bất cứ quan hệ nào với người Môáp cả. Vậy mà chỉ vì thiếu bánh thuộc thể, Êlimêléc đã làm ngơ sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời, đã thỏa hiệp với người Môáp bằng một nước đi hết sức mạo hiểm: Đem hết cả gia đình mình vào hẳn trong xứ Môáp để sống! Có lẽ Êlimêléc nghĩ rằng “Chỉ thỏa hiệp tạm thời một giai đoạn thì đâu có sao!”. Ngày nay vẫn còn nhiều Cơ Đốc Nhân có cách nghĩ tương tự: “Nói dối vô hại thì có sao đâu!”, “Công việc làm ăn thì có ảnh hưởng gì đến đức tin đâu!”, “Chỉ giao lưu, thông công thôi mà; có gì đâu!”, “Chỉ vui một chút thôi mà!”,… Thực chất, tất cả những cách lập luận như thế là nổ lực để phạm tội. Nguyên tắc hành động của Cơ Đốc Nhân là vâng theo lời dạy của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh. Nếu biết lý luận và lý luận giỏi, hoặc nếu cần lý luận, phải lý luận sao cho tính chất vâng lời Đức Chúa Trời của đời sống mình được phát huy cao nhất. Trong tất cả mọi sự, khi nào thấy sự suy luận của tâm trí không thể hiện được tính chất vâng lời Đức Chúa Trời của linh hồn, khá nhận biết rằng có khả năng phạm tội trong một sự suy luận như thế. Cách đặt vấn đề sai sẽ khiến cho sự hành động cũng sẽ sai… II. ÊLIMÊLÉC CHUNG CHẠ VỚI MÔÁP Êlimêléc chỉ định đem gia đình đến Môáp “kiều ngụ” một thời gian ngắn cho qua nạn đói mà thôi. Thế nhưng, khi vào trong Môáp rồi, họ “bèn ở tại đó”: “1Trong đời các quan xét, một cơn đói kém xảy đến trong xứ, có một người từ Bếtlêhem xứ Giuđa, đi với vợ và hai con trai mình đến kiều ngụ trong xứ Môáp. 2Người tên là Êlimêléc, vợ tên là Naômi, hai con trai tên là Mạclôn và Kiliôn, đều là dân Ơphơrát về Bếtlêhem trong xứ Giuđa. Đến xứ Môáp, chúng bèn ở tại đó” (Ru. 1:1-2). Nếu chúng ta gặp Êlimêléc trước khi đưa gia đình ra đi và hỏi ông ấy rằng liệu ông có định ở luôn tại đó hay không thì chắc chắn Êlimêléc sẽ trả lời rằng “Không bao giờ có chuyện ấy!”. Thế nhưng, “Đến xứ Môáp, chúng bèn ở tại đó”! Vậy là, ban đầu dự định chỉ ở tạm một thời gian để làm ăn nhưng rồi việc xảy ra là họ đã quyết định định cư luôn trong Môáp. Ngày mà họ đưa ra quyết định ấy quả thật là một ngày đáng buồn. Có biết bao người ghiền rượu đã từng thề bán mạng rằng họ sẽ chẳng bao giờ để cho mình phải ghiền; và có biết bao người ghiền rượu cứ quả quyết là họ có thể từ bỏ nó bất cứ lúc nào! Chúng ta có thể tin được rằng Êlimêléc đã không hề có ý định ở lại Môáp. Nhưng sự thật là Êlimêléc đã để cho cả gia đình ở luôn tại đó mà không hề định trước. Không phải là Êlimêléc không biết rằng mình chẳng được phép ở với Môáp, vấn đề ở chỗ Êlimêléc không cảnh giác đối với các yếu tố khiến dần dần đưa mình vào sự vi phạm. Êlimêléc tưởng rằng mọi sự đều ở trong tầm tay của mình, nhưng Lời Kinh Thánh vẽ cho chúng ta thấy một bức tranh hoàn toàn khác: “3Êlimêléc, chồng của Naômi, qua đời, để nàng lại với hai con trai mình. 4Chúng nó cưới vợ trong người nữ Môáp, người nầy tên là Ọtba, người kia tên là Rutơ; họ ở tại đó độ mười năm” (Ru. 1:3-4). Trên bước đường theo Chúa, có khá nhiều người có cách khởi sự giống với Êlimêléc. Ban đầu, họ chỉ làm theo cái gì đó một ít, rất ít mà thôi. Thế nhưng, với một ít chỗ này, một ít chỗ kia,… chẳng mấy chốc, khi nhìn lại, chúng ta thấy họ đã nhiễm phải rất nhiều mồi, bã tinh vi của Satan đến độ chính họ không thể nhận ra được. Những ai tưởng rằng hễ cứ là “Hội Thánh” thì đâu cũng tốt, gì cũng tốt, và thế nào cũng tốt - không sớm thì muộn - sẽ trở thành những Êlimêléc mà không biết. Paul Little nói rằng “Sự sụp đổ của đời sống Cơ Đốc ít khi diễn ra như những vụ nổ lốp xe; sự sụp đổ của đời sống Cơ Đốc thường xảy ra theo cách lốp xe bị xì hơi từ từ”. Đó là sự thật. Satan sẽ không làm cho các con cái của Chúa phạm tội thật lớn ngay lần đầu tiên, Satan luôn đưa người ta trượt dần từng chút một trong tội lỗi qua những việc tưởng chừng như vô hại! Nhiều người - khi họ được nhắc nhở, cảnh báo về nguy cơ - đã tỏ ra bực bội: “Như thế này thì sai ở chỗ nào?”. Giống với một chiếc lốp xe bị xì hơi từ từ, họ không hề biết rằng đời sống của họ cuối cùng sẽ không còn có ích cho Đức Chúa Trời và Vương Quốc của Ngài nữa. Vào tháng Mười Một năm 2000, có một phụ nữ nhận được một thư điện tử trên máy vi tính của mình. Tiêu đề của thư rất hấp dẫn: “Anh yêu Em!”. Quả thật là một bức thư rất đáng nên đọc vì trông thật hiền hòa và trữ tình. Người phụ nữ ấy đã bấm chuột để mở thư, và thế là “Con Rệp Tình Yêu” ra đời (“Love Bug”, tên một loại virút máy vi tính rất lợi hại). Với tốc độ của dòng điện, loại virút này đã lan ra khắp thế giới khiến tê liệt nhiều sinh hoạt kinh tế, chính trị, xã hội,… lúc ấy. Đó chính là một loại virút máy vi tính đã gây thiệt hại cho hàng triệu máy vi tính, phá hỏng vô số phần mềm máy vi tính trên thế giới. Bắt đầu chỉ với một cái thư điện tử nhỏ mà thôi, nhưng sự ô nhiễm sau đó lớn vô cùng. Thế nhưng đó không phải là lần đầu tiên virút làm hại nhân loại. Thật ra, đó chỉ là biến tướng của một loại virút chết người đã xuất hiện trước đây hơn sáu ngàn năm, tấn công vào Ađam và Êva là hai người đầu tiên trên hành tinh này. Họ đã không vâng lời Đức Chúa Trời phán truyền rằng chớ kích hoạt vào thông điệp của Satan gửi đến. Họ đã mở thư mời của Satan và rồi hậu quả kinh hoàng đã giáng trên số phận của họ và cả dòng dõi nhân loại. Chính loại virút mang tên “Tội Lỗi” ấy đã sinh ra mọi loại virút ác hại cho đến ngày nay. Có một bài hát có lời rằng “Tội lỗi sẽ đem bạn đi xa hơn nơi bạn muốn, sẽ giữ bạn ở lại lâu hơn bạn định, và bắt bạn phải trả giá cao hơn bạn tưởng”; quả thật là chí lí! Tội lỗi chứa đầy những yếu tố bất ngờ, điều duy nhất không hề bất ngờ trong vấn đề tội lỗi là nó luôn luôn có hậu quả xấu! Tội lỗi của Êlimêléc đã khiến ông đi xa hơn giới hạn mong muốn, giữ ông ở lại với nó lâu hơn dự định, và chúng ta sẽ còn thấy nó bắt trả giá đắt hơn ông tưởng rất nhiều. III. ÊLIMÊLÉC MẤT MẠNG TRONG MÔÁP Êlimêléc đã phải trả một giá đắc cho tội lỗi của mình: “3Êlimêléc, chồng của Naômi, qua đời, để nàng lại với hai con trai mình…5Kế sau, Mạclôn với Kiliôn cũng thác, để Naômi ở lại, không chồng không con” (Ru. 1:3, 5). Êlimêléc là thành viên đầu tiên của gia đình chết tại một nơi mà họ tưởng rằng sẽ nuôi họ sống và họ sẽ được trở về bình an. Êlimêléc đã lập luận cho tội lỗi, đã nán lại trong tội lỗi, thì làm sao khỏi phải trả giá cho tội lỗi được? Chúng ta không ngạc nhiên về cái giá mà Êlimêléc phải trả, ông đã phải trả giá cho tội lỗi của mình theo như Lời Kinh Thánh đã phán: “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết…” (Rô. 6:23). Tuy nhiên, sự chết chẳng phải là món “tiền công” duy nhất mà gia đình Êlimêléc đã phải trả. Trước khi chết, các con trai của Êlimêléc đã chung chạ với những người nữ ngoại Do Thái. Theo Luật Pháp Môise, người Ysơraên không được kết hôn với người khác chủng tộc với mình. Chẳng những thế, người Môáp là một dân cá biệt. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời nghịch cùng người Môáp. Vì quyết định sai trật của Êlimêléc, các con của ông đã phải kết hôn ngược lại với ý chỉ của Đức Chúa Trời. Tình cảnh của Naômi, vợ của Êlimêléc, cũng rất thảm hại: Không chồng, không con nơi đất khách quê người… Từ quyết định sai của chồng, Naômi cuối cùng sống trong tâm trạng cay đắng, mất phương hướng, ngộ nhận Đức Chúa Trời: “… 20Các ngưới nữ hỏi rằng: Ấy có phải Naômi chăng? 20Người đáp: Chớ gọi tôi là Naômi, hãy gọi là Mara, vì Đấng Toàn Năng đã đãi tôi cách cay đắng lắm” (Ru. 1: 19b-20). Lạc bước tất phải sẩy chân, sẩy chân tất phải mất mạng. Thỏa hiệp với tội lỗi thì tất phải đắm chìm trong tội lỗi và việc phải nhận tiền công của tội lỗi chỉ còn là vấn đề thời gian. Êlimêléc có nghĩa là “Đức Chúa Trời tôi là Vua” nhưng Êlimêléc đã không để cho Đức Chúa Trời làm vua trên đời sống mình. Bếtlêhem nghĩa là “Nhà bánh” nhưng Êlimêléc sống theo mắt nhìn của mình, không thấy được sự dự ứng của Đức Chúa Trời, sợ thiếu bánh ngay trong “nhà bánh”. Sai trật chồng chất trên sai trật, tên gọi Naômi có nghĩa là “Ngọt dịu” nhưng lại chỉ thấy toàn “Cay đắng” (Mara) trong đời. Con người chọn lựa sai mà lại tưởng rằng Đức Chúa Trời ngược đãi, chìu theo mắt thấy của mình nhưng lại muốn Đức Chúa Trời phải chịu trách nhiệm: “13Chớ có ai đương bị cám dỗ mà nói rằng: Ấy là Đức Chúa Trời cám dỗ tôi; vì Đức Chúa Trời chẳng bị sự ác nào cám dỗ được, và chính Ngài cũng không cám dỗ ai. 14Nhưng mỗi người bị cám dỗ khi mắc tư dục xui giục mình. 15Đoạn lòng tư dục cưu mang, sanh ra tội ác; tội ác đã trọn, sanh ra sự chết” (Gia. 1:13-15). Rowland Hill đưa ra một câu chuyện minh họa có ý nghĩa thật súc tích kể về một người đồ tễ rất tài tình. Hàng ngày, người đồ tễ này không phải vất vả gì cả mà vẫn khiến cho những con lợn sắp bị giết thịt tự động theo ông tuần tự đi đến tận bàn mổ! Người đồ tễ thật ung dung, cứ chậm rãi đi trước, con lợn sắp bị giết chăm chú bám sát theo sau; điều duy nhất khiến cho người ta chú ý nơi người đồ tễ là ông có cái bao gì đó mang trên vai mình… Thì ra người đồ tễ này đã cho lợn ngửi biết trong bao có thức ăn ngon, thế là nó cứ mãi miết đi theo cho đến tận nơi bị hành hình! Quả thật là “Tham thực, cực thân”… Theo cùng một cách tương tự, những người không kính sợ Đức Chúa Trời cứ thế mà đi theo Satan vào tận Hồ Lửa đời đời! Chính bằng “Sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời” (1Gi. 2:16) mà Satan đã làm đắm chìm biết bao số phận. Tuy nhiên, dầu rằng “Tiền công của tội lỗi là sự chết” nhưng không phải là không có giải pháp vì “Sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta”. Hãy quay lại với Đức Chúa Trời, đừng nán trễ trong thế gian cùng những sự thuộc về thế gian, vì “Thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (1Gi. 2:17). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“ĐỨC TIN VÀ TÌNH YÊU THƯƠNG CƠ ĐỐC TRONG HỘI THÁNH” (Philm. 1:4-7) “Tôi cầu xin Ngài rằng đức tin đó, là đức tin chung cho chúng ta, được có hiệu nghiệm, khiến người ta biết ấy là vì Đấng Christ mà mọi điều lành được làm trong chúng ta.” (Philm. 1:4-7) “Sự yêu thương”, “Sự tha thứ”, “Đức tin”,… đối với một số nhà khoa học chỉ là những phạm trù xã hội học, là sản phẩm của tâm lý_thần kinh cấp cao của con người. Đối với khá nhiều người, các phạm trù này có quá nhiều yếu tố “phi tự nhiên” không thuận lợi cho việc thực hành trong đời sống xã hội. Tuy vậy, từ xã hội nguyên thủy cho đến xã hội hiện đại, không có ai là không biết yêu thương, không có ai là không phải thực hiện sự tha thứ, và cũng không có ai là không phải tin vào một điều gì đó không hoàn toàn dựa trên sự kiến giải của lý trí. Ngược lại, đối với những người đã được cứu trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời, Đức Tin và Tình Yêu Thương là những thực tại sinh động đã từng có trong thời kỳ Hội Thánh ban đầu và ngày nay vẫn còn đang được thể hiện mạnh mẽ. Đức Tin và Tình Yêu Thương Cơ Đốc là những thực tại siêu nhiên có xuất phát điểm từ Đức Chúa Trời, có phạm vi đề cập trong Đức Chúa Trời, và có đích điểm ở Đức Chúa Trời qua cuộc sống đời thường của những con người đã thực sự tin nhận Chúa Cứu Thế Jêsus làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình. Philêmôn là một con người như thế. I. SỰ CẢM TẠ ĐỐI VỚI “ĐỨC CHÚA TRỜI” (C. 4) “Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời tôi, hằng ghi nhớ anh trong lời cầu nguyện” Nói về Philêmôn, lời đầu tiên của Phaolô là lời cảm tạ Chúa. Phaolô muốn cho Philêmôn biết rằng ông thường xuyên nhắc đến tên của mình trong khi cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Cảm tạ trong khi cầu nguyện là một việc làm thường lệ của Phaolô. Đối với Sứ Đồ Phaolô, sự cảm tạ hòa quyện vào trong sự cầu nguyện hàng ngày của ông, kể cả khi ở trong tù: - “Trước hết, tôi nhờ Đức Chúa Jêsus Christ, vì hết thảy anh em mà tạ ơn Đức Chúa Trời tôi về đức tin anh em đã đồn ra khắp cả thế gian” (Rô. 1:8). - “Tôi hằng vì anh em tạ ơn Đức Chúa Trời, bởi cớ anh em đã được Đức Chúa Trời ban ơn trong Đức Chúa Jêsus Christ” (1Cô. 1:4). - “Mỗi khi tôi nhớ đến anh em, thì cảm tạ Đức Chúa Trời tôi” (Phil. 1:3). - “Trong khi chúng tôi cầu nguyện cho anh em không thôi, thì cảm tạ Đức Chúa Trời, là Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta” (Côl. 1:3). Những lời chứng về việc lành của người công bình là một điều cần thiết; dầu vậy, Đức Chúa Trời phải được cảm tạ trước tiên vì Ngài là tác giả thực sự của những phẩm hạnh, đức độ cao quí ấy: “Chúng ta lại còn khoe mình trong Đức Chúa Trời bởi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta” (Rô. 5:11). Ý muốn của Đức Chúa Trời là “23Người khôn chớ khoe sự khôn mình; người mạnh chớ khoe sự mạnh mình; người giàu chớ khoe sự giàu mình; 24nhưng kẻ nào khoe, hãy khoe về trí khôn mình biết Ta là Đức Giêhôva, là Đấng làm ra sự thương xót, chánh trực, và công bình trên đất; vì Ta ưa thích những sự ấy, Đức Giêhôva phán vậy” (Giê. 9:23-24). Sứ Đồ Phaolô luôn có niềm vui trong sự cầu nguyện không thôi cho bầy chiên của mình, trong số ấy có cả Philêmôn. Có một số lẽ thật trong nguyên nhân khiến Phaolô cầu nguyện cho Philêmôn. II. ĐỨC TIN “TRONG ĐỨC CHÚA JÊSUS” (C. 5) “Vì nghe nói anh có lòng yêu thương và đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ và cùng các thánh đồ” Sứ Đồ Phaolô có cơ sở khi cầu nguyện cảm tạ về Philêmôn. Vị Sứ Đồ này cho biết có hai điều khích lệ ông không ngừng cầu nguyện cho Philêmôn. Trước tiên, ấy là vì đức tin của Philêmôn. Trong Philm. 1:5, Sứ Đồ Phaolô xác nhận rằng ông thường xuyên cầu nguyện cho “đức tin trong Đức Chúa Jêsus” của Philêmôn. Từ liệu Hy Lạp được sử dụng ở đây cho động từ “nghe” (Gk. akouo) diễn đạt một hành động liên tục. Như vậy chúng ta biết được rằng những gì Phaolô nghe đã được cập nhật và cập nhật từ nhiều nguồn đáng tin khác nhau. Phaolô có một sự quan tâm trước sau như một đối với Philêmôn vì Philêmôn chính là một trong những người đã trở lại với Chúa qua chức vụ của Phaolô (C. 19), có lẽ là tại Hội Thánh Êphêsô khoảng hai năm trước đó. Sự việc rằng Philêmôn là một người đã thực sự trở lại với Chúa Cứu Thế Jêsus là một điểm quan trọng. Sứ Đồ Phaolô cũng đã từng nhắc chúng ta về điều ấy (“Chính anh em hãy tự xét để xem mình có đức tin chăng…”, 2Cô. 13:5). Chúng ta cần phải biết chắc rằng mình đã thực sự tin nhận Ngài, nhiên hậu, chúng ta mới tiếp tục trưởng thành theo mẫu mực của Ngài được: (1) Đã trở lại với Chúa, tức là một Cơ Đốc Nhân, Philêmôn mới kinh nghiệm được tình yêu thương và sự tha thứ của Đức Chúa Trời. (2) Nhờ đó, Philêmôn có được khả năng tin cậy và yêu thương đã nhận lãnh từ Đức Chúa Trời qua Chúa Cứu Thế Jêsus. Trong trường hợp của Philêmôn, chúng ta suy nghĩ như thế là hợp luận lý, vì Lời Chúa phán như thế này: - “Ấy chính Ta, là Đấng vì mình Ta mà xóa sự phạm tội ngươi; Ta sẽ không nhớ đến tội lỗi ngươi nữa” (Ês. 43:25). - “Hãy ăn ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy” (Êph. 4:32). Đức Tin và Tình Yêu Thương dầu phân biệt với nhau nhưng không bao giờ tồn tại biệt lập. Đức Tin luôn được thể hiện bằng Tình Yêu Thương qua việc làm; trái lại, Tình Yêu Thương chân thực chỉ xuất phát từ Đức Tin mà thôi. Chính vì yếu tố ấy mà Tình Yêu Thương lạ lùng của các Cơ Đốc Nhân là một điều khiến cho người đời phải kinh ngạc. Có một sinh viên thần học tại Thần Học Viện Trinity ở Chicago muốn tìm một việc gì đó để phục vụ cho cộng đồng trong thời gian học ở đây. Việc duy nhất mà người này tìm được là lái xe bus ở khu Nam của thành phố. Một ngày kia, có một nhóm thanh thiếu niên hư hỏng lên xe, nhưng không chịu mua vé. Vì nhóm người này cứ làm như thế luôn mấy hôm liền, anh sinh viên ấy đã phải báo cảnh sát. Cảnh sát buộc họ phải mua vé, nhưng khi cảnh sát đi rồi, nhóm người ấy đã đánh cho anh sinh viên một trận tơi bời! Nhóm người trẻ này đã bị bắt, phải ra Tòa, và bị kết án tù. Thế nhưng khi Tòa tuyên án mới vừa xong, anh sinh viên thần học đã làm cho cả phiên tòa phải sửng sốt: Anh nhận ra được tình trạng thuộc linh đáng thương của họ nên xin Tòa hãy để cho anh chịu án thay. Lý lẽ anh sinh viên này đưa ra là như thế này: “Vì Đức Chúa Jêsus đã chịu án thay cho tôi còn nhiều hơn thế, xin hãy cho phép tôi chịu án thay cho họ!”. Tất nhiên là Tòa không chấp nhận sự thỉnh cầu của anh sinh viên; thế nhưng sau đó, nhờ bền lòng thăm viếng, làm chứng cho những người tù ấy, đã có mấy người trong số những người này trở lại với Chúa. Có lần Martin Lloyd Jones đã nói như thế này: “Tôi xin nói hết sức thực lòng rằng cứ mỗi khi suy nghĩ về những điều Chúa đã làm trên đời sống tôi, tôi có thể tha thứ cho bất cứ ai về bất cứ việc gì”. III. TÌNH YÊU THƯƠNG “CÙNG CÁC THÁNH ĐỒ” (C. 5-7) “Tôi cầu xin Ngài rằng đức tin đó, là đức tin chung cho chúng ta, được có hiệu nghiệm, khiến người ta biết ấy là vì Đấng Christ mà mọi điều lành được làm trong chúng ta” Một nét tính cách khác của Philêmôn khiến cho Sứ Đồ Phaolô cảm tạ Đức Chúa Trời là Tình Yêu Thương của Philêmôn. Tình yêu duy nhất thực sự cao thượng là Tình Yêu Thiên Thượng. Khi nào người ta còn đứng trên mặt bằng con người để ban phát tình yêu thương cho người khác, tình yêu ấy vẫn còn mang bản chất thế gian và còn có khuyết tật theo những khuyết tật cố hữu của bản chất người đã bị hư hoại. Chỉ khi nào tình yêu cao sâu của Cứu Chúa đầy dẫy và tuôn chảy qua đời sống thì tình yêu của người ta mới thực sự cao thượng được. Để nói về Tình Yêu Thương, Sứ Đồ Phaolô có thể chọn sử dụng một vài từ liệu khác nhau: (1) “Phileo”: Nói về tình yêu thương với sự quan tâm theo cảm xúc. (2) “Stego”: Nói về tình yêu thương với tính chất che chở, nâng đỡ. (3) “Agape”: Nói về tình yêu theo sự chọn lựa của ý chí, bằng sự hạ mình và hy sinh bản thân. Tất nhiên rằng Tình Yêu Thương Cơ Đốc mang tính chất quan tâm theo cảm xúc, nhưng đó chưa phải là bản chất, vì thế Sứ Đồ Phaolô không dùng từ liệu “phileo”. Vẫn biết rằng Tình Yêu Thương Cơ Đốc nhằm mục đích nâng đỡ, che chở, phục vụ,…; nhưng đó cũng chưa phải là bản chất, vì thế Sứ Đồ Phaolô cũng không sử dụng từ liệu “stego” ở đây. Theo J. I. Packer, “Ý nghĩa của Tình Yêu Thương Cơ Đốc được trực tiếp rút ra từ sự khải thị của Đức Chúa Trời trong và qua Chúa Cứu Thế Jêsus. Dầu rằng rất mãnh liệt, nhưng Tình Yêu Thương Cơ Đốc không phải là một dạng cảm xúc thiên nhiên của con người, mà là bông trái của Đức Thánh Linh trong đời sống của người tin (“Trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ”, Gal. 5:22-23). Tình Yêu Thương Cơ Đốc là một thực tại của ý chí hơn là của xúc cảm, vì Cơ Đốc Nhân phải yêu cả những người mình không thích nữa (“Hãy yêu kẻ thù nghịch và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi”, “Các ngươi hãy nên trọn vẹn như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn”, Ma. 5:44, 48)”. Tình Yêu Thương Cơ Đốc là yếu tố căn bản để trở nên giống với Chúa Cứu Thế Jêsus. Chính vì vậy, Sứ Đồ Phaolô, dưới sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh, đã sử dụng từ liệu “agape” để nói về Tình Yêu Thương Cơ Đốc trong đoạn Kinh Thánh này. Tình Yêu Thương Cơ Đốc đã được Sứ Đồ Phaolô mô tả rõ hơn trong 1Cô. 13:4-8 như sau: “4Tình yêu thương hay nhịn nhục; tình yêu thương hay nhân từ; tình yêu thương chẳng ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo, 5chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ, 6chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật. 7Tình yêu thương hay dung thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, nín chịu mọi sự. 8Tình yêu thương chẳng hề hư mất bao giờ…” Sứ Đồ Phaolô được nghe nói về “agape” của Philêmôn “cùng các thánh đồ”, tức là đối với tất cả các anh em, chị em trong Chúa, nhất là những người nhóm lại trong nhà của Philêmôn. Điều đó là chắc chắn, Sứ Đồ Phaolô khẳng định: “Hỡi anh, tôi đã được vui mừng yên ủi lắm bởi lòng yêu thương của anh, vì nhờ anh mà lòng các thánh đồ được yên ủi” (C. 7). Một khi Philêmôn có được “agape” đối với tất cả các thánh đồ: (1) Philêmôn không còn bận tâm đến hoàn cảnh xuất thân hay hành vi quá khứ của anh em, chị em mình; (2) Tình Yêu Thương của Philêmôn không còn có điều kiện nào nữa cả; nhờ đó, nó cũng không còn bị giới hạn; (3) Như vậy, tình yêu thương của Philêmôn có khả năng trải rộng đến tất cả mọi người, kể cả người đầy tớ đã bỏ trốn mà Sứ Đồ Phaolô khuyên Philêmôn hãy tiếp nhận lại trong bức thư này. Đó chính là Tình Yêu Thương mà Hội Thánh của Đức Chúa Trời ngày nay cần phải có. Tình Yêu Thương Cơ Đốc được sản sinh từ niềm tin Cơ Đốc không phải chỉ để làm nhãn hiệu mà phải có tác dụng thực hành, hay theo cách nói của Sứ Đồ Phaolô là “có hiệu nghiệm”: “Tôi cầu xin Ngài rằng đức tin đó, là đức tin chung cho chúng ta, được có hiệu nghiệm, khiến người ta biết ấy là vì Đấng Christ mà mọi điều lành được làm trong chúng ta” (C. 6). Niềm tin Cơ Đốc là niềm tin thực hành: Nhận lãnh thực hành và ban cho cũng thực hành (“Hãy chữa lành kẻ đau, khiến sống kẻ chết, làm sạch kẻ phung, và trừ các quỉ. Các ngươi đã được lãnh không thì hãy cho không”, Ma. 8:10): “14Hỡi anh em, nếu ai nói mình có đức tin, song không có việc làm, thì ích chi chăng? Đức tin đó cứu người ấy được chăng? 15Ví thử có người anh em hoặc chị em nào không quần áo mặc, thiếu của ăn uống hàng ngày, 16mà một kẻ trong anh em nói với họ rằng: Hãy đi cho bình an, hãy sưởi cho ấm và ăn cho no, nhưng không cho họ đồ cần dùng về phần xác, thì có ích gì chăng? 17Về đức tin, cũng một lẽ ấy; nếu đức tin không sanh ra việc làm, thì tự mình nó chết” (Gia. 2:14-17). Những việc lành trong Hội Thánh cần phải được kể ra để làm sáng danh Đức Chúa Trời và giúp cho người đời có thiện cảm với Đạo Tin Lành. Dầu vậy, những lời chứng như thế phải có cơ sở thực tế và nhằm mục đích tạ ơn Đức Chúa Trời là Đấng đã làm tất cả mọi sự tốt đẹp trong chúng ta và qua chúng ta nhờ ơn Đức Chúa Jêsus. Việc lành trong đời sống Cơ Đốc chỉ thực sự là việc lành đẹp ý Đức Chúa Trời nếu được sản sinh nhờ đức tin, và là bông trái của Tình Yêu Thương Cơ Đốc, vì đời sống Cơ Đốc là đời sống thực hành đức tin. Một khi Hội Thánh có được các dấu hiệu của Tình Yêu Thương Cơ Đốc, Hội Thánh sẽ được phát triển vì “Hội Thánh biết yêu thương sẽ phát triển, và chỉ có Hội Thánh phát triển mới biết yêu thương” (Rick Warren). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |