“SỐNG THỜ PHƯỢNG BẰNG ĐỜI SỐNG TÁCH LY” (Côl. 3:1-4; Sv. Rô. 6:1-11) “1Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. 2Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất; 3vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời. 4Khi nào Đấng Christ, là sự sống của anh em, sẽ hiện ra, bấy giờ anh em cũng sẽ hiện ra với Ngài trong sự vinh hiển” (Côl. 3:1-4; Sv. Rô. 6:1-11) I. KINH THÁNH “1Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. 2Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất; 3vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời. 4Khi nào Đấng Christ, là sự sống của anh em, sẽ hiện ra, bấy giờ anh em cũng sẽ hiện ra với Ngài trong sự vinh hiển” (Côl. 3:1-4; Sv. Rô. 6:1-11) II. GIẢI NGHĨA 1. Phải sống đời sống tách ly theo như vị trí sống đã được tách vạch của Cơ Đốc Nhân (Sv. C. 1-2). (1) “sống lại”: Gr. συνεγείρω [sunegeiro] > “trỗi dậy với”, “sống lại với” (2) “tìm”: Gr. ζητέω [zeteo] > “theo đuổi” (3) “ham mến”: Gr. φρονέω [phroneo] > “trông mong” “11Anh em cũng chịu cắt bì trong Ngài, không phải phép cắt bì bởi tay người ta làm ra, nhưng là phép cắt bì của Đấng Christ, là lột bỏ tánh xác thịt của chúng ta. 12Anh em đã bởi Phép Báptêm được chôn với Ngài, thì cũng được sống lại với Ngài bởi đức tin trong quyền phép Đức Chúa Trời, là Đấng đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại” (Côl. 2:11-12) 2. Phải sống đời sống tách ly vì sự sống của Cơ Đốc Nhân có bản chất ly đoạn với thế gian (Sv. C. 3). (1) “chết”: Gr. ἀποθνήσκω [apothnesko] > “bị phân cách và mất năng lực đáp ứng” (2) “sự sống”: Gr. ζωή [zoe] > “được liên kết và có năng lực đáp ứng” (3) “giấu với”: Gr. κρύπτω [krupto] > “được che phủ” “sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời…” - Nguồn lực sống: Vô tận và ẩn kín (Sv. Gi. 14:19; Phlp. 3:20). - Tình trạng sống: An toàn tuyệt đối (Sv. Gi. 10:29). - Dạng thức sống: Hiệp nhất trong Đức Chúa Cha (Sv. Gi. 14:20; 17:21). “20Nhưng chúng ta là công dân trên trời; ấy là từ nơi đó mà chúng ta trông đợi Cứu Chúa mình là Đức Chúa Jêsus Christ, 21Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật” (Phlp. 3:20-21) 3. Phải sống đời sống tách ly vì sự sống tương lai của Cơ Đốc Nhân là sự sống qua và trong Đức Chúa Jêsus Christ (Sv. C. 4). (1) “hiện ra”: Gr. φανερόω [phaneroo] > “bày tỏ ra cho thấy” (2) “với (Ngài)”: Gr. σύν [sun] > “chung, cùng, theo,…” (3) “sự vinh hiển”: Gr. δόξα [doxa] > “sự rạng rỡ” “8Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng; 9vì trái của sự sáng láng ở tại mọi điều nhân từ, công bình và thành thật. 10Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa, 11và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm, thà quở trách chúng nó thì hơn; 12vì dầu nói đến điều mà những người đó làm cách kín giấu, cũng đã là hổ thẹn rồi. 13Nhưng hết thảy mọi sự đã bị quở trách đều được tỏ ra bởi sự sáng; phàm điều chi đã tỏ ra thì trở nên sự sáng vậy. 14Cho nên có chép rằng: Ngươi đương ngủ, hãy thức, hãy vùng dậy từ trong đám người chết, thì Đấng Christ sẽ chiếu sáng ngươi” (Êph. 5:8-14) III. ÁP DỤNG 1. Phải đoạn ly với thế gian! “1Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. 2Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất” (Côl. 3:1-2) 2. Phải nương mình trong Chúa! “Vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời” (Côl. 3:3) 3. Phải theo đuổi sự vinh hiển của Chúa! “Khi nào Đấng Christ, là sự sống của anh em, sẽ hiện ra, bấy giờ anh em cũng sẽ hiện ra với Ngài trong sự vinh hiển” (Côl. 3:4) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“SỐNG THỜ PHƯỢNG BẰNG ĐỜI SỐNG HY SINH” (Ma. 10:34-39) “34Chớ tưởng rằng ta đến để đem sự bình an cho thế gian; Ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm giáo. 35Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia; 36và người ta sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình. 37Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng cho Ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn Ta thì cũng không đáng cho Ta; 38ai không vác cây thập tự mình mà theo Ta, thì cũng chẳng đáng cho Ta. 39Ai gìn giữ sự sống mình, thì sẽ mất; còn ai vì cớ Ta mất sự sống mình, thì sẽ tìm lại được” (Ma. 10:34-39) I. KINH THÁNH “34Chớ tưởng rằng ta đến để đem sự bình an cho thế gian; Ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm giáo. 35Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia; 36và người ta sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình. 37Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng cho Ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn Ta thì cũng không đáng cho Ta; 38ai không vác cây thập tự mình mà theo Ta, thì cũng chẳng đáng cho Ta. 39Ai gìn giữ sự sống mình, thì sẽ mất; còn ai vì cớ Ta mất sự sống mình, thì sẽ tìm lại được” (Ma. 10:34-39) II. GIẢI NGHĨA 1. Sống thờ phượng bằng đời sống hy sinh là phải chịu đựng nghịch chướng trong khi theo Chúa (Sv. C. 34-36) (1) “bình an”: Gr. εἰρήνη [eirene] > “không đối chọi” Dầu rằng sứ mệnh chung cuộc của Đấng Cứu Thế là thiết lập sự bình an của Ngài trên khắp thế gian… “Sáng danh Chúa trên các từng trời rất cao,_Bình an dưới đất, ân trạch cho loài người!” (Lu. 2:14; Sv. Ês. 2:4; 11:6-9) (2) “gươm giáo”: Gr. μάχαιρα [machaira] > “sự đối chọi” Nhưng trước mắt phải chịu xung đột trong các mối quan hệ đời này để thiết lập quan hệ tối cao với Ngài… “Hãy lấy lưỡi cày rèn gươm, lấy liềm rèn giáo. Kẻ yếu khá nói rằng: Ta là mạnh!” (Giôên 3:10; Sv. 9-13) (3) “phân rẽ”: Gr. διχάζω [dichazo] > “chia ra thành nhiều phần khác nhau” Để có thể hiệp một với Chúa các Cơ Đốc Nhân phải tách ly để tận hiến cho Ngài… “15Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian, thì sự kính mến Đức Chúa Cha chẳng ở trong người ấy. 16Vì mọi sự trong thế gian, như sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời, đều chẳng từ Cha mà đến, nhưng từ thế gian mà ra. 17Vả thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (1Gi. 2:15-17) 2. Sống thờ phượng bằng đời sống hy sinh là phải hy sinh bản thân trong khi theo Chúa (Sv. C. 37-39) (1) “không đáng”: Gr. Gr. ἄξιος [axios] > “không xứng hiệp” Chưa dứt bỏ các nguyên tắc của đời này thì chưa gần Chúa được… “Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô. 12:2) (2) “vác cây thập tự”: Gr. σταυρός [stauros] > “biểu tượng của sự trả giá” Chưa có đời sống tận hiến cho Chúa thì chưa thực sự theo Chúa… “Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em” (Rô. 12:1) (3) “sự sống”: Gr. ψυχή [psuche] > “linh hồn” Có những phương diện của sự sống đời này cần phải được hy sinh để dấn thân cho sự sống đời đời… “34Đoạn, Ngài kêu dân chúng và môn đồ, mà phán rằng: Nếu ai muốn theo Ta, phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. 35Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất; còn ai vì cớ Ta và đạo Tin Lành mà mất sự sống, thì sẽ cứu. 36Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? 37Hay là có người nào lấy chi mà đổi linh hồn mình ư? 38Vì giữa dòng dõi gian dâm tội lỗi nầy, hễ ai hổ thẹn về Ta và đạo Ta, thì Con Người sẽ hổ thẹn về kẻ ấy, khi ngự trong sự vinh hiển của Cha Ngài mà đến với các thiên sứ thánh” (Mác 8:34-38) III. ÁP DỤNG 1. Phải xử lý cách hợp Kinh Thánh các mối quan hệ bất lợi cho sự sống đời đời của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ! “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng cho Ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn Ta thì cũng không đáng cho Ta” (Ma. 10:37) 2. Phải hy sinh cách hợp Kinh Thánh cho sự sống đời đời của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ! “Ai gìn giữ sự sống mình, thì sẽ mất; còn ai vì cớ Ta mất sự sống mình, thì sẽ tìm lại được” (Ma. 10:39) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“SỐNG THỜ PHƯỢNG BẰNG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN” (Hê. 10:32-39) “35Vậy chớ bỏ lòng dạn dĩ mình, vốn có một phần thưởng lớn đã để dành cho. 36Vì anh em cần phải nhịn nhục, hầu cho khi đã làm theo ý muốn Đức Chúa Trời rồi, thì được như lời đã hứa cho mình. 37Còn ít lâu, thật ít lâu nữa,_Thì Đấng đến sẽ đến;Ngài không chậm trễ đâu. 38Người công bình của ta sẽ cậy đức tin mà sống, Nhưng nếu lui đi thì linh hồn ta chẳng lấy làm đẹp chút nào._ 39Về phần chúng ta, nào phải là kẻ lui đi cho hư mất đâu, bèn là kẻ giữ đức tin cho linh hồn được cứu rỗi” (Hê. 10:32-39) I. KINH THÁNH “ 35Vậy chớ bỏ lòng dạn dĩ mình, vốn có một phần thưởng lớn đã để dành cho. 36Vì anh em cần phải nhịn nhục, hầu cho khi đã làm theo ý muốn Đức Chúa Trời rồi, thì được như lời đã hứa cho mình._37Còn ít lâu, thật ít lâu nữa,_Thì Đấng đến sẽ đến;Ngài không chậm trễ đâu._38Người công bình của ta sẽ cậy đức tin mà sống,_Nhưng nếu lui đi thì linh hồn ta chẳng lấy làm đẹp chút nào._ 39Về phần chúng ta, nào phải là kẻ lui đi cho hư mất đâu, bèn là kẻ giữ đức tin cho linh hồn được cứu rỗi” (Hê. 10:32-39) II. GIẢI NGHĨA 1. Sống đức tin là sống kiên tín theo lời hứa (Sv. C. 35-36) (1) “dạn dĩ”: Gr. παῤῥησία [parrhesia] > “tin quyết” (2) “nhịn nhục”: Gr. ὑπομονή [hupomone] > “bền lòng” (3) “hứa”: Gr. ἐπαγγελία [epaggelia] > “tuyên bố” “Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng” (Hê. 4:16) 2. Sống đức tin là sống kiên tín theo sự sống đời đời (Sv. C. 37-38) (1) “chậm trễ”: Gr. χρονίζω [chronizo] > “trì hoãn” (2) “đức tin”: Gr. πίστις [pistis] > “sự hiểu biết, tin quyết, và trông mong” (3) “sống”: Gr. ζάω [zao] > “hiện hữu và vận động” “Nầy, Ta đến mau chóng, và đem phần thưởng theo với Ta, để trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm” (Khải. 22:12) 3. Sống đức tin là sống kiên tín theo sự cứu rỗi (Sv. C. 39) (1) “lui đi”: Gr. ὑποστολή [hupostole] > “rụt lại, co lại” (2) “hư mất”: Gr. ἀπώλεια [apoleia] > “hỏng” (Sv. Gi. 3:16 Gr. ἀπόλλυμι [apollumi] > “diệt vong”) (3) “được cứu rỗi”: Gr. περιποίησις [peripoiesis] > “được kiên bảo” “7Vả, một đám đất nhờ mưa đượm nhuần mà sanh cây cỏ có ích cho người cày cấy, thì đất đó hưởng phần phước lành của Đức Chúa Trời. 8Nhưng đất nào chỉ sanh ra những cỏ rạ, gai gốc, thì bị bỏ, và hầu bị rủa, cuối cùng phải bị đốt” (Hê. 6:7-8) III. ÁP DỤNG 1. Đời sống thờ phượng thật là đời sống kiên tín nơi lời hứa của Đức Chúa Trời! “Vì anh em cần phải nhịn nhục, hầu cho khi đã làm theo ý muốn Đức Chúa Trời rồi, thì được như lời đã hứa cho mình” (Hê. 10:36) 2. Đời sống thờ phượng thật là đời sống kiên tín trong sự sống đời đời! “Người công bình của ta sẽ cậy đức tin mà sống,_Nhưng nếu lui đi thì linh hồn ta chẳng lấy làm đẹp chút nào” (Hê. 10:38) 3. Đời sống thờ phượng thật là đời sống kiên tín với sự cứu rỗi! “Về phần chúng ta, nào phải là kẻ lui đi cho hư mất đâu, bèn là kẻ giữ đức tin cho linh hồn được cứu rỗi” (Hê. 10:39) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“DÂNG MÌNH CHO LINH GIÁNG THẾ” (Gi. 16:12-15) “12Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. 13Lúc nào Thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến. 14Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh Ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi. 15Mọi sự Cha có, đều là của Ta; nên Ta nói rằng Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi vậy” (Gi. 16:12-15) I. KINH THÁNH “12Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. 13Lúc nào Thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến. 14Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh Ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi. 15Mọi sự Cha có, đều là của Ta; nên Ta nói rằng Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi vậy” (Gi. 16:12-15) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức Thánh Linh soi sáng để hiểu chân lý (Sv. C. 12-13) (1) “Thần Lẽ Thật”: Gr. πνεῦμα ὁ ἀλήθεια [pneuma ho aletheia] > “Thánh Linh của Lẽ Thật” (2) “dẫn”: Gr. ὁδηγέω [hodegeo] > “đưa vào”, “soi sáng để hiểu được” (3) “mọi Lẽ Thật”: Gr. πᾶς ὁ ἀλήθεια [pas ho aletheia] > “từng lẽ thật” - “điều mình đã nghe”: Gr. ἀκούω [akouo] > “đã được phán bảo” - “sự sẽ đến”: Gr. ἔρχομαι [erchomai] > “sẽ diễn ra” “Tôi cầu Đức Chúa Trời của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, là Cha vinh hiển, ban thần trí của sự khôn sáng và của sự tỏ ra cho anh em, để nhận biết Ngài” (Êph. 1:17) 2. Đức Thánh Linh tôn vinh hiển công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus (Sv. C. 14) (1) “làm sáng danh”: Gr. δοξάζω [doxazo] > “làm cho tôn quí” (2) “lấy điều thuộc về Ta”: Gr. ἐκ ὁ ἐμοῦ λαμβάνω [ek ho emou lambano] > “lấy ra từ của ta” (3) “rao bảo”: Gr. ἀναγγέλλω [anaggello] > “truyền đạt” “18lại soi sáng con mắt của lòng anh em, hầu cho biết điều trông cậy về sự kêu gọi của Ngài là thể nào, sự giàu có của cơ nghiệp vinh hiển Ngài cho các thánh đồ là làm sao, 19và biết quyền vô hạn của Ngài, đối với chúng ta có lòng tin, là lớn dường nào, y theo phép tối thượng của năng lực mình, 20mà Ngài đã tỏ ra trong Đấng Christ, khi khiến Đấng Christ từ kẻ chết sống lại và làm cho ngồi bên hữu mình tại các nơi trên trời, 21cao hơn hết mọi quyền, mọi phép, mọi thế lực, mọi quân chủ cùng mọi danh vang ra, không những trong đời nầy, mà cũng trong đời hầu đến nữa” (Êph. 1:18-21) 3. Đức Thánh Linh cao rao ý chỉ của Đức Chúa Cha (Sv. C. 15) (1) “mọi sự Cha có”: Gr. πᾶς ὅσος ἔχω [pas hosos echo] > “những điều của Cha” (2) “đều là của Ta”: Gr. ἐμός ἐστί [emos esti] > “là của Ta” “22Ngài đã bắt muôn vật phục dưới chân Đấng Christ, và ban cho Đấng Christ làm đầu Hội Thánh, 23Hội Thánh là thân thể của Đấng Christ, tức là sự đầy đủ của Đấng gồm tóm mọi sự trong mọi loài” (Êph. 1:22-23) III. ÁP DỤNG 1. Phải nương cậy Đức Thánh Linh để hiểu các Lẽ Thật đã được khải thị! “Lúc nào Thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến” (Gi. 16:13) 2. Sự soi sáng của Đức Thánh Linh luôn tôn vinh Đức Chúa Jêsus! “Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh Ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi” (Gi. 16:14) 3. Công việc của Đức Thánh Linh luôn hiển minh vai trò nguyên thủ đối với Hội Thánh của Đức Chúa Jêsus! “Mọi sự Cha có, đều là của Ta; nên Ta nói rằng Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi vậy” (Gi. 16:15) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“DÂNG MÌNH CHO LỜI NHẬP THỂ” (Gi. 1:14-18) “14Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con Một đến từ nơi Cha. 15Giăng làm chứng về Ngài khi kêu lên rằng ấy là về Ngài mà ta đã nói: Đấng đến sau ta trổi hơn ta, vì Ngài vốn trước ta. 16Vả, bởi sự đầy dẫy của Ngài mà chúng ta đều có nhận được, và ơn càng thêm ơn. 17Vì Luật Pháp đã ban cho bởi Môise, còn ơn và lẽ thật bởi Đức Chúa Jêsus Christ mà đến. 18Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con Một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày Cha cho chúng ta biết” (Gi. 1:14-18) I. KINH THÁNH “14Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con Một đến từ nơi Cha. 15Giăng làm chứng về Ngài khi kêu lên rằng ấy là về Ngài mà ta đã nói: Đấng đến sau ta trổi hơn ta, vì Ngài vốn trước ta. 16Vả, bởi sự đầy dẫy của Ngài mà chúng ta đều có nhận được, và ơn càng thêm ơn. 17Vì Luật Pháp đã ban cho bởi Môise, còn ơn và lẽ thật bởi Đức Chúa Jêsus Christ mà đến. 18Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con Một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày Cha cho chúng ta biết” (Gi. 1:14-18) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức Chúa Trời đã nhập thể, sống nhập thế, khải thị chính Ngài (Sv. C. 14a) (1) “đã trở nên xác thịt”: Gr. σάρξ γίνομαι [sarx ginomai] > “đã mặc lấy bản chất xác thịt” (2) “ở giữa chúng ta”: Gr. σκηνόω ἐν ἡμῖν [skenoo en hemin] > “ở cùng chúng ta” (σκῆνος [skenos] > “đền tạm”) (3) “đầy ơn và lẽ thật”: Gr. χάρις καί ἀλήθεια [charis kai aletheia] > “Ân Điển và Chân Lý” “4Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới Luật Pháp, 5để chuộc những kẻ ở dưới Luật Pháp, và cho chúng ta được làm con nuôi Ngài” (Gal. 4:4-5) 2. Sự nhập thể của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus là sự nhập thể của Đạo, tức là Ngài là hiện thân của Ân Điển và Chân Lý (Sv. C. 14b-17) (1) “sự vinh hiển”: Gr. δόξα [doxa] > “sự uy nghiêm” (2) “Con Một”: Gr. μονογενής [monogenes] > “Con Độc Sanh” (Nghĩa đen: “bản sao duy nhất”) (3) “Cha”: Gr. πατήρ [pater] > “Đức Chúa Cha” “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời” (Gi. 1:1) 3. Đức Chúa Jêsus nhập thể chính là Đức Chúa Trời (Sv. C. 18) (1) “ở trong lòng Cha”: Gr. κόλπος ὁ πατήρ [kolpos ho pater] > “tâm địa” (Nghĩa đen: “trong ngực”) (2) “giải bày”: Gr. ἐξηγέομαι [exegeomai] > “bố cáo” “1Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các đấng tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách, 2rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập lên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian; 3Con là sự chói sáng của sự vinh hiển Đức Chúa Trời và hình bóng của bổn thể Ngài, lấy lời có quyền phép Ngài nâng đỡ muôn vật; sau khi Con làm xong sự sạch tội, bèn ngồi bên hữu Đấng tôn nghiêm ở trong nơi rất cao, 4vậy được hưởng danh cao hơn danh thiên sứ bao nhiêu, thì trở nên cao trọng hơn thiên sứ bấy nhiêu” (Hê. 1:1-4) III. ÁP DỤNG 1. Đức Chúa Jêsus là hiện thân của Đạo Đức Chúa Trời! “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con Một đến từ nơi Cha” (Gi. 1:14) 2. Đạo Đức Chúa Trời là Đạo Ân Điển và Chân Lý duy nhất cho nhân loại! “Vì Luật Pháp đã ban cho bởi Môise, còn ơn và lẽ thật bởi Đức Chúa Jêsus Christ mà đến” (Gi. 1:17) 3. Dâng mình hoàn toàn cho Đức Chúa Jêsus là dâng mình hoàn toàn cho Lời nhập thể! “Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con Một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày Cha cho chúng ta biết” (Gi. 1:18) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“DÂNG MÌNH CHO SỰ HIỆN DIỆN DIỆU KỲ” (Hê. 13:5-6; Sv. Phục. 31:6; Giô. 1:5) “5Chớ tham tiền;hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu. 6Như vậy, chúng ta được lấy lòng tin chắc mà nói rằng: Chúa giúp đỡ tôi, tôi không sợ chi hết. Người đời làm chi tôi được?” (Hê. 13:5-6; Sv. Phục. 31:6; Giô. 1:5) I. KINH THÁNH “5Chớ tham tiền;hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu. 6Như vậy, chúng ta được lấy lòng tin chắc mà nói rằng: Chúa giúp đỡ tôi, tôi không sợ chi hết. Người đời làm chi tôi được?” (Hê. 13:5-6; Sv. Phục. 31:6; Giô. 1:5) II. GIẢI NGHĨA 1. Cơ Đốc Nhân có sự có của mọi sự có: Sự hiện diện của chính Đức Chúa Trời (Sv. C. 5). (1) “lìa”: Gr. ἀνίημι [aniemi] > “tách rời ra” (2) “bỏ”: Gr. ἐγκαταλείπω [egkataleipo] > “bỏ rơi”, “bỏ mặc” “Ngươi chớ tham nhà kẻ lân cận ngươi, cũng đừng tham vợ người, hoặc tôi trai tớ gái, bò, lừa, hay là vật chi thuộc về kẻ lân cận ngươi” (Xuất. 20:17; Sv. Thi. 10:3) 2. Sự hiện diện của Đức Chúa Trời là sự hiện diện của sự cứu giúp vô giới hạn (Sv. C. 6a). (1) “tin chắc”: Gr. θαῤῥέω [tharrheo] > “tin quyết”, “dạn dĩ” (2) “giúp đỡ”: Gr. βοηθός [boethos] > “Đấng cứu giúp”, “Đấng phù trợ” “Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng” (Hê. 4:16) 3. Cơ Đốc Nhân phải biết nương cậy nơi Đức Chúa Trời, không được phép để cho sự lo sợ chi phối (Sv. C. 6b). (1) “sợ”: Gr. φοβέω [phobeo] > “lo và sợ” (2) “làm chi”: Gr. ποιέω [poieo] > “gây hại” “Hãy vững lòng bền chí; chớ sợ chi và chớ kinh khủng trước mặt các dân đó vì Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi đi cùng ngươi; Ngài chẳng lìa khỏi ngươi, chẳng từ bỏ ngươi đâu” (Phục. 31:6) III. ÁP DỤNG 1. Phải xác quyết về sự hiện diện diệu kỳ của Đức Chúa Trời trong đời sống mình! “Chớ tham tiền;hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu” (Hê. 13:5) 2. Phải dốc lòng nương cậy vào sự hiện diện diệu kỳ của Đức Chúa Trời trong đời sống mình! “Như vậy, chúng ta được lấy lòng tin chắc mà nói rằng: Chúa giúp đỡ tôi, tôi không sợ chi hết. Người đời làm chi tôi được?” (Hê. 13:6) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“DÂNG MÌNH CHO SỰ HIỆN DIỆN THƯỜNG KỲ” (1Cô. 3:16-17; Sv. 1Cô. 6:19-20) “16Anh em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong anh em sao? 17Ví có ai phá hủy đền thờ của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ phá hủy họ; vì đền thờ của Đức Chúa Trời là thánh, mà chính anh em là đền thờ” (1Cô. 3:16-17; Sv. 1Cô. 6:19-20) I. KINH THÁNH “16Anh em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong anh em sao? 17Ví có ai phá hủy đền thờ của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ phá hủy họ; vì đền thờ của Đức Chúa Trời là thánh, mà chính anh em là đền thờ” (1Cô. 3:16-17; Sv. 1Cô. 6:19-20) II. GIẢI NGHĨA 1. Sự hiện diện thường kỳ của Đức Chúa Trời đối với Cơ Đốc Nhân: Ngài thường trú trong thân thể họ (Sv. C. 16). (1) “đền thờ”: Gr. ναός [naos] > “ngôi ngự” (2) “Thánh Linh Đức Chúa Trời”: Gr. πνεῦμα ὁ θεός [pneuma ho theos] > “Thánh Linh của Đức Chúa Trời” (3) “ở trong”: Gr. οἰκέω [oikeo] > “làm thành nhà ở”, “ở cùng” “Và nầy, Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Ma. 28:20b) 2. Vì vậy, Cơ Đốc Nhân phải hết lòng chăm chút cho thân thể mình như là chăm chút cho đền thờ của Đức Chúa Trời (Sv. C. 17a). (1) “phá hủy”: Gr. φθείρω [phtheiro] > “làm thành ô uế”, “làm cho suy tàn” (2) Khi nào Cơ Đốc Nhân mắc tội “phá hủy” đền thờ của Đức Chúa Trời? “15Anh em há chẳng biết thân thể mình là chi thể của Đấng Christ sao? Vậy thì mình có nên lấy chi thể của Đấng Christ mà làm thành chi thể của điếm đĩ chăng? Đức Chúa Trời nào nỡ vậy! 16Anh em há chẳng biết người nào kết hiệp với điếm đĩ, thì trở nên một xác với nó sao? Vì có chép rằng: Hai người sẽ đồng nên một thịt. 17Còn ai kết hiệp với Chúa thì trở nên một tánh thiêng liêng cùng Ngài. 18Hãy tránh sự dâm dục. Mặc dầu người ta phạm tội gì, tội ấy còn là ngoài thân thể; nhưng kẻ buông mình vào sự dâm dục, thì phạm đến chính thân thể mình” (1Cô. 6:15-18) (3) Hễ khi nào Cơ Đốc Nhân để cho thân thể mình vướng vào những sự làm suy tổn vinh hiển của Đức Chúa Trời thì mắc tội “phá hủy” đền thờ của Đức Chúa Trời! “Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Đức Chúa Trời” (1Cô. 16:20) 3. Và phải thường xuyên giữ cho đời sống mình được thánh và nhờ đó mà được tinh anh, đáng tôn trọng (Sv. C. 17b) (1) “thánh”: Gr. ἅγιος [hagios] > “được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời”, “tinh anh”, “đáng trọng” (2) Cơ Đốc Nhân là người đã được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời, họ phải là người tinh anh, đáng trọng… (Sv. Công. 9:13; Rô. 1:7; Hê. 6:10; Khải. 5:8) “Vì chẳng hề có người nào ghét chính thân mình, nhưng nuôi nấng săn sóc nó như Đấng Christ đối với Hội Thánh” (Êph. 5:29) III. ÁP DỤNG 1. Đức Chúa Trời hiện diện cách thường kỳ trong thân thể của các Cơ Đốc Nhân! “Anh em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong anh em sao?” (1Cô. 3:16) 2. Cơ Đốc Nhân có phận sự dâng mình cho Đức Chúa Trời, họ không được phép làm bất cứ sự chi tác hại đến thân thể mình! “Ví có ai phá hủy đền thờ của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ phá hủy họ; vì đền thờ của Đức Chúa Trời là thánh, mà chính anh em là đền thờ” (1Cô. 3:17) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“DÂNG MÌNH CHO SỰ HIỆN DIỆN HY KỲ” (Giê. 23:21-24; Sv. Thi. 139:7-12; Am. 9:2-4) “21Ta chẳng sai những tiên tri nầy, mà chúng nó đã chạy; Ta chẳng phán với, mà đã nói tiên tri. 22Nếu chúng nó có đứng trong sự bàn luận Ta, thì đã khiến dân Ta nghe lời Ta, và đã làm cho dân từ đường dữ việc xấu mà trở lại rồi. 23Đức Giêhôva phán: Ta có phải là Đức Chúa Trời ở gần mà không phải là Đức Chúa Trời ở xa sao? 24Đức Giêhôva phán: Có người nào có thể giấu mình trong các nơi kín cho Ta đừng thấy chăng? Đức Giêhôva phán: Há chẳng phải Ta đầy dẫy các từng trời và đất sao?” (Giê. 23:21-24; Sv. Thi. 139:7-12; Am. 9:2-4) I. KINH THÁNH “21Ta chẳng sai những tiên tri nầy, mà chúng nó đã chạy; Ta chẳng phán với, mà đã nói tiên tri. 22Nếu chúng nó có đứng trong sự bàn luận Ta, thì đã khiến dân Ta nghe lời Ta, và đã làm cho dân từ đường dữ việc xấu mà trở lại rồi. 23Đức Giêhôva phán: Ta có phải là Đức Chúa Trời ở gần mà không phải là Đức Chúa Trời ở xa sao? 24Đức Giêhôva phán: Có người nào có thể giấu mình trong các nơi kín cho Ta đừng thấy chăng? Đức Giêhôva phán: Há chẳng phải Ta đầy dẫy các từng trời và đất sao?” (Giê. 23:21-24; Sv. Thi. 139:7-12; Am. 9:2-4) II. GIẢI NGHĨA 1. Chưa biết sống chân chính là chưa có đời sống dâng mình (Sv. C. 21-22) (1) “sai”: Hb. חלשׁ [shalach] > “cử đi”, “phái đi” (2) “đứng”: Hb. דמע [‘amad] > “ở trong”, “thuộc về” (3) “sự bàn luận”: Hb. דוס [cowd] > “sự chỉ bảo” “Bấy giờ Ngài phán cùng những người Giuđa đã tin Ngài, rằng: Nếu các ngươi hằng ở trong đạo Ta, thì thật là môn đồ Ta” (Gi. 8:31) 2. Chưa biết sống kính sợ là chưa có đời sống dâng mình (Sv. C. 23) (1) “Đức Chúa Trời”: Hb. םיהלא [‘elohiym] > “Đấng cầm quyền”, “Đấng xét đoán” (2) “ở gần”: Hb. בורק [qarowb] > “trong tầm tay”, “gần” (3) “ở xa”: Hb. קוחר [rachowq] > “quá vói”, “xa tầm tay” “12Ấy vậy, hỡi những kẻ rất yêu dấu của tôi, như anh em đã vâng lời luôn luôn, chẳng những khi tôi có mặt mà thôi, lại bây giờ là lúc tôi vắng mặt, hãy càng hơn nữa, mà lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình. 13Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài” (Phlp. 2:12-13) 3. Chưa biết sống trung thực là chưa có đời sống dâng mình (Sv. C. 24) (1) “giấu”: Hb. רתס [cathar] > “làm cho khuất, lấp” (2) “thấy”: Hb. האר [ra’ah] > “nhìn thấy”, “nhận ra” (3) “đầy dẫy”: Hb. אלמ [male’] > “nơi nào cũng có” “3Nầy tại sao chúng ta biết mình đã biết Ngài, ấy là tại chúng ta giữ các điều răn của Ngài. 4Kẻ nào nói: Ta biết Ngài, mà không giữ điều răn Ngài, là người nói dối, lẽ thật quyết không ở trong người” (1Gi. 2:3-4) III. ÁP DỤNG 1. Đừng ngông cuồng, phải chân chính! “21Ta chẳng sai những tiên tri nầy, mà chúng nó đã chạy; Ta chẳng phán với, mà đã nói tiên tri. 22Nếu chúng nó có đứng trong sự bàn luận Ta, thì đã khiến dân Ta nghe lời Ta, và đã làm cho dân từ đường dữ việc xấu mà trở lại rồi” (Giê. 23:21) 2. Đừng khinh lờn, phải kính sợ! “Đức Giêhôva phán: Ta có phải là Đức Chúa Trời ở gần mà không phải là Đức Chúa Trời ở xa sao?” (Giê. 23:23) 3. Đừng giả dối, phải trung thực! “Đức Giêhôva phán: Có người nào có thể giấu mình trong các nơi kín cho Ta đừng thấy chăng? Đức Giêhôva phán: Há chẳng phải Ta đầy dẫy các từng trời và đất sao?” (Giê. 23:24) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“BÀY TỎ CÁCH HẾT LÒNG” (Thi. 98:4; Sv. 98:1-9) “Hỡi cả trái đất, hãy cất tiếng reo mừng cho Đức Giêhôva,_Nức tiếng vui vẻ và hát ngợi khen!” (Thi. 98:4; Sv. 98:1-9) I. KINH THÁNH “Hỡi cả trái đất, hãy cất tiếng reo mừng cho Đức Giêhôva,_Nức tiếng vui vẻ và hát ngợi khen!” (Thi. 98:4; Sv. 98:1-9) II. GIẢI NGHĨA 1. Chúc tụng Đức Chúa Trời là phận sự phổ cập của mọi dân tộc (Thi. 98:4a)! (1) “cả trái đất”: Hb. ץרא [‘erets] > “các dân tộc trong thế gian và mọi sự trên địa cầu” (2) “cất tiếng reo mừng”: Hb. חצפ [patsach] > “la lớn lên vì mừng” (3) “Đức Giêhôva”: Hb. הוהי [Yᵉhovah] > “Đấng hằng hữu”, “Chúa hằng hữu” Tất cả mọi dân tộc đều chịu chung một sự đòi hỏi phổ cập... “1Hãy hát một bài ca mới cho Đức Giêhôva;_Hỡi cả trái đất, khá hát xướng cho Đức Giêhôva..._3Hãy thuật sự vinh hiển Ngài giữa các nước,_Truyền các công việc lạ lùng Ngài giữa các dân..._7Hỡi các họ hàng của muôn dân,_Đáng tôn vinh hiển và năng lực cho Đức Giêhôva” (Thi. 96:1, 3, 7) “18Vả, cơn giận của Đức Chúa Trời từ trên trời tỏ ra nghịch cùng mọi sự không tin kính và mọi sự không công bình của những người dùng sự không công bình mà bắt hiếp lẽ thật. 19Vì điều chi có thể biết được về Đức Chúa Trời thì đã trình bày ra cho họ, Đức Chúa Trời đã tỏ điều đó cho họ rồi, 20bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được, 21vì họ dẫu biết Đức Chúa Trời, mà không làm sáng danh Ngài là Đức Chúa Trời, và không tạ ơn Ngài nữa; song cứ lầm lạc trong lý tưởng hư không, và lòng ngu dốt đầy những sự tối tăm” (Rô. 1:18-21) 2. Chúc tụng Đức Chúa Trời là một phận sự cấp tập của mọi tấm lòng (Thi. 98:4b)! (1) “nức tiếng”: Hb. חצפ [patsach] > “làm cho niềm vui bùng phát ra thành tiếng lớn” (2) “vui vẻ”: Hb. ןנר [ranan] > “la lớn, hát lớn lên vì mừng” (3) “hát ngợi khen”: Hb. רמז [zamar] > “hát chúc tụng”, “hát tôn vinh”, “hát về sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” Tất cả mọi tấm lòng đều chịu chung một sự đòi hỏi cấp tập... “2Hãy ngợi khen Ngài vì các việc quyền năng Ngài!_Hãy ngợi khen Ngài tùy theo sự oai nghi cả thể của Ngài!_6Phàm vật chi thở, hãy ngợi khen Đức Giêhôva!_Halêlugia!” (Thi. 150:2, 6) “Mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rô. 3:23) “...Vì họ dẫu biết Đức Chúa Trời, mà không làm sáng danh Ngài là Đức Chúa Trời, và không tạ ơn Ngài nữa; song cứ lầm lạc trong lý tưởng hư không, và lòng ngu dốt đầy những sự tối tăm” (Rô. 1:21) III. ÁP DỤNG 1. Chúng ta đã được định để bày tỏ cách hết lòng đối với Đức Chúa Trời! “3Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời, 4trước khi sáng thế, Ngài đã chọn chúng ta trong Đấng Christ, đặng làm nên thánh không chỗ trách được trước mặt Đức Chúa Trời, 5bởi sự thương yêu của Ngài đã định trước cho chúng ta được trở nên con nuôi của Ngài bởi Đức Chúa Jêsus Christ, theo ý tốt của Ngài, 6để khen ngợi sự vinh hiển của ân điển Ngài đã ban cho chúng ta cách nhưng không trong Con yêu dấu của Ngài!” (Êph. 1:3-6) 2. Đức Chúa Trời đáng được chúng ta bày tỏ cách hết lòng trên mọi phương diện! “Hãy ngợi khen Ngài vì các việc quyền năng Ngài!_Hãy ngợi khen Ngài tùy theo sự oai nghi cả thể của Ngài!” (Thi. 150:2) 3. Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta phải bày tỏ cách hết lòng! “Hỡi cả trái đất, hãy cất tiếng reo mừng cho Đức Giêhôva,_Nức tiếng vui vẻ và hát ngợi khen!” (Thi. 98:4) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“BÀY TỎ CÁCH HIỆP NHẤT” (1Ti. 2:1-7) “1Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, 2cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn. 3Ấy là một sự lành và đẹp mắt Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta, 4Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật. 5Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, là Người; 6Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. Ấy là lời chứng đã làm đúng kỳ 7(ta nói thật, không nói dối), vì lời chứng ấy, ta đã được cử làm Thầy Giảng, làm Sứ Đồ và Giáo Sư cho Dân Ngoại, để dạy họ về đức tin và về lẽ thật” (1Ti. 2:1-7) I. KINH THÁNH “1Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, 2cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn. 3Ấy là một sự lành và đẹp mắt Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta, 4Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật. 5Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, là Người; 6Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. Ấy là lời chứng đã làm đúng kỳ 7(ta nói thật, không nói dối), vì lời chứng ấy, ta đã được cử làm Thầy Giảng, làm Sứ Đồ và Giáo Sư cho Dân Ngoại, để dạy họ về đức tin và về lẽ thật” (1Ti. 2:1-7) II. GIẢI NGHĨA 1. Theo thánh ý của Đức Chúa Trời, sự cầu nguyện là hình thức bày tỏ tập trung nhất (Sv. C. 1-3). (1) “trước hết”: Gr. πρῶτον [proton] > “chính yếu”, “nguyên tắc chính” (2) “khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn”… - “khẩn nguyện”: Gr. δέησις [deesis] > “nguyện vọng thiết tha” - “cầu xin”: Gr. προσευχή [proseuche] > “sự cầu nguyện”, “sự bày tỏ đối với Đức Chúa Trời” - “kêu van”: Gr. ἔντευξις [enteuxis] > “sự cầu thay” - “tạ ơn”: Gr. εὐχαριστία [eucharistia] > “việc bày tỏ lòng biết ơn” (3) “cho mọi người”: Gr. πᾶς [pas] > “từng người” (4) “sự lành”: Gr. ἀπόδεκτος [apodektos] > “đẹp ý Đức Chúa Trời” “16Hãy vui mừng mãi mãi, 17cầu nguyện không thôi, 18phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy” (1Tê. 5:16-18) 2. Theo thánh ý của Đức Chúa Trời, mọi sự bày tỏ đều phải được qui chiếu vào sự cứu rỗi và lẽ thật của Ngài trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ (Sv. C. 4-5). (1) “được cứu rỗi”: Gr. σώζω [sozo] > “được giải thoát khỏi sự ô tội và án tội” (2) “hiểu biết lẽ thật”: Gr. ἐπίγνωσις ἀλήθεια [epignosis aletheia] > “hiểu biết về qui chuẩn của Đức Chúa Trời” (3) “Đấng Trung Bảo”: Gr. μεσίτης [mesites] > “người trung gian” “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Công. 4:12) 3. Về sự bày tỏ hiệp nhất, tất cả vấn đề đều ở đức tin và lẽ thật (Sv. C. 6-7) (1) “đức tin”: Gr. πίστις [pistis] > “sự hiểu biết, tin quyết, và kỳ vọng” (2) “lẽ thật”: Gr. ἀλήθεια [aletheia] > “qui chuẩn của Đức Chúa Trời” “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài” (Hê. 11:6) “4Chỉ có một thân thể, một Thánh Linh, như anh em bởi chức phận mình đã được gọi đến một sự trông cậy mà thôi; 5chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép báptêm; 6chỉ có một Đức Chúa Trời và một Cha của mọi người, Ngài là trên cả mọi người, giữa mọi người và ở trong mọi người” (Êph. 4:4-6) III. ÁP DỤNG 1. Chỉ có sự cầu nguyện bởi đức tin và theo lẽ thật mới là sự bày tỏ hiệp nhất và duy nhất đẹp ý Đức Chúa Trời! “1Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, 2cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn. 3Ấy là một sự lành và đẹp mắt Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta” (1Ti. 2:1-4) 2. Lẽ thật chứ không phải là chuyện huyễn! “Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật” (1Ti. 2:4) 3. Đức tin chứ không phải là kinh nghiệm! “6Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. Ấy là lời chứng đã làm đúng kỳ 7(ta nói thật, không nói dối), vì lời chứng ấy, ta đã được cử làm Thầy Giảng, làm Sứ Đồ và Giáo Sư cho Dân Ngoại, để dạy họ về đức tin và về lẽ thật” (1Ti. 2:6-7) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |