“SỰ ĂN NĂN, SỰ CỨU RỖI, VÀ ĐỜI SỐNG CÔNG NGHĨA THỰC HÀNH” (Ma. 3:8-10) “Vậy, các ngươi hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn, và đừng tự khoe rằng: Ápraham là Tổ chúng ta; vì Ta nói cho các ngươi rằng Đức Chúa Trời có thể khiến đá nầy sanh ra con cái cho Ápraham được. Bây giờ cái búa đã để kề rễ cây; vậy hễ cây nào không sanh trái tốt thì sẽ phải đốn và chụm.” (Ma. 3:8-10) Có rất nhiều người hiểu rằng “sự ăn năn” chỉ thuần là việc “từ bỏ tội lỗi” nhưng hiểu như vậy thì chưa hết nghĩa theo Kinh Thánh được. Về cơ bản, theo Kinh Thánh, sự ăn năn là việc thay đổi “về nếp nghĩ” tức là “sự nhận thức”. Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết rằng sự ăn năn thật phải kết quả ở “việc làm” tức là “hành vi” nữa… “8Thế thì, hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn; và đừng tự nói rằng: Ápraham là Tổ Phụ chúng ta; vì ta nói cùng các ngươi, Đức Chúa Trời có thể khiến từ những đá nầy sanh ra con cái cho Ápraham được. 9Cái búa đã để kề gốc cây; hễ cây nào không sanh trái tốt thì sẽ bị đốn và chụm. 10Chúng bèn hỏi Giăng rằng: Vậy thì chúng tôi phải làm gì? 11Người đáp rằng: Ai có hai áo, hãy lấy một cái cho người không có; và ai có đồ ăn cũng nên làm như vậy. 12Cũng có những người thâu thuế đến để chịu Phép Báptêm; họ hỏi rằng: Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? 13Người nói rằng: Đừng đòi chi ngoài số luật định. 14Quân lính cũng hỏi rằng: Còn chúng tôi phải làm gì? Người nói rằng: Đừng hà hiếp, đừng phỉnh gạt ai hết, nhưng hãy bằng lòng về lương hướng mình” (Lu. 3:8-14) “Vậy, các ngươi hãy ăn năn và trở lại, đặng cho tội lỗi mình được xóa đi” (Công. 3:19) Đó là Lẽ Thật Kinh Thánh và cho dầu ở trong hoàn cảnh khó khăn, các vị Sứ Đồ cũng vẫn cứ nói thật về sự ăn năn: “19Tâu vua Ạcrípba, từ đó, tôi chẳng hề dám chống cự với sự hiện thấy trên trời; 20nhưng đầu hết tôi khuyên dỗ người thành Đamách, kế đến người thành Giêrusalem và cả xứ Giuđê, rồi đến các Dân Ngoại rằng phải ăn năn và trở lại cùng Đức Chúa Trời, làm công việc xứng đáng với sự ăn năn” (Công. 26:19-20) Vậy, sự ăn năn có liên quan với sự cứu rỗi và đời sống công nghĩa thực hành ra sao? Sách Công Vụ Các Sứ Đồ nhấn mạnh nhiều đến mối liên quan giữa sự ăn năn và sự cứu rỗi (Công. 2:38; 3:19; 11:18; 17:30; 20:21; 26:20). Trong mối liên quan với sự cứu rỗi thì sự ăn năn chính là việc thay đổi “về nếp nghĩ” về Đức Chúa Jêsus, tức là về sự nhận thức về Đức Chúa Jêsus. Chính vì vậy mà Sứ Đồ Phierơ đã kết thúc bài giảng của mình trong Ngày Lễ Ngũ Tuần bằng việc kêu gọi hãy ăn năn: “Phierơ trả lời rằng: Hãy hối cải, ai nấy phải nhân danh Đức Chúa Jêsus chịu Phép Báptêm, để được tha tội mình, rồi sẽ được lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh” (Công. 2:38) Sứ Đồ Phierơ đã kêu gọi hãy ăn năn về điều gì? Sự ăn năn mà Sứ Đồ Phierơ kêu gọi ở đây đồng nghĩa với sự thay đổi trong nhận thức về Đức Chúa Jêsus: “Vậy, cả nhà Ysơraên khá biết chắc rằng Đức Chúa Trời đã tôn Jêsus nầy, mà các ngươi đã đóng đinh trên thập tự giá, làm Chúa và Đấng Christ” (Công. 2:36) Sự Ăn Năn và Đức Tin có thể được xem như là hai mặt của cùng một vấn đề: Sự Ăn Năn và Đức Tin chính là điều kiện cần và đủ của sự cứu rỗi. Không thể có việc một người đặt niềm tin của mình trong Đức Chúa Jêsus mà trước đó không thay đổi về nhận thức về Thân Vị và Công Nghiệp của Ngài. Cho dầu sự nhận thức ấy được thay đổi từ việc không biết Ngài cho đến việc biết Ngài, từ việc không quan tâm về Ngài đến việc quan tâm về Ngài, từ việc bất kính Ngài đến việc tôn kính Ngài thì tất cả cũng đều là sự thay đổi về nhận thức, sự thay đổi thuộc lĩnh vực trí năng. Như vậy, xét trong mối quan hệ với sự cứu rỗi, sự ăn năn hợp Kinh Thánh là việc thay đổi nhận thức từ chỗ khước từ Ngài đến chỗ tiếp nhận Ngài bằng Đức Tin. Thế nhưng chúng ta nhất thiết không được phép nghĩ rằng sự ăn năn là một việc chúng ta phải làm để có được sự cứu rỗi. Không một ai tự có năng lực ăn năn mà tất cả đều phải được Đức Chúa Trời ban cho: “Ví bằng Cha, là Đấng sai Ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng Ta, và Ta sẽ làm cho người đó sống lại nơi ngày sau rốt” (Gi. 6:44) Phương diện Ân Điển của sự ăn năn cũng được Sách Công Vụ Các Sứ Đồ khẳng định rất rõ: Không thể có sự ăn năn ngoài Ân Điển của Đức Chúa Trời! “Đức Chúa Trời đã đem Đấng ấy lên bên hữu Ngài, làm Vua và Cứu Chúa, để ban lòng ăn năn và sự tha tội cho dân Ysơraên” (Công. 5:31) “Tín đồ nghe bấy nhiêu lời xong, đều thỏa thuận và ngợi khen Đức Chúa Trời, rằng: Vậy Đức Chúa Trời cũng đã ban sự ăn năn cho Người Ngoại để họ được sự sống!” (Công. 11:18) Thật ra tất cả mọi sự có liên quan đến sự cứu rỗi đều là kết quả của việc Đức Chúa Trời đem người được cứu trở về với Ngài. Để con người có được sự ăn năn thì Đức Chúa Trời đã phải di bước trước bằng sự nhịn nhục và nhân từ của Ngài… “Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu, nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn” (2Phi. 3:9) “Hay là ngươi khinh dể sự dư dật của lòng nhân từ, nhịn nhục, khoan dung Ngài, mà không nhận biết lòng nhân từ của Đức Chúa Trời đem ngươi đến sự ăn năn sao?” (Rô. 2:4) Cũng còn một phương diện khác không thể bỏ qua được. Mặc dầu sự ăn năn không phải là một việc làm giúp đem lại sự cứu rỗi nhưng Ân Điển Ăn Năn cùng với Ân Điển Đức Tin dẫn đến Ân Điển Cứu Rỗi khiến cho một người thực sự có sự ăn năn phải có đời sống công nghĩa thực hành. Kinh Thánh đòi hỏi sự ăn năn của một người phải kết quả qua hành vi của họ. Chính vì thế mà Giăng Báp Tít đã đưa ra lời kêu gọi và cảnh báo này: “8Vậy, các ngươi hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn, 9và đừng tự khoe rằng: Ápraham là Tổ chúng ta; vì Ta nói cho các ngươi rằng Đức Chúa Trời có thể khiến đá nầy sanh ra con cái cho Ápraham được. 10Bây giờ cái búa đã để kề rễ cây; vậy hễ cây nào không sanh trái tốt thì sẽ phải đốn và chụm” (Ma. 3:8-10) Một người đã thực sự ăn năn, tức là đã từ chỗ phủ nhận Đức Chúa Jêsus đến chỗ đặt đức tin nơi Ngài, phải được minh thị qua việc đời sống của mình được thay đổi… “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (2Cô. 5:17) “19Vả, các việc làm của xác thịt là rõ ràng lắm: Ấy là gian dâm, ô uế, luông tuồng, 20thờ hình tượng, phù phép, thù oán, tranh đấu, ghen ghét, buồn giận, cãi lẫy, bất bình, bè đảng, 21ganh gổ, say sưa, mê ăn uống, cùng các sự khác giống như vậy. Tôi nói trước cho anh em, như tôi đã nói rồi: Hễ ai phạm những việc thể ấy thì không được hưởng nước Đức Chúa Trời. 22Nhưng trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ: 23Không có Luật Pháp nào cấm các sự đó” (Gal. 5:19-23) “14Hỡi anh em, nếu ai nói mình có đức tin, song không có việc làm, thì ích chi chăng? Đức tin đó cứu người ấy được chăng? 15Ví thử có anh em hoặc chị em nào không quần áo mặc, thiếu của ăn uống hằng ngày, 16mà một kẻ trong anh em nói với họ rằng: Hãy đi cho bình an, hãy sưởi cho ấm và ăn cho no, nhưng không cho họ đồ cần dùng về phần xác, thì có ích gì chăng? 17Về đức tin, cũng một lẽ ấy; nếu đức tin không sanh ra việc làm, thì tự mình nó chết” (Gia. 2:14-17) Sự ăn năn, sự cứu rỗi, và đời sống công nghĩa thực hành luôn gắn bó chặt chẽ với nhau thành một tổng thể bất khả phân ly và đó là chuẩn mực để Cơ Đốc Nhân có thể phân biệt ai là ai và cái gì là cái gì! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHẢI SỐNG TRONG SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC CHHÚA TRỜI!” (Thi. 56:13) “Vì Chúa đã giải cứu linh hồn tôi khỏi chết: Chúa há chẳng giữ chân tôi khỏi vấp ngã, Hầu cho tôi đi trước mặt Đức Chúa Trời trong sự sáng của sự sống?” (Thi. 56:13) Là Cơ Đốc Nhân, việc phải sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời là một nguyên tắc Kinh Thánh… “Vì Chúa đã giải cứu linh hồn tôi khỏi chết: Chúa há chẳng giữ chân tôi khỏi vấp ngã, Hầu cho tôi đi trước mặt Đức Chúa Trời trong sự sáng của sự sống?” (Thi. 56:13) Là người đã được cứu, Cơ Đốc Nhân chúng ta khá quen thuộc với nguyên tắc phải sống theo Thánh Linh, không được phép sống theo xác thịt (Sv. Rô. 8:9), tức là sống đời sống mới của người đã được tái sinh (1Phi. 1:3), nhưng nguyên tắc phải sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời lại là một điều vẫn còn khá xa lạ đối với nhiều người! Bản dịch Việt Ngữ Cổ Điển (1926) mà chúng ta có đã dịch rất tốt cả hai vế của Thi. 56:13, nhất là vế sau… “Hầu cho tôi đi trước mặt Đức Chúa Trời trong sự sáng của sự sống?” (Thi. 56:13b) Một từ ngữ Hybálai (Hb.) quan trọng là Hb. םינפ םיהלא [paniym ‘elohiym] đã được sử dụng để nhấn mạnh rằng người đã có được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời (“Chúa đã giải cứu linh hồn tôi khỏi chết_Chúa há chẳng giữ chân tôi khỏi vấp ngã”) thì nhất định sẽ phải là người sống trong םינפ םיהלא [paniym ‘elohiym] của Đức Chúa Trời - Tức là sống trước mặt (“םינפ [paniym]”) Ngài, sống trong sự nhận biết của Ngài, sống theo sự chuẩn thuận của Ngài. Kinh Thánh Tân Ước cũng có một cách diễn đạt khác về phận sự tối thượng ấy… “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm.” (1Cô. 10:31) Trong bản dịch Kinh Thánh sang Tiếng Latinh từ liệu Hybálai םינפ םיהלא [paniym ‘elohiym] được dịch bằng một từ liệu Latinh (Lat.) là Coram Deo, một từ liệu hàm nghĩa “Trước mặt Đức Chúa Trời”. Coram Deo là một phạm trù thần học Kinh Thánh được chấp nhận rộng rãi giữa vòng những người Tin Lành Cải Chánh nhưng cũng có nhiều người trong một số hệ phái Tin Lành khác cũng như Công Giáo La Mã tin nhận. Theo thần học Kinh Thánh thì “Trước Mặt Đức Chúa Trời”, “Trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời” là một phạm trù có ít nhất ba ngoại diên căn bản sau đây… Thứ nhất, nguyên tắc “Phải sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời” đòi hỏi Cơ Đốc Nhân phải sống trong sự tôn trọng quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời. Quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời là một sự hiểu biết căn bản và khá quen thuộc đối với Cơ Đốc Nhân… “Hỡi Đức Giêhôva, Ngài đã dò xét tôi, và biết tôi._Chúa biết khi tôi ngồi, lúc tôi đứng dậy;_Từ xa Chúa hiểu biết ý tưởng tôi._Chúa xét nét nẻo đàng và sự nằm ngủ tôi,_Quen biết các đường lối tôi._Vì lời chưa ở trên lưỡi tôi,_Kìa, hỡi Đức Giêhôva, Ngài đã biết trọn hết rồi… Tôi sẽ đi đâu xa Thần Chúa?_Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Chúa?_Nếu tôi lên trời, Chúa ở tại đó,_Ví tôi nằm dưới Âm phủ, kìa, Chúa cũng có ở đó._Nhược bằng tôi lấy cánh hừng đông,_Bay qua ở tại cuối cùng biển,_Tại đó tay Chúa cũng sẽ dẫn dắt tôi,_Tay hữu Chúa sẽ nắm giữ tôi. ” (Thi. 139: 1-4; 7-10) “Quyền Tể Trị Tối Cao” của Đức Chúa Trời là một phạm trù thần học Kinh Thánh vừa quan trọng vừa khó thông suốt được đối với tâm trí của nhiều người dầu rằng hầu như tất cả các hệ Cơ Đốc đều đồng ý rằng Đức Chúa Trời là Đấng tối cao cả về năng quyền lẫn thẩm quyền. “Quyền Tể Trị Tối Cao” của Đức Chúa Trời là một hệ quả tất yếu của các mỹ đức căn bản của bản chất Ngài: Toàn Tri (Omniscience), Toàn Năng (Omnipotence), và Toàn Tại (Omnipresence). Dưới ánh sáng Kinh Thánh, “Quyền Tể Trị Tối Cao” của Đức Chúa Trời là một tất yế khách quan duy nhất thuộc về Ngài. Kinh Thánh cho biết Đức Chúa Trời là Đấng vừa toàn tri vừa toàn năng (Sv. Thi. 147:5), Ngài không phụ thuộc cả không gian lẫn thời gian (Sv. Xuất. 3:14; Thi. 90:2), và Ngài toàn quyền trên tạo vật Ngài (Sv. Sáng. 1:1; Gi. 1:1). Về căn bản, “Quyền Tể Trị Tối Cao” là một phạm trù thần học Kinh Thánh nói về lẽ thật Kinh Thánh rằng Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất có và hoàn toàn có sự khôn ngoan (wisdom), năng quyền (power), và thẩm quyền (authority) để định mạng tất cả mọi sự cho tạo vật Ngài và làm cho sự định mạng Ngài diễn ra cho tạo vật Ngài. Trên phương diện nội hàm, “Quyền Tể Trị Tối Cao” của Đức Chúa Trời được Kinh Thánh bày tỏ rất phong phú (Sv. 1Sa. 2:6; 1Sử. 29:11-12; Thi. 115:3; Đa. 4:25; Công. 4:24; Rô. 8:28; 9:15-23; 1Ti. 6:15; Khải. 4:11). Về phương diện ngoại diên “Quyền Tể Trị Tối Cao” của Đức Chúa Trời thường được Kinh Thánh nói đến bằng các từ liệu Hb. הכלממ [mamlakah] (Sv. Sáng. 20:9; Dân. 32:33; Phục. 3:4) và Gr. βασιλεία [basileia] (Sv. Ma. 12:25; Lu. 19:12; Gi. 18:36) để chỉ về Vương Quốc mà Đức Chúa Trời là Quốc Vương. Sự khải thị về quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời được nhấn mạnh cả trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước… “Khốn thay cho kẻ cãi lại với Đấng tạo nên mình! Một bình trong các bình bằng đất! Đất sét há dễ nói cùng thợ gốm là người nhồi mình rằng: Ngươi làm chi? hoặc việc ngươi làm ra há nói rằng: Nó không có tay?” (Ês. 45:9) “Nhưng, hỡi người, ngươi là ai, mà dám cãi lại cùng Đức Chúa Trời? Có lẽ nào cái bình bằng đất sét lại nói với kẻ nắn nên mình rằng: Sao ngươi đã làm nên ta như vậy? Người thợ gốm há chẳng có quyền trên đất sét, cùng trong một đống mà làm ra hạng bình để dùng việc sang trọng, lại hạng khác để dùng việc hèn hạ sao?” (Rô. 9:20-21) Thứ hai, nguyên tắc “Phải sống dưới uy quyền của Đức Chúa Trời” cách trực tiếp và cách gián tiếp. Nguyên tắc “Phải sống dưới uy quyền của Đức Chúa Trời” thật ra là một hệ quả tất yếu của nguyên tắc “Phải sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời” là nguyên tắc khẳng định thẩm quyền tối thượng của Ngài: Đức Chúa Trời không phải qui phục bất cứ sự gì ngoài Ngài còn tất cả các vật thọ tạo của Ngài thì, trái lại, phải thuận phục Ngài cách hoàn toàn vì mọi thẩm quyền đều thuộc về Ngài và xuất xứ từ Ngài… “Mọi người phải vâng phục các đấng cầm quyền trên mình; vì chẳng có quyền nào mà không đến bởi Đức Chúa Trời, các quyền đều bởi Đức Chúa Trời chỉ định.” (Rô. 13:1) Thẩm quyền trực tiếp của Đức Chúa Trời trên tạo vật của Ngài được thi hành trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ… “Đức Chúa Jêsus đến gần, phán cùng môn đồ như vầy: Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho Ta.” (Ma. 28:18; Sv. Khải. 1:8; Côl. 1:18; Rô. 8:29) Riêng đối với những người đã được biệt riêng ra cho sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời thì họ còn được Ngài ban cho một sự chiếu cố đặc biệt: Được hưởng thẩm quyền thuộc linh của Ngài thông qua người của Ngài… “Hãy vâng lời kẻ dắt dẫn anh em và chịu phục các người ấy, bởi các người ấy tỉnh thức về linh hồn anh em, dường như phải khai trình, hầu cho các người ấy lấy lòng vui mừng mà làm xong chức vụ mình, không phàn nàn chi, vì ấy chẳng ích lợi gì cho anh em.” (Hê. 13:17) Thứ ba, nguyên tắc “Phải sống cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời”. Êxêchiên mô tả sự vinh hiển của Đức Chúa Trời cách hữu hình và lạ lùng… “Bên trên vòng khung giãi trên đầu các vật sống, có hình như cái ngai, trạng nó như là bích ngọc; trên hình ngai ấy có hình như người ở trên nó. Trong ngai và mọi nơi chung quanh, ta cũng thấy như đồng bóng nhoáng, giống lửa, từ trạng ngang lưng người ấy trở lên; và từ trạng ngang lưng trở xuống, ta thấy như lửa sáng hừng chung quanh. Ánh sáng thấy chung quanh đó giống như ánh sáng của cái mống trong mây khi đương mưa. Ấy là tỏ ra hình trạng của sự vinh quang Đức Giêhôva. Ta thấy thì sấp mặt xuống và nghe tiếng của một Đấng phán cùng ta.” (Êx. 1:26-28) Theo tiên tri Habacúc, sự vinh hiển của Đức Chúa Trời có trương độ, cường độ, và hình thức vừa tự nhiên, vừa siêu nhiên… “Đức Chúa Trời đến từ Thêman,_Đấng Thánh đến từ núi Pharan._Vinh hiển Ngài bao phủ các từng trời,_Đất đầy sự khen ngợi Ngài._Sự chói rạng của Ngài như ánh sáng,_Những tia sáng ra từ tay Ngài,_Quyền năng Ngài giấu trong nơi đó._Ôn dịch đi trước mặt Ngài,_Tên lửa ra nơi chân Ngài._Ngài đứng và đo đất;_Ngài nhìn xem, làm tan tác các dân tộc;_Các núi hằng còn đều tan nát,_Các đồi đời đời đều quì xuống:_Các đường lối Ngài giống như thuở xưa.” (Ha. 3:3-6) “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” là một phạm trù thần học Kinh Thánh đề cập về sự tốt đẹp, oai nghi, huy hoàng,… xuất phát từ các mỹ đức của của Đức Chúa Trời và “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” chính là đích điểm tối hậu của mọi đời sống trên thế gian này (Sv. 1Cô. 10:31; Phlp. 2:11). “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” là một phạm trù có nhiều ngoại diên. Phần lớn Kinh Thánh Cựu Ước đề cập đến “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” như thể là sự cao quí và huy hoàng của Đức Chúa Trời (Sv. Thi. 19:1; 106:20; Châm. 25:2). Trong Kinh Thánh Tân Ước, khi Đức Chúa Jêsus phán rằng “Bịnh nầy không đến chết đâu, nhưng vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, hầu cho Con Đức Chúa Trời bởi đó được sáng danh” (Sv. Gi. 11:4, 40) thì “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” có liên quan đến công việc của Đức Chúa Jêsus Christ và đức tin của chúng ta. Khi Êtiên “mắt ngó chăm lên trời, thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Jêsus đứng bên hữu Đức Chúa Trời” (Sv. Công. 7:55) thì “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” chính là sự vĩ đại thấy được của Đức Chúa Trời trên Thiên Đàng… “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” đã thể hiện tập trung ở Đức Chúa Jêsus Christ (Sv. Hê. 1:3) và sẽ còn xuất hiện trong tương lai nơi chính Thành Thánh của Đức Chúa Trời trên thế gian này (Sv. Khải. 15:8; 21:11, 23). Đời sống của con người có liên quan đến “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)”. Trong trạng thái phạm tội, con người “Thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Sv. Rô. 3:23). Với đức tin, con người có được “Sự trông cậy về vinh hiển Đức Chúa Trời” (Sv. Rô. 5:2). Khi Cơ Đốc Nhân chúng ta đối đãi tốt với nhau thì “Đức Chúa Trời được vinh hiển”, tức Đức Chúa Trời được tôn cao (Sv. Rô. 15:7). Sống để tôn vinh hiển cho Đức Chúa Trời là nguyên tắc tối thượng cho hành vi Cơ Đốc (Sv. 1Cô. 10:31). “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm.” (1Cô. 10:31) Nhìn chung, “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” là một phạm trù được đề cập bằng nhiều cách khác nhau trong Kinh Thánh. “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” có thể liên quan đến tính vĩ đại của Đức Chúa Trời, sự tốt đẹp của Ngài, quyền năng của Ngài,… trong mọi trường hợp, “Sự Vinh Hiển (Của Đức Chúa Trời)” đều liên quan đến việc nhận biết tính tối cao của Đức Chúa Trời cả trong việc nương cậy Ngài và hầu việc Ngài. Nguyên tắc “Phải sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời” (Hb. םיהלא [paniym ‘elohiym]; Lat. Coram Deo) nghịch lại với mọi sự dạy ngoài đời cũng như trong đạo hiện nay. Nhìn chung, các phương tiện giải trí và truyền thông xã hội luôn xiển dương những lối sống loại bỏ hoàn toàn Đức Chúa Trời và những nổ lực ấy cũng đã thâm nhập và làm xói mòn đời sống Hội Thánh khiến cho không ít Cơ Đốc Nhân sống một đời sống không thể nhận ra Đức Chúa Trời ở đâu cả. Ngay cả một số các nhà lãnh đạo Hội Thánh cũng bị tiêm nhiễm quan điểm và thói tục sống của thế gian khiến cho họ cứ dốc sức tìm quyền lực bằng mọi kiểu, giàu có bằng mọi cách, và nổi tiếng bằng mọi giá! Là những Cơ Đốc Nhân chân chính, chúng ta phải dốc chí trượng phu và mạnh mẽ sống cho sự vinh hiển tối hậu của Đức Chúa Trời, sống trong uy quyền tối cao của Đức Chúa Trời, và sống theo thẩm quyền tất yếu và phổ quát của Đức Chúa Trời; chúng ta phải sống “Coram Deo”… “Hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em…” (1Phi. 3:15) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“HÃY BỀN LÒNG GIẢNG ĐẠO!” (2Ti. 4:1-5) “Nhưng con, phải có tiết độ trong mọi sự, hãy chịu cực khổ, làm việc của người giảng Tin lành, mọi phận sự về chức vụ con phải làm cho đầy đủ.” (2Ti. 4:5) Theo tầm nhìn Thiên Thượng thì việc giảng và việc nghe giảng Lời của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh là cực kỳ quan trọng. Chính theo ý chỉ ấy của Đức Chúa Trời mà Sứ Đồ Phaolô đã viết: “1Ta ở trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng sẽ đoán xét kẻ sống và kẻ chết, nhân sự đến của Ngài và Nước Ngài mà răn bảo con rằng: 2 Hãy giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi. 3 Vì sẽ có một thời kia, người ta không chịu nghe đạo lành; nhưng vì họ ham nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo sư xung quanh mình, 4 bịt tai không nghe lẽ thật, mà xây hướng về chuyện huyễn. 5 Nhưng con, phải có tiết độ trong mọi sự, hãy chịu cực khổ, làm việc của người giảng Tin Lành, mọi phận sự về chức vụ con phải làm cho đầy đủ.” (2Ti. 4:1-5) Tầm quan trọng này có thể được nhận ra trên ba phương diện sau đây: I. VÌ SỰ ĐOÁN PHẠT HẦU ĐẾN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ VIỆC THIẾT LẬP VƯƠNG QUỐC CỦA NGÀI. (2Ti. 4:1-2). “Ta ở trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng sẽ đoán xét kẻ sống và kẻ chết, nhân sự đến của Ngài và Nước Ngài mà răn bảo con rằng: Hãy giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi.” (2Ti. 4:1-2) Qua hai câu Kinh Thánh này có bốn điều được trình bày… 1. Lý Do Giảng: Giúp Chuẩn Bị Về Đời Sống. Từ liệu “răn bảo” (Gr. διαμαρτύρομαι [diamarturomai]; Sv. 1Ti. 5:21; 2Ti. 2:14) trong Tiếng Hy Lạp có nghĩa là “truyền lệnh” theo cách dùng của luật pháp ở tòa án. Chính trong viễn cảnh của “Tòa Lớn Và Trắng” (Sv. Khải. 20:11) Đức Chúa Trời đã dùng ngòi viết của Sứ Đồ Phaolô truyền lệnh giảng Tin Lành cho Timôthê. Đối với Cơ Đốc Nhân là những người đã được cứu như chúng ta thì việc ứng hầu “Tòa Lớn Và Trắng” được miễn trừ nhưng việc phải ứng hầu trước “Tòa Án Đấng Christ” là bắt buộc! (2Cô. 5:10) Tiếp theo sự đoán phạt của Đấng Christ sẽ là việc thiết lập Vương Quốc của Ngài (“Nước Ngài”, C. 1) và chính vì những lý do này mà Lời Ngài phải được giảng ra để mọi người chuẩn bị đời sống mình cho viễn cảnh này. 2. Nội Dung Giảng: Lời Kinh Thánh. Lời nào trong Kinh Thánh phải được giảng? Nhất định ấy phải là “Tin Lành” (Sv. C. 5). Thế nhưng vì văn mạch rộng của đoạn văn này (Ti. 4:1-5) chứa đựng cả 2Ti. 3:16-17 cho nên chúng ta có thể tin rằng mọi lời có cần trong Kinh Thánh đều phải được giảng. 3. Thời Điểm Giảng: Mọi Lúc, Mọi Nơi. Việc giảng Kinh Thánh phải được thực hiện “bất luận gặp thời hay không gặp thời”. Từ ngữ “bất luận” (Gr. ἐφίστημι [ephistemi]) là một mệnh lệnh về sự sẵn sàng. Việc giảng Kinh Thánh không được phép để rơi vào tình trạng trì trệ, bế tắc mà phải sẵn sàng trong mọi lúc ở mọi nơi. 4. Mục Đích Giảng: Giúp Thay Đổi Đời Sống. Vì sao mà người giảng Kinh Thánh phải “đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi”? (C. 2b). Ấy là vì lời Kinh Thánh được giảng ra là để giúp cho người nghe thay đổi đời sống cho phù hợp theo ý chỉ của Đức Chúa Trời để họ tránh khỏi “Tòa Lớn Và Trắng” (Sv. Khải. 20:11) mà được ứng hầu “Tòa Án Đấng Christ” (2Cô. 5:10) để nhận phần thưởng của Ngài. II. VÌ XU HƯỚNG TRÁNH NÉ ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ SỰ DẠY DỖ CỦA NGÀI CỦA NGƯỜI ĐỜI (2Ti. 4:3-4). “Vì sẽ có một thời kia, người ta không chịu nghe đạo lành; nhưng vì họ ham nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo sư xung quanh mình, bịt tai không nghe lẽ thật, mà xây hướng về chuyện huyễn.” (2Ti. 4:3-4) Giảng Kinh Thánh không bao giờ là một công việc luôn được thuận lợi. Người giảng Kinh Thánh phải lường trước “khi gặp thời” và “khi không gặp thời” vì xu hướng chung của người chưa được cứu là tránh né Đức Chúa Trời và sự dạy dỗ của Ngài (Sv. Êph. 4:17-19). Ngay cả giữa vòng các Cơ Đốc Nhân vẫn có những người còn phải chịu lâm lụy với tính xác thịt của mình (Sv. Gal. 5:16) cho nên sự nghiêm huấn của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh không phải lúc nào cũng được ưa chuộng (Sv. 2Ti. 4:3-4). “Đạo lành” (Gr. ὑγιαίνω διδασκαλία [hugiaino didaskalia]) nói về các giáo lý Kinh Thánh hợp Kinh Thánh, nói về sự nghiêm huấn của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh. III. VÌ PHẬN SỰ CỦA NGƯỜI ĐÃ ĐƯỢC ĐỨC CHÚA TRỜI BIỆT RIÊNG RA CHO TIN LÀNH CỦA NGÀI (2Ti. 4:5). “Nhưng con, phải có tiết độ trong mọi sự, hãy chịu cực khổ, làm việc của người giảng Tin Lành, mọi phận sự về chức vụ con phải làm cho đầy đủ.” (2Ti. 4:1-5) Giảng Kinh Thánh không bao giờ là một việc nhàn hạ, trái lại ấy là một việc đòi hỏi sự “chịu khổ” (Gr. κακοπαθέω [kakopatheo]) tức là phải chịu đựng mọi sự gian truân mà Đức Chúa Trời đã dành cho “người giảng Tin Lành” (Gr. εὐαγγελιστής [euaggelistes]) của Ngài theo ơn cao sâu của Ngài mà phận sự của họ là “phải làm cho đầy đủ” (Gr. πληροφορέω [plerophoreo]), tức là phải hoàn thành. Để có thể hoàn thành phận sự của người được biệt riêng ra cho Tin Lành của Đức Chúa Trời thì đời sống của họ không thể tùy tiện mà phái nhất mực “tiết độ” (Gr. νήφω [nepho]), tức là phải hết sức cẩn trọng. Phận sự giảng Lời của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh luôn đòi hỏi người ta có một đời sống giàu phẩm chất giữ mình theo các nguyên tắc Kinh Thánh. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHẢI HƯỞNG ỨNG ĐỐI VỚI ĐỨC THÁNH LINH!” (1Cô. 12:7) “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời.” (1Phi. 4:10) Sự hiểu biết về Đức Thánh Linh phải dẫn đến sự hưởng ứng đối với Đức Thánh Linh vì sự hiểu biết về Đức Thánh Linh soi sáng cho Cơ Đốc Nhân nhiều điều, trong đó có việc nhận biết và thực hành các ân tứ thuộc linh đã được Đức Chúa Trời ban cho để họ phục vụ Ngài qua việc phục vụ Dân Sự của Ngài trong Hội Thánh. Sự hưởng ứng đối với Đức Thánh Linh nói về phận sự thực hành các ân tứ thuộc linh của Cơ Đốc Nhân. Theo bản chất, sự hưởng ứng đối với Đức Thánh Linh chính là phận sự thực hành đức tin của người tín hữu của Đức Chúa Jêsus Christ (Gia. 2:26), sự hưởng ứng đối với Đức Thánh Linh một cách tận tụy là một phận sự Cơ Đốc chứ không phải là một sự tùy chọn cá nhân: “10Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời. 11Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen” (1Phi. 4:10-11) Phận sự hưởng ứng đối với Đức Thánh Linh là một đòi hỏi phổ quát đối với mọi Cơ Đốc Nhân vì mỗi tín hữu đều đã được trao ban ân tứ thuộc linh của Đức Chúa Trời: “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy đều được sự ích chung” (1Cô. 12:7) I. Bản Chất Và Mục Đích Của Ân Tứ Thuộc Linh Từ liệu Hy Lạp thường được sử dụng nhiều nhất để nói về ân tứ thuộc linh là charisma, một tiếng danh từ nói về sự ban cho của Đức Chúa Trời theo ý chỉ của Ngài, tức theo Ân Điển của Ngài: “Ơn của Đức Chúa Trời”… “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời” (1Phi. 4:10) Vì công việc của Đức Chúa Trời chỉ có thể được hoàn thành bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, mỗi ân tứ thuộc linh là một sự ủng hộ từ Đức Thánh Linh nhằm hình thành nơi người tín hữu một năng lực đặc biệt để góp phần gây dựng cho các tín hữu khác. Chúng ta có thể tìm thấy từ lời Kinh Thánh một số các nguyên tắc có liên quan đến sự thiết định của Đức Chúa Trời đối với ân tứ thuộc linh của Ngài: 1. Mỗi tín hữu đều có một hoặc nhiều ân tứ thuộc linh. “7Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy đều được sự ích chung... 11Mọi điều đó là công việc của đồng một Đức Thánh Linh mà thôi, theo ý Ngài muốn, phân phát sự ban cho riêng cho mỗi người” (1Cô. 12:7, 11) “Nhưng, đã ban Ân Điển cho mỗi một người trong chúng ta theo lượng sự ban cho của Đấng Christ” (Êph. 4:7) “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời” (1Phi. 4:10) 2. Có những tín hữu có được nhiều hơn một ân tứ thuộc linh. Vì ân tứ thuộc linh có tính phong phú và đa dạng, khả năng tổ hợp các ân tứ thuộc linh cũng rất cao. Mỗi tín hữu được ơn có nhiều ân tứ nhận được một tổ hợp năng lực thuộc linh phù hợp theo trách vụ mà Đức Chúa Trời đã ban cho họ. Sự nhìn nhận về sự tồn tại của các ân tứ này không đồng nhất: Có người cho rằng các ân tứ thuộc linh được ban cho là vĩnh viễn; ngược lại, có người lại tin rằng các ân tứ thuộc linh chỉ là hữu hạn theo tình huống. Cũng có người tin rằng các ân tứ thuộc linh được đề cập trong Rô. 12 và Êph. 4 có tính vĩnh viễn, còn các ân tứ thuộc linh được đề cập trong 1Cô. 12 là những ân tứ chỉ có tính tình huống… 3. Các ân tứ thuộc linh có thể đã được ban cho tại thời điểm người tín hữu nhận được sự tái sinh, nhưng các ân tứ ấy vẫn rất có thể không được người tín hữu ấy nhận biết trong một thời gian dài. Điều này có thể nhận thấy được trong thực tế qua việc có những tín hữu khám phá ra dần dần các ân tứ thuộc linh mà họ được Đức Chúa Trời ban cho. 4. Các ân tứ thuộc linh khác với bông trái Thánh Linh. Bông trái Thánh Linh được sản sinh từ bên trong, hình thành các nét tính cách thuộc linh Cơ Đốc cho người tín hữu, các ân tứ thuộc linh được chuyển giao từ bên ngoài vào (vì đó là sự ban cho). Bông trái Thánh Linh có liên quan đến các nét tính cách giống với Đức Chúa Jêsus Christ, ân tứ thuộc linh có liên quan đến sự hầu việc Đức Chúa Jêsus Christ. Bông trái Thánh Linh về tình yêu thương là nền của mọi ân tứ thuộc linh (Sv. 1Cô. 13). Bông trái Thánh Linh là đời đời cho con người của người tín hữu, ân tứ thuộc linh là chỉ một thời cho sự hầu việc trong Hội Thánh (Sv. 1Cô. 13:8). 5. Ân tứ thuộc linh khác với năng lực tự nhiên. Cả năng lực tự nhiên và ân tứ thuộc linh đều được Đức Chúa Trời ban cho (Gia. 1:17) nhưng khác với các năng lực tự nhiên là điều vốn có một cách tự nhiên, không liên quan đến việc biến cải niềm tin; các ân tứ thuộc linh là những gì chỉ các Cơ Đốc Nhân mới có. Điểm mấu chốt để giúp phân biệt ân tứ thuộc linh với năng lực tự nhiên là ân tứ thuộc linh đến sau khi một người đã được tái sinh, được Đức Thánh Linh ban cho (bằng một cách nào đó) để dùng để góp phần cho việc gây dựng Hội Thánh. Đôi khi ân tứ thuộc linh trùng hợp với năng lực tự nhiên, nhưng vẫn cứ vượt trội hơn về phương diện động cơ, động lực, và động hướng – và nhờ đó mà có một chất lượng mới. Cả năng lực tự nhiên lẫn ân tứ thuộc linh đều cần được phát triển, phục vụ cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời (Sv. 1Cô. 10:31). 6. Ân tứ thuộc linh là quà tặng theo Ân Điển. Ân tứ thuộc linh được ban cho theo sự tể trị hoàn hảo của Đức Chúa Trời qua Đức Thánh Linh (Sv. 1Cô. 12:28-31; Êph. 4:10-11) cho nên không có lý do gì để người nhận được ân tứ thuộc linh khoe mình (1Cô. 4:7). Mỗi tín hữu trong Hội Thánh đều có vai trò độc đáo riêng cho mình theo ý chỉ của Đức Chúa Trời (1Cô. 12:18). Thật ra, điều mà ân tứ thuộc linh đòi hỏi nơi Cơ Đốc Nhân là sự trung tín (1Phi. 4:10), tận tụy (2Ti. 1:6), làm đẹp ý Đức Chúa Trời và chỉ một mình Đức Chúa Trời mà thôi (Gal. 1:10; 1Tê. 2:4). 7. Ân tứ thuộc linh là sự trang bị thuộc linh của Đức Chúa Trời cho Cơ Đốc Nhân để phục vụ Hội Thánh, gây dựng các tín hữu khác một cách có hiệu quả. Ân tứ thuộc linh không nhằm tô điểm cho cá nhân mà là để làm ích cho Hội Thánh (1Cô. 12:7) cho nên chia sẻ ân tứ thuộc linh để gây dựng nhau là một nội dung thông công chính (Sv. Rô. 1:11). Người nhận ân tứ thuộc linh chỉ là công cụ để tôn vinh hiển Đức Chúa Trời qua ân tứ thuộc linh mà họ được nhận (1Phi. 4:10-11) II. Khám Phá Và Phát Triển Ân Tứ Thuộc Linh Của Bản Thân Trong phần lớn các trường hợp, ân tứ thuộc linh của Cơ Đốc Nhân ở dạng tổ hợp các ân tứ có khả năng bổ sung cho nhau. Chẳng hạn, “mục sư, giáo sư”, “lãnh đạo, quản trị”, “truyền giáo, giảng dạy”, “nói tiếng lạ, thông giải tiếng lạ”, “phân biệt các thần, đuổi quỉ”,… Trong 1Cô. 12:4-6 Sứ Đồ PhaoLô có vẻ như đưa ra ba hạng mục ân tứ khác nhau: “sự ban cho” (Gr. χάρισμα [charisma], “ân tứ”), “chức vụ” (Gr. διακονία [diakonia]), và “việc làm” (Gr. ἐνέργημα [energema] “sự tác động”) và đó cũng là những hình thức tổ hợp các ân tứ thuộc linh. Trước khi bắt đầu khám phá các ân tứ thuộc linh của bản thân, nên tự đặt cho mình ba câu hỏi: 1. Tôi đã thực sự nhận được Ân Điển cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus hay chưa? Sở dĩ phải nêu lên câu hỏi này là vì ân tứ thuộc linh chỉ dành cho người tin mà thôi. 2. Tôi có thực sự sống trong mối thông công với Chúa hay không? Câu hỏi này cần phải được trả lời vì ân tứ thuộc linh chỉ có hiệu quả trên nền của bông trái thuộc linh mà thôi. 3. Tôi có thực sự muốn phát triển các ân tứ thuộc linh của mình không? Điều này cần phải được tra xét và phải có vì ân tứ thuộc linh không thể phát huy được tác dụng trong tình trạng bị chôn vùi (vô tình hoặc cố ý). Để có thể khám phá được một cách vững vàng các ân tứ thuộc linh của bản thân, có thể sử dụng một số hướng dẫn cơ bản như sau: 1. “Hỏi” Cầu xin Đức Chúa Trời chỉ cho mình biết các ân tứ thuộc linh nào mà Ngài đã ban cho mình (Php. 4:6-7; Gia. 1:5). Nhất định đây là một sự thỉnh cầu đẹp ý Đức Chúa Trời vì Đức Chúa Trời truyền cho chúng ta phải thực hành các ân tứ thuộc linh Ngài đã ban cho chúng ta (Sv. 1Phi. 4:10-11). 2. “Biết” Nghiên cứu Kinh Thánh cẩn thận để biết đúng và đủ các sự dạy dỗ Kinh Thánh vế ân tứ thuộc linh (Rô. 12; 1Cô. 12-14; Êph. 4;…). Có thể đọc them các sách khảo cứu tốt có liên quan; và trao đổi hiểu biết, kinh nghiệm trên vấn đề này với các tín hữu khác. 3. “Ham” Đức Chúa Trời muốn chúng ta được sống phấn chấn trong sự ham thích trong sạch (Sv. Thi. 37:4). Tự tra xét để biết mình có sự ham muốn như thế nào đối với các ân tứ thuộc linh của mình với lòng dạn dĩ (Sv. 1Ti. 3:1) và dâng lên Đức Chúa Trời nỗi lòng khát khao của mình “Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài” (Php. 2:13) 4. “Thử” Người ta phải thử mới có thể biết được mình sở trường trên phương diện nào. Tương tự, Cơ Đốc Nhân cũng phải biết thử nghiệm đối với những ân tứ thuộc linh đã được biết của mình. Nếu không thực hiện việc thử nghiệm, chúng ta sẽ không làm sao biết chắc được một điều gì đó có phải thực sự là ân tứ thuộc linh của mình hay không. 5. “Bám” Tiến trình thử nghiệm sẽ giúp xác lập năng lực thực hành đối với các ân tứ thuộc linh mà mình có. Bám chặt lấy việc thử nghiệm để nâng cao năng lực thực hành qua việc loại bỏ dần các nhược điểm, nâng cao dần các ưu điểm của bản thân. Cũng phải bám chặt sự nhận xét, đánh giá của những người hiểu biết về mình để tránh mắc bẫy của lòng kiêu ngạo và ảo giác của bản thân. 6. “Giữ” Việc thực hành các ân tứ thuộc linh (nếu quả thật là ân tứ thuộc linh) nhất định sẽ đem lại ba điều này: Sự bình an của bản thân, sự phước hạnh của tha nhân, và sự đáp ứng cho Hội Thánh. Phải giữ lấy một sự thực hành toàn tâm, toàn ý, trung tín để các ân tứ thuộc linh củng cố cho các trách vụ được giao được ngày càng vững vàng hơn. Để phát triển ngày càng cao hơn các ân tứ thuộc linh mà mình có, chúng ta có thể sử dụng các phương tiện sau đây: 1. Thực hành Phải thực hành, bản lãnh chỉ được hình thành nhờ thực hành. Trong việc thực hành, để tránh sai phạm lớn phải biết chọn phạm vi nhỏ để có cơ hội thực hành cho nhuần nhuyễn. 2. Đánh giá Phải có thái độ sẵn sàng tiếp nhận các sự nhận xét, đánh giá khách quan mới mong có được các thông tin có lợi cho các sự điều chỉnh cần thiết. Phải luôn tra xét cong việc bằng ba câu hỏi: Điều gì nên tiếp tục? Điều gì cần được điều chỉnh? Điều gì phải ngưng? 3. Học hỏi Phải biết vận dụng các tri thức và kinh nghiệm của người khác để giảm giá phải trả cho sự non kém của bản thân. III. Sử Dụng Chứ Không Lạm Dụng Ân Tứ Thuộc Linh Việc thực hành các ân tứ thuộc linh của mỗi cá nhân có tầm quan trọng sống còn đối với sự phát triển về số cũng như về lượng của Hội Thánh. Vì vậy, mỗi cá nhân phải hết sức thận trọng trong việc thực hành các ân tứ thuộc linh cá nhân, tránh khỏi càng nhiều các cạm bẫy nguy hiểm càng tốt: 1. Ân tứ thuộc linh được ban cho cá nhân nhưng không dành riêng cho lợi ích cá nhân. Sự gây dựng chung là ưu tiên chính yếu của ân tứ thuộc linh (Sv. 1Cô. 12:7), sự lợi ích cho bản thân là thứ yếu. 2. Ân tứ thuộc linh không thể có được nhờ công cán hay bằng sự van xin. Tự thân khái niệm “ân tứ” cho thấy được rằng ân tứ chỉ được ban cho bởi Ân Điển của Đức Chúa Trời (Êph. 4:7). Sự ban cho ân tứ thuộc linh là công việc của Đức Thánh Linh, “theo ý Ngài muốn” (1Cô. 12:11). 3. Ân tứ thuộc linh được ban cho theo ý chỉ tốt đẹp của Đức Chúa Trời nên không thể là nguyên nhân khiến cho cá nhân tự tôn hay tự ti. Ân tứ thuộc linh phải được xem là sự ủy thác từ Thiên Thượng để thi hành phận sự đối với Đức Chúa Trời chứ không phải là dấu hiệu của trạng thái, trình độ thuộc linh, thành tích,… Mức độ trưởng thành thuộc linh (viên thục) được qui định theo bông trái Thánh Linh chứ không phải theo ân tứ thuộc linh (Sv. Gal. 5:22-23) 4. Ân tứ thuộc linh có thể bị lạm dụng theo sức mạnh của xác thịt. Dấu hiệu cơ bản của việc ân tứ thuộc linh bị lạm dụng theo sự chi phối của sức mạnh của xác thịt ở chỗ ân tứ thuộc linh được thực hành không theo động cơ, động lực, và động hướng mang tính yêu thương (1Cô. 13:1-3). 5. Ân tứ thuộc linh có thể bị làm giả mạo do sự ham muốn của xác thịt hoặc dưới sự ảnh hưởng của Ma Quỉ (Ma. 7:22-23; 2Cô. 11:13-15; 1Ti. 4:1; 2Phi. 2:1) Để có thể sử dụng các ân tứ thuộc linh một cách hợp Kinh Thánh, và để có thể tránh xa các sự sai lạc trong việc thực hành các ân tứ thuộc linh của bản thân, một số nguyên tắc căn bản cần phải được tuân thủ: 1. Động cơ chân thực của ân tứ thuộc linh là vì sự gây dựng Hội Thánh. Gây dựng Hội Thánh là phận sự phổ quát của mọi tín hữu. Mỗi Cơ Đốc Nhân đều có nghĩa vụ phải tham gia tích cực vào lĩnh vực mà mình có khả năng đóng góp tích cực nhất, qua đó ân tứ thuộc linh cá nhân sẽ được bộc lộ ra (Sv. 1Cô. 12:7; 1Phi. 4:10) 2. Động lực chân thực của ân tứ thuộc linh là chính Đức Thánh Linh. Ân tứ thuộc linh phải được thực hành trong sự nương cậy hoàn toàn vào quyền năng Đức Thánh Linh (Sv. Php. 4:13). 3. Động hướng chân thực của ân tứ thuộc linh là theo tình yêu thương. Tình yêu thương là nền chung cho mọi công trình được xây dựng bằng ân tứ thuộc linh (1Cô. 13:1-3). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“MỘT SỰ DIỄN GIẢI VỀ ‘NGƯỜI NỮ TÀI ĐỨC’” (Châm. 31: 10-31) “Duyên là giả dối, sắc lại hư không; Nhưng người nữ nào kính sợ Đức Giêhôva sẽ được khen ngợi.” (Châm. 31:30) Đối với Đức Chúa Trời, đức trung thành là một mỹ đức quí hiếm đến độ Kinh Thánh cũng phải phán rằng “ai sẽ tìm được” người trung thành (Sv. Châm. 20:6). Đối với Ápraham, một người nữ tài đức là quí vô giá cho nên ông đã sai phái gia nhân đến tận một phương xa để tìm kiếm cho con trai mình (Sv. Sáng. 24:3, 4). Cái vô giá mà Ápraham muốn tìm là điều ít ai tìm. Thường tình người ta hay tìm kiếm tài năng chứ không phải là đức hạnh; tìm kiếm giá trị bề ngoài chứ không phải giá trị bề trong. Mặt khác, cái người ta cần sẽ làm tăng giá trị cho cái người ta tìm. Cả đến Ađam trong trạng thái vô tội của mình cũng đã biết cần về nhu cần hoàn thiện cho chính mình và Đức Chúa Trời đã “làm nên một kẻ giúp đỡ” giống như Ađam (Sáng. 2:18). Thật ra, sự quí giá của Êva cao hơn mọi loại bửu ngọc. Không thể có châu báu nào có thể so sánh được với giá trị của một “kẻ giúp đỡ” như Êva… “11Lòng người chồng tin cậy nơi nàng,_Người sẽ chẳng thiếu huê lợi. 12Trọn đời nàng làm cho chồng được ích lợi,_Chớ chẳng hề sự tổn hại” (Châm. 31:11-12). Các câu Kinh Thánh này khẳng định giá trị của “người nữ tài đức” mà không hề nói gì về sự khác biệt của họ đối với các người nữ khác. Vế trước của mỗi câu Kinh Thánh này chỉ cho thấy tính cách làm vợ của “người nữ tài đức”. Chính lòng trung thành, sự toàn tâm, và nhiệt tình của “người nữ tài đức” làm cho họ trở nên đáng tin cậy. Người chồng cảm thấy mình được quan tâm, gánh nặng được chia sẻ, và tấm lòng được vơi nhẹ. Người chồng yên tâm khi vắng nhà nhờ nhận biết rằng phúc lợi của gia đình được vợ mình gìn giữ và mình sẽ được vui đón khi trở về. Đó là cách mà một người vợ trung thành và một người chồng trung tín ban phước cho nhau. Khi người vợ trang sức bằng đức hạnh thì người chồng chẳng còn có lý do gì để lo lắng cả. Khi người vợ trang sức bằng đức hạnh thì gia đình là nơi mà người chồng sẽ đặt trọn tấm lòng. Người chồng không cần phải xét nét gì đối với vợ mình cả. Người chồng sẽ không cần phải có bất cứ sự e dè hay lo lắng gì. Từ một tâm thế lãnh đạo như vậy người chồng mới có thể khích lệ vợ mình chăm sóc gia đình theo các phẩm hạnh của họ được. Tất cả những điều này đều được vận động theo một cơ chế khôn ngoan khiến cho người chồng chẳng còn cần phải tìm kiếm gì hơn, chẳng còn phải chịu sự cám dỗ nào khác, chẳng còn cần gì thêm cho mình ngoài hạnh phúc đã có trong gia đình. Một sự phối thuộc như vậy của người vợ sẽ cứ vững bền khi hai vợ chồng biết dành thì giờ cho nhau. Về phần người vợ, thay vì lợi dụng lòng tin của chồng “người nữ tài đức” sẽ cứ “tìm cách cho đẹp lòng chồng mình” mỗi ngày càng nhiều hơn (Sv. 1Cô. 7:34). Ước mong sao cho mọi gia đình đều có được “người nữ tài đức” như vậy! Thế nhưng hãy xem trường hợp của Êva, thay vì làm “một người giúp đỡ” Êva đã làm một kẻ cám dỗ. Trường hợp của vua Sôlômôn cũng tương tự khi bị các người vợ của vua làm cho tấm lòng kính yêu Đức Chúa Trời bị phai mờ. Chính Giêsabên đã là người kích động chồng mình làm những điều tàn ác, gớm ghiếc. Vợ của Gióp cũng chẳng kém khi bà nói với Gióp rằng “hãy phỉ báng Đức Chúa Trời, và chết đi!” (Gióp 2:9). Gánh nặng về “một người đàn bà hay tranh cạnh” (Sv. Châm. 21:9; 25:24) là một gánh nặng đau khổ và tất cả những điều này đều thuộc về một sự tương phản âm tính đối với đức hạnh của “người nữ tài đức”. Hình thức biểu hiện trên thực tế thường là một sự pha trộn giữa tốt và xấu nhưng phẩm hạnh của “người nữ tài đức” là phẩm hạnh tinh ròng, một phẩm hạnh tuyệt đối tốt. Sự khích lệ của chồng của “người nữ tài đức” trở thành là lợi và thú của họ. Được sống cho chồng là niềm vui lớn nhất của “người nữ tài đức”. Cho dầu đôi khi có thiếu sự khích lệ từ nơi chồng thì “người nữ tài đức” cũng chẳng bao giờ cưu mang lòng giận, hoài nghi, hờ hững, hay thiếu sự ân cần đối với chồng. “Người nữ tài đức” sẽ chẳng bao giờ để cho sự nhạy cảm của mình bị ảnh hưởng bởi những lúc quan hệ vợ chồng của mình trở nên gập ghềnh. Mối quan hệ bất vụ lợi này được hình thành từ một tâm tình tận hiến thể theo các nguyên tắc Cơ Đốc là những nguyên tắc giàu tính tôn trọng đối với cơ nghiệp hôn phối. Nếu quan hệ hôn phối thực sự là quan hệ phối thuộc thì sẽ không bao giờ có việc một bên hôn phối nào đó bị mất giá cả. Thật ra là trong một mối quan hệ hôn phối như vậy người ta hoàn toàn có thể kỳ vọng về sự tỏa sáng của “sự mầu nhiệm” hôn phối như một sự phản ánh mối quan hệ của “Đấng Christ và Hội Thánh” (Sv. Êph. 5:32). Điều mấu chốt trong quan hệ hôn phối là chồng quan tâm đối với sự yếu đuối của vợ và vợ biết chăm lo cho sự nghiệp của chồng. “13Nàng lo tìm lông chiên và gai sợi,_Lạc ý lấy tay mình mà làm công việc. 14Nàng giống như các chiếc tàu buôn bán,_Ở từ chỗ xa chở bánh mình về. 15Nàng thức dậy khi trời còn tối,_Phát vật thực cho người nhà mình,_Và cắt công việc cho các tớ gái mình. 16Nàng tưởng đến một đồng ruộng, bèn mua nó được;_Nhờ hoa lợi của hai tay mình, nàng trồng một vườn nho. 17Nàng thắt lưng bằng sức lực,_Và làm hai cánh tay mình ra mạnh mẽ. 18Nàng cảm thấy công việc mình được ích lợi;_Ban đêm đèn nàng chẳng tắt. 19Nàng đặt tay vào con quay,_Và các ngón tay nàng cầm con cúi. 20Nàng mở đưa tay ra giúp kẻ khó khăn,_Giơ tay mình lên tiếp người nghèo khổ. 21Nàng không sợ người nhà mình bị giá tuyết,_Vì cả nhà đều mặc áo bằng lông chiên đỏ sặm. 22Nàng làm lấy những chăn mền;_Áo xống nàng đều bằng vải gai mịn màu đỏ điều. 23Tại nơi cửa thành chồng nàng được chúng biết,_Khi ngồi chung với các Trưởng Lão của xứ. 24Nàng chế áo lót và bán nó;_Cũng giao đai lưng cho con buôn. 25Nàng mặc lấy sức lực và oai phong,_Và khi tưởng đến buổi sau, bèn vui cười. 26Nàng mở miệng ra cách khôn ngoan,_Phép tắc nhân từ ở nơi lưỡi nàng. 27Nàng coi sóc đường lối của nhà mình,_Không hề ăn bánh của sự biếng nhác” (Châm. 31:13-27). Đoạn Kinh Thánh này vẽ lên các nét tính cách đáng yêu của “người nữ tài đức” thể theo các quan niệm và nguyên tắc cổ đại quen thuộc với một sự áp dụng phổ quát cho toàn xã hội. Đoạn văn Kinh Thánh này không những chỉ vẽ ra hình ảnh người vợ của một người đàn ông có địa vị xã hội mà lại còn làm cho rõ nét về một bà mệnh phụ trong cương vị của một nội tướng. Đó chính là một người đàn bà “lấy nết na và đức hạnh giồi mình” là người “không dùng những tóc gióc, vàng, châu ngọc và áo quần quí giá” (1Ti. 2:10) nhưng không hề thua kém ai. Tuy nhiên, có một điều rất đáng để ý ở đây. Tiêu chuẩn tin kính được đề cập trong đoạn văn Kinh Thánh này không phải là một loại tiêu chuẩn tôn giáo xuất thế, ẩn cư để sống biệt lập đối với thế gian hầu có được sự tương giao mật nhiệm với Đức Chúa Trời. Tiêu chuẩn được đề cập ở đây không hề mang màu sắc khổ hạnh tu viện mà nhiều người nhầm tưởng là đỉnh cao của sự hoàn hảo của Cơ Đốc Giáo. Phần lớn các nét đặc trưng của “người nữ tài đức” được mô tả trong đoạn văn Kinh Thánh này thuộc về tính cách cá nhân và phẩm hạnh nội trợ, gia đình. Tự thân các nét đặc trưng của “người nữ tài đức” được mô tả trong đoạn văn Kinh Thánh này cũng chính là một sự phê phán không lời đối với đối với thói chây lười vẫn thường thấy ở một số người! Thế nhưng chúng ta hãy cùng nhau xem xét chi tiết hơn đối với bức tranh được tả vẽ qua đoạn văn Kinh Thánh này. Trước hết chúng ta nhận thấy các thói quen cá nhân của “người nữ tài đức” đầy nghị lực. Thời xưa, những người nữ thượng lưu vẫn thường hay đảm nhiệm cả việc lao động chân tay và tạp dịch. Nguyên tắc chính của họ là hy sinh bản thân. “Người nữ tài đức” luôn nêu gương chuyên cần và ý thức tự trọng cho các gia nhân của mình. Họ không gán cho các tôi tớ mình những gì mà họ chưa nêu gương làm trước, họ điều khiển gia nhân mình cách đầy hiệu quả qua việc tự điều khiển mình. “Người nữ tài đức” tự tay mình dệt vải. Việc khâu vá cho gia đình cũng là một việc mà “người nữ tài đức” tự tay làm lấy. Thay vì luôn mồm ra lệnh thì “người nữ tài đức” dùng chính đôi tay mình tận tụy lao động để nêu gương. Thay vì quát tháo, mệnh lệnh thì “người nữ tài đức” tự tay mình làm lo việc canh cửi mà không nề hà gì hết. “Người nữ tài đức” chịu thức khuya, biết dậy sớm từ khi trời chưa sáng. Thành quả do công việc mình tạo ra được “người nữ tài đức” chuyển thành hóa tài và lương thực cho gia đình. Các sản phẩm như thảm thêu, vải gai, nịt ngực do “người nữ tài đức” làm ra đều có chất lượng cao. “Người nữ tài đức” để tất cả tấm lòng và sức lực mình vào trong công việc của mình, không câu nệ bất cứ sự chi có ích cho vị trí người nữ của mình. Bằng việc tận tụy trong việc nhà, “người nữ tài đức” đã gián tiếp đóng góp phần tích cực của mình vào cộng đồng. “Người nữ tài đức” còn lo cả đến việc tạo mãi điền sản cho gia đình hầu cho mùa màng và thu nhập sẽ được sung túc hơn. Qua các sự qua sát này chúng ta cũng nhận ra vai trò “bà chủ” của “người nữ tài đức” trong gia đình của mình. “Người nữ tài đức” được ngợi khen chẳng những nhờ họ biết “kính sợ Đức Giêhôva” (Sv. Châm. 31:30) mà là còn nhờ họ biết “cai trị nhà mình” (Sv. 1Ti. 5:14) qua việc họ hoàn thành phận sự mình cách chu toàn cả về thời gian lẫn khối lượng công việc. Trật tự gia đình theo Kinh Thánh là người chồng phải “đi ra, đến công việc mình, và làm cho đến chiều tối” (Sv. Thi. 104:23) và người nữ phải “có nết na, trinh chánh, trông nom việc nhà; lại biết ở lành, vâng phục chồng mình” (Sv. Tít 2:5). Thật là một hình ảnh đẹp khi thấy một “người nữ tài đức” bằng tất cả sự chăm chỉ, hy sinh, và nhiệt tình “xây cất nhà mình” (Sv. Châm. 14:1) theo những cách như thế. “Người nữ tài đức” đã thức dậy từ khi trời vẫn còn tối không phải là để được khen ngợi, tán dương mà là để cho gia đình mình đủ ăn, đủ mặc. Sự khéo léo mà “người nữ tài đức” có được cũng là một điều thật đáng kể… “Người nữ tài đức” vừa giỏi việc vừa giỏi quản trị gia nhân đến mức chẳng ai có thể tìm thấy bất cứ lý do nào để buộc họ tội lười nhác được. Mặt khác, trong việc quản trị gia đình “người nữ tài đức” rất xem trọng trật tự nội bộ. Tài quán xuyến của “người nữ tài đức” không chỉ giới hạn giữa vòng các gia nhân mình mà còn lan ra đến việc giúp đỡ cho những người nghèo thiếu của cộng đồng. Lòng của “người nữ tài đức” đã mở rộng “cho kẻ đói” (Sv. Ês. 58:10) nên tay của “người nữ tài đức” cũng đã “sè tay mình ra” (Sv. Phục. 15: 8) cho những người xa lạ bằng tất cả tình yêu thương chan chứa trong lòng mình để từ đó mà “lòng người góa bụa nức nở vui mừng” (Sv. Gióp 29:13; Công. 9:39). Tâm hồn và phong cách của “người nữ tài đức” cũng đươc thể hiện theo cùng một cách để rồi tất cả đều hợp lại để làm nổi bật chức nghiệp của họ: Người mệnh phụ không phải chỉ có duy nhất luật yêu thương mà cũng còn có luật khôn ngoan mà hình thức thể hiện trên cung cách nói năng là sự ưu ái, dịu dàng. Lòng yêu thương và sự khôn ngoan trong đời sống của “người nữ tài đức” luôn được thể hiện qua hình thức nói năng khiến cho “người nữ tài đức” trở nên “mão triều thiên cho chồng nàng” (Châm. 12:4). Nhờ “người nữ tài đức”, chồng họ được kính nể trong giới lãnh đạo địa phương. Chồng của “người nữ tài đức” được củng cố về địa vị chẳng những nhờ tài năng và đức độ của chính mình mà cũng còn nhờ vào sự ổn định, tính nổi danh, và tầm bề thế của gia đình mà “người nữ tài đức” xây dựng được. Đối với “người nữ tài đức”, các phước hạnh đa phương và rõ nét được khởi xuất chủ yếu từ chính tính cách của họ. Sức mạnh của con người bề trong, sự dũng cảm và quyết tâm Cơ Đốc của “người nữ tài đức” giúp họ thắng vượt mọi trở ngại để tiến lên. Thanh danh của “người nữ tài đức” là một sự ấn chứng rằng họ được Đức Chúa Trời đẹp ý như thế là một đầy tớ trung tín của Ngài, là con gái của Ân Điển Ngài, là người thừa thọ sự vinh hiển của Ngài… “28Con cái nàng chỗi dậy, chúc nàng được phước;_Chồng nàng cũng chỗi dậy, và khen ngợi nàng rằng: 29Có nhiều người con gái làm lụng cách tài đức,_Nhưng nàng trổi hơn hết thảy. 30Duyên là giả dối, sắc lại hư không;_Nhưng người nữ nào kính sợ Đức Giêhôva sẽ được khen ngợi. 31Hãy ban cho nàng bông trái của tay nàng;_Khá để các công việc nàng ngợi khen nàng tại trong cửa thành” (Châm. 31:28-31). Khi sống cho lợi ích của tha nhân “người nữ tài đức” cũng đã sống cho lợi ích của chính mình. Đối với một người nữ, trên đời này chẳng còn gì đáng mừng hơn là được con cái kính trọng và được chồng yêu quí. Chúng ta có thể tự đặt mình vào vị trí của “người nữ tài đức” để thấu hiểu được phước hạnh của họ. Theo dòng thời gian các con cháu của “người nữ tài đức” lớn lên và cùng nhau sống quây quần chung quanh họ. Có lẽ cuộc sống quần cư của các thế hệ giúp họ tiếp nối được truyền thống tốt đẹp mà “người nữ tài đức” đã xây dựng được cho gia đình mình. Gương tốt của “người nữ tài đức” luôn luôn sống động trước mặt các con cháu của “người nữ tài đức” và họ luôn được hưởng lợi từ những sự dạy dỗ dịu dàng, lời khuyên bảo khôn ngoan, nền nếp đường hoàng, mẫu mực thánh khiết,… Con cháu của “người nữ tài đức” sẽ không ngừng ca ngợi họ và chúc tụng Đức Chúa Trời về ơn của Ngài qua “người nữ tài đức”. Cái đẹp ở “người nữ tài đức” không phải chỉ ở nhan sắc chóng tàn phai mà là ở tấm lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Sự hài lòng của chống đối với “người nữ tài đức” là mãi mãi. Dầu thuận thời hay nghịch cảnh “người nữ tài đức” luôn luôn là niềm a ủi, khích lệ lớn lao của chồng họ… Trong một viễn cảnh như thế “người nữ tài đức” được chồng con và cả gia đình luôn đánh giá cao, cao hơn bất cứ người nữ đẹp đẽ nào khác! Thế nhưng vì sao sắc đẹp ngoại hình của “người nữ tài đức” không hề được nhắc đến trong suốt đoạn Châm Ngôn này? Lý do khá đơn giản! Tất cả những gì thuộc về “người nữ tài đức” được miêu tả ở đây có một giá trị bền vững đối với cả Thiên Thượng lẫn thế hạ còn những gì con mắt của người ta ưa thích thường chẳng được trường tồn. Vẻ đẹp của ngoại hình, sự cuốn hút của dung nhan thường là giả tạo và kết cuộc cách chua chát hơn là trước đó người ta đã tưởng. Sắc đẹp sẽ chóng phai tàn, chỉ cần mọt cơn bạo bệnh là mọi việc sẽ đổi khác đi cách bất ngờ: “Khi Chúa trách phạt loài người vì cớ gian ác,Thì Chúa làm hao mòn sự đẹp đẽ họ khác nào như con sùng:_Thật, mọi người chỉ là hư không” (Thi. 39:11). Sắc đẹp nào cũng sẽ phải tàn tạ với thời gian và trong những lúc gieo neo sắc đẹp cũng chẳng đem lại được niềm vui. Lắm khi chính sắc đẹp là nguồn tai họa vì sức cám dỗ của nó. Sắc đẹp của một con người có một bản chất nội tại không đẹp sẽ khiến cho con người của họ trở thành một tổ hợp mâu thuẫn không chấp nhận được: “Một người đàn bà đẹp đẽ mà thiếu dẽ dặt,_Khác nào một vòng vàng đeo nơi mũi heo” (Châm. 11:22). Bức tranh về “người nữ tài đức” được mô tả trong đoạn Châm Ngôn này là một sự mô tả theo quan điểm Thiên Thượng khởi đầu từ đức hạnh và sau đó được làm rõ bằng các nét tính cách cặp theo để làm nổi bật về chân dung của một người nữ kính sợ Đức Chúa Trời (Sv. Châm. 31:10, 30). Mọi phương diện tốt đẹp của “người nữ tài đức” đã được kể ra hết trong đoạn Châm Ngôn này: Lòng trung thành đối với chồng, các thói quen tốt trong đời sống, sự quản trị gia đình chu đáo, phẩm hạnh dè giữ, tính giàu nhân đức đối với kẻ cơ hàn, lòng tốt đối với tất cả mọi người… Tất cả các phẩm chất tốt đẹp này chỉ có thể lưu xuất từ một đời sống tin kính sống động. Nguyên tắc “nhờ trái biết cây” được thấy ở đây: “Vậy, hễ cây nào tốt thì sanh trái tốt; nhưng cây nào xấu thì sanh trái xấu” (Ma. 7:17). Đây là những bông trái của một đời sống tuân thủ các nguyên tắc Kinh Thánh mà một con người thiên nhiên (vốn đã bị sa bại theo nguyên tội) không sao có thể sản sanh ra được. Sự miêu tả của đoạn Châm Ngôn này đáng được lấy làm chuẩn mực cho mọi người trong việc chọn lựa người hôn phối. Đó là phải lấy đức hạnh làm tiêu chí tối cao chứ không phải là sắc đẹp. Sự miêu tả này làm rõ nét sự tương phản giữa niềm vui giả tạo trong sắc đẹp với hạnh phúc đích thực sẽ được tìm thấy nơi một người nữ kính sợ Đức Chúa Trời. Và đó chính là nền tảng vững bền của hạnh phúc chân thực trong hôn nhân. Beveridge nói: “Nếu yêu vì sắc đẹp, khi sắc đẹp phai tàn thì cả tình lẫn nghĩa cũng sẽ tàn phai. Nếu yêu vì đức hạnh, cho dầu nhan sắc cũ mòn thì tình nghĩa vẫn cứ còn nguyên vẹn”. Matthew Henry nói rằng: “Sự miêu tả của đoạn Châm Ngôn này đáng cho mọi người nữ lấy làm lăng kính trên vấn đề nhìn nhận sắc đẹp để họ biết trang sức cho mình theo tiêu chuẩn Thiên Thượng mà được tôn trọng, ngợi khen, và vinh hiển trong Ngày Của Chúa”. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“YẾU TỐ ĐỨC TIN TRONG ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC” (Hê. 10:38-39) “Người công bình của ta sẽ cậy đức tin mà sống, Nhưng nếu lui đi thì linh hồn ta chẳng lấy làm đẹp chút nào. Về phần chúng ta, nào phải là kẻ lui đi cho hư mất đâu, bèn là kẻ giữ đức tin cho linh hồn được cứu rỗi.” (Hê. 10:38-39) Về bản chất, đời sống Cơ Đốc là đời sống theo đức tin (Sv. 2Cô. 5:7). Chính đức tin là yếu tố quyết định đưa chúng ta bước vào đời sống Cơ Đốc, và chính nhờ đức tin mà chúng ta sống đời sống Cơ Đốc cho đến cuối cùng. Một khi chúng ta biết bắt đầu đời sống Cơ Đốc bằng việc đến với Đức Chúa Jêsus Christ để cầu xin sự tha thứ thì chúng ta cũng bắt đầu biết được rằng sự tha thứ mà chúng ta được Ngài ban cho không thể nào có được bằng bất cứ sự gì khác ngoài đức tin (Sv. Êph. 2:8). Tất nhiên là những người tin rằng bằng việc công đức họ cũng có thể có sự cứu rỗi sẽ không tin điều mà chúng ta tin nhưng ấy là bởi ý chỉ của Đức Chúa Trời mà việc lành không bao giờ đem lại sự cứu rỗi cho ai được cả (Sv. Êph. 2:9). Việc lành đẹp ý Đức Chúa Trời là việc lành của đời sống đức tin của chúng ta (Sv. Êph. 2:10). Đức tin là xuất phát điểm, phạm vi đề cập, và cũng là đích điểm của đời sống Cơ Đốc (Sv. Gal. 3:11). Lẽ thật ấy cũng được Sứ Đồ Phaolô rao ra theo một cách khác để cho thấy tính sinh động của đức tin Cơ Đốc trong đời sống Cơ Đốc chúng ta: “16Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin Lành đâu, vì là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin, trước là người Giuđa, sau là người Gờréc; 17vì trong Tin Lành nầy có bày tỏ sự công bình của Đức Chúa Trời, bởi đức tin mà được, lại dẫn đến đức tin nữa, như có chép rằng: Người công bình sẽ sống bởi đức tin” (Rô. 1:16-17). Bởi đức tin chúng ta đã đến với Tin Lành của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ và đã có được sự sống đời đời ở trong Ngài. Cũng bởi đức tin chúng ta đang nhờ Tin Lành mà mối quan hệ giữa chúng ta với Đức Chúa Trời ngày càng mật thiết hơn theo sự tăng tiến của chúng ta trong việc hiểu biết Ngài và ân điển của Ngài. Chính vì vậy mà đời sống đức tin không phải chỉ là một sự tự nhận, tuyên bố, hay công bố mà là một chuỗi nghiên cứu Lời Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh liên tục và vô tận để sống một đời sống ngày càng vâng lời Ngài nhiều hơn (Sv. 2Phi. 3:18). Chúng ta không thể nào sống vâng lời Đức Chúa Trời mà lại chưa biết Lời Đức Chúa Trời. Một khi Lời Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh chưa được chuyển hóa thành máu thịt và hơi thở của chúng ta thì tính xác thịt vẫn cứ còn làm chủ trên đời sống của chúng ta và vì vậy mà việc chúng ta tưởng rằng mình đang sống bằng đức tin chỉ là một giấc mơ không có thật. Ước gì các Cơ Đốc Nhân hiện còn đang sống như vậy thôi đừng chiêm bao nữa để thấy rằng đời sống Cơ Đốc theo Kinh Thánh là đời sống theo Lời Kinh Thánh: “Tôi đã bị đóng đinh vào Thập Tự Giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi” (Gal. 2:20). Sống đời sống Cơ Đốc là sống trong một tình trạng mới, sống trong một mối trong mối quan hệ mới, và sống trong một tấm lòng mới đối với Đức Chúa Trời; đó là một đời sống mà những điều ấy đã bắt đầu được đổi mới, đang được đổi mới, và sẽ cứ còn được đổi mới cho đến khi chúng ta được bước vào sự vinh hiển của Đức Chúa Trời: “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (2Cô. 5:17). Quan niệm rằng một đời sống theo đức tin là một đời sống phẳng lặng là chưa hiểu Kinh Thánh và chưa biết ý chỉ của Đức Chúa Trời. Đời sống theo đức tin chẳng những là một đời sống từ bỏ bản ngã mà cũng còn là một đời sống chấp nhận gian truân. Đó là một đời sống mà đức tin nơi Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ phải chịu thử thách không ngừng. Đó không bào giờ là một đời sống chỉ luôn mồm công bố theo kiểu duy ý chí chứ không biết sống tách lý thế gian (Sv. 1Gi. 2:15-16) để tận hiến cho Đức Chúa Trời (Sv. Rô. 12:1-2) và sống tận hiến cho Đức Chúa Trời để tách ly thế gian. Đời sống đức tin nhờ đức tin làm xuất phát điểm (Sv. Êph. 2:8), bởi đức tin mà có phạm vi đề cập (Sv. 2Cô. 5:17), và theo đức tin mà đạt được đích điểm (Sv. Êph. 1:13-14): “38Người công bình của ta sẽ cậy đức tin mà sống, Nhưng nếu lui đi thì linh hồn ta chẳng lấy làm đẹp chút nào. 39Về phần chúng ta, nào phải là kẻ lui đi cho hư mất đâu, bèn là kẻ giữ đức tin cho linh hồn được cứu rỗi” (Hê. 10:38-39) Đức tin là yếu tố xuyên suốt đời sống Cơ Đốc: Từ đức tin mà Cơ Đốc Nhân có được sự cứu rỗi và cũng từ đức tin mà sự cứu rỗi họ có được kiên bảo đời đời. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHẢI THÀNH TÂM VÀ TRUNG TÍN!” (Giô. 24:14-15) “Vậy, bây giờ hãy kính sợ Đức Giêhôva, và phục sự Ngài cách thành tâm và trung tín.” (Giô. 24:14a) Sách Giôsuê mở đầu bằng những lời như thế này: “1Sau khi Môise, tôi tớ của Đức Giêhôva, qua đời, Đức Giêhôva phán cùng con trai của Nun, tôi tớ của Môise, mà rằng: 2Môise, tôi tớ Ta, đã chết; bây giờ ngươi và cả dân sự này hãy đứng dậy đi qua sông Giôđanh, đặng vào xứ mà Ta ban cho dân Ysơraên… 10Bấy giờ Giôsuê truyền lịnh cho các quan trưởng của Dân Sự mà rằng: 11Hãy chạy khắp trại quân, truyền lịnh nầy cho Dân Sự rằng: Hãy sắm sẵn thực vật, vì trong ba ngày nữa các ngươi sẽ đi ngang qua sông Giôđanh nầy, đặng đánh lấy xứ mà Giêhôva Đức Chúa Trời các ngươi ban cho mình làm sản nghiệp” (Giô. 1:1-2, 10-11) Giôsuê đã thành tâm và trung tín trong chức nghiệp hầu việc mà Đức Chúa Trời ủy thác cho mình cho đến hơi thở cuối cùng. Lời của Giôsuê nói ra theo ý muốn của Đức Chúa Trời đã được Dân Sự nghe và làm theo, và họ đã chiếm được xứ mà Đức Chúa Trời hứa ban cho họ. Giữa vòng Hội Thánh ngày nay, lời của đầy tớ Đức Chúa Trời có còn được Dân Sự của Ngài lắng nghe, giữ lấy, và làm theo một cách thành tâm và trung tín hay không? I. NGHE LỜI PHẢI NGHE… Những lời dặn dò cuối cùng của một người trước lúc lâm chung luôn luôn quan trọng. Trong một chừng mực nhất định, những lời cuối cùng là một cách tóm tắt hoài bão của cả một đời người bằng việc đề cập những điều bức xúc nhất. Chẳng hạn, Giôsép nói trong những lời cuối cùng của mình như sau: “24Em sẽ chết, nhung Đức Chúa Trời sẽ đến viếng anh em thật; đem các anh em về xứ mà Ngài đã thề hứa cùng Ápraham, Ysác, và Giacốp. 25Giôsép biểu các con trai của Ysơraên thề mà rằng: Quả thật, Đức Chúa Trời sẽ đến viếng các anh em; xin anh em hãy dời hài cốt tôi khỏi xứ nầy” (Sáng. 50:24-25) Chúng ta cũng có thể nhắc đến những lời cuối cùng của Môise tổng kết một chặng đường dài thoát khỏi xứ nô lệ: “Ồ! Ysơraên, ngươi có phước dường bao!_Hỡi dân được Đức Giêhôva cứu rỗi, ai giống như ngươi?_Ngài là cái thuẫn giúp đỡ ngươi,_Thanh gươm khiến cho ngươi nên vinh hiển._Kẻ thù nghịch ngươi sẽ đến dua nịnh ngươi;_Còn ngươi, ngươi sẽ lấy chân giày đạp các nơi cao của chúng nó” (Phục. 33:29) Sứ Đồ Phaolô cũng có những lời cuối cùng cho Hội Thánh qua việc dặn dò người môn đồ của mình là Timôthê: “Nguyền xin Chúa ở cùng tâm thần con! Cầu xin Ân Điển ở cùng các anh em!” (2Ti. 4:22) Những lời cuối cùng của Giôsuê chứa đựng cả một sự thúc giục đầy nhức nhối cho mỗi ngươi chúng ta suy gẫm, hầu làm nền tảng để chúng ta xây dựng đời sống tin kính của mình. Theo thời điểm của đoạn văn Kinh Thánh này (Giô. 24:14-15), đó chính là lúc Giôsuê sắp qua đời, là lúc Giôsuê muốn dặn dò Dân Sự Đức Chúa Trời về phận sự bao quát nhất của họ: “14Vậy, bây giờ hãy kính sợ Đức Giêhôva, và phục sự Ngài cách thành tâm và trung tín; hãy bỏ xa các thần mà tổ phụ các ngươi hầu việc bên kia sông, và tại xứ Êdíptô, phải phục sự Đức Giêhôva. 15Nếu chẳng thích cho các ngươi phục sự Đức Giêhôva, thì ngày nay hãy chọn ai mà mình muốn phục sự, hoặc các thần mà tổ phụ các ngươi đã hầu việc bên kia sông, hoặc các thần dân Amôrít trong xứ mà các ngươi ở; nhưng ta và nhà ta sẽ phục sự Đức Giêhôva” (Giô. 24:15-15) Đoạn văn này là sự kêu gọi thiết tha đối với Dân Sự Đức Chúa Trời. Đây là một sự kêu gọi được đặt dưới dạng giao ước. Sứ điệp của Giôsuê là sứ điệp kêu gọi lòng trung thành kết ước của các Cơ Đốc Nhân trong đời sống theo Chúa của họ. Sứ điệp này vẫn còn nguyên giá trị cho mỗi Cơ Đốc Nhân trong Hội Thánh! II. TRẢ GIÁ PHẢI TRẢ… Để sống thành tâm và trung tín cho Đức Chúa Trời, có một giá mà người tín hữu phải trả, Giôsuê tuyên bố rõ ràng: “Nếu chẳng thích cho các ngươi phục sự Đức Giêhôva…” (C. 15a) Từ liệu “chẳng thích” được sử dụng ở đây là một từ liệu Hêbơrơ (Hb. עער [ra‘a‘]) có nghĩa khá rộng: “Dở”, “không thuận lợi”, hay “kém”, “xấu” hoặc ngay cả đến “tai họa” như Môise đã dùng khi nhấn mạnh với Dân Sự Đức Chúa Trời về con đường mà họ chọn để theo: “Hãy xem, ngày nay ta đặt trước mặt ngươi sự sống và phước lành, sự chết và tai họa (Hb. עער [ra‘a‘])” (Phục. 30:15) Và, sự phước lành hay sự rủa sả là tùy ỏ sự chọn lựa cá nhân: “Ngày nay ta bắt trời và đất làm chứng cho các ngươi rằng ta đã đặt trước mặt các ngươi sự sống và sự chết, sự phước lành và sự rủa sả. Vậy, hãy chọn sự sống hầu cho ngươi và dòng dõi ngươi được sống” (Phục. 30:19) Từ liệu này có nghĩa rộng vì nó không hàm ý trực tiếp về điều ác, điều xấu, hay sự tai họa mà thường thường có nghĩa là “không vui lòng’, “không thấy thú vị”, “miễn cưỡng”,… do các sự khó khăn thể chất hay tinh thần tạo ra. Giôsuê nhận thức được rằng Dân Sự Đức Chúa Trời đã phải trải qua vô vàn khó khăn, thử thách trên bước đường theo Ngài nên từ liệu được dùng ở đây là để nói về hậu quả bất lợi trên tâm lý, thần kinh của con người. Giôsuê lãnh đạo một tập thể phải lặn lội suốt bốn mươi năm trong sa mạc và các miền cận sa mạc. Họ đã phải chịu đựng khí hậu khắc nghiệt. Họ đã trải qua những ngày, tháng đói cơm, khát nước. Họ đã phải đối diện từ nguy hiểm này đến nguy hiểm khác của quân thù. Họ đã phải vâng lệnh vượt sông giữa mùa nước tràn bờ. Họ đã phải chịu cắt bì giữa lúc quân thù đang kề cận một bên và vì vậy mà chỉ một đám binh tầm thường cũng đã thắng được họ. Họ đã thất bại ê chề tại thành Ahi vì tội lỗi giữa vòng Dân Sự. Họ cũng đã phải chứng kiến cái chết đau đớn của những người thân của mình khi họ không chịu vâng lời Đức Chúa Trời… Dầu rằng Dân Sự Đức Chúa Trời đã chiến đấu và chiến thắng nhưng những mất mác quá khứ và hiện tại vẫn thường xuyên gặm nhấm khiến họ mỏi mòn. Dầu họ có một mối tương giao thường trực và gần gũi với Đức Chúa Trời nhưng không phải nhờ đó mà họ được miễn trừ cái giá phải trả. Trái lại, giá phải trả của một Cơ Đốc Nhân thật là thật: “Hãy nhớ lời Ta đã nói cùng các ngươi. Đầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Ta, ắt họ cũng bắt bớ các ngươi; bằng họ đã giữ lời Ta, ắt cũng giữ lời các ngươi” (Gi. 15:20) Cơ Đốc Nhân thật không ngại giá phải trả để vâng lời Cứu Chúa yêu dấu của mình, họ xả thân cho mối tương giao mật thiết mà Đấng Sáng Tạo và Tể Trị đã đẹp ý chiếu cố đối với họ là loài thọ tạo hữu hạn của Ngài. Cơ Đốc Nhân thật không xem các yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với họ là quá cao. Cơ Đốc Nhân thật sống xả thân nhờ sự giàu có vô lượng vô biên thể theo thuộc tính vốn có của Đức Chúa Trời chứ không lợi dụng sự giàu có, rời rộng của Đức Chúa Trời cho sự giàu sang ích kỷ và tạm bợ của mình trên thế gian này. Đức Chúa Trời không thể nào là chỗ lợi dụng của ai được cả! Người ta sống là để làm đẹp ý Đức Chúa Trời chứ không phải Đức Chúa Trời hiện hữu là để chìu theo ý muốn của người ta! Cách duy nhất để người ta có thể hưởng lợi từ sự giàu có vô lượng, vô biên của Đức Chúa Trời là dấn thân cho Ngài: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (Ma. 6:33) “… 24Nếu ai muốn theo Ta, thì phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. 25Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ Ta mà mất sự sống thì sẽ được lại. 26Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Vậy thì ngươi lấy chi mà đổi linh hồn mình lại?” (Ma. 16:24-26) Để có thể chấp nhận giá phải trả, Cơ Đốc Nhân cần phải có một tấm lòng trung thực. Tất cả vấn đề là ở tấm lòng: Thích hay không thích! (Sv. Châm. 4:23) III. TRÁNH CÁM DỖ PHẢI TRÁNH… Giôsuê đã vạch trần một sự thật: “Nếu chẳng thích cho các ngươi phục sự Đức Giêhôva…” Nếu đã có điều “không thích” thì tất phải có điều “thích”. Một khi Giôsuê đã nêu lên vấn đề “chẳng thích” thì có nghĩa là không phải tất cả mọi Cơ Đốc Nhân đều thành tâm, trung tín phục sự Đức Chúa Trời của mình; mà cũng còn có những người, dầu vẫn được nhìn nhận là Cơ Đốc Nhân, thích những điều gì đó không phù hợp theo “ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời” (Rô. 12:2). Đó chính là những người không biết rằng giữa thế gian này, làm một Cơ Đốc Nhân là làm một “người dại”: “13Chúng tôi là kẻ ngu dại vì cớ Đấng Christ, nhưng anh em được khôn ngoan trong Đấng Christ; chúng tôi yếu đuối, anh em mạnh mẽ; anh em quí trọng, chúng tôi khinh hèn. 11Cho đến bây giờ, chúng tôi vẫn chịu đói khát, trần mình, bị người ta vả trên mặt, lưu lạc rày đây mai đó. 12Chúng tôi dùng chính tay mình làm việc khó nhọc; khi bị rủa sả, chúng tôi chúc phước; khi bị bắt bớ, chúng tôi nhịn nhục, 13khi bị vu oan, chúng tôi khuyên dỗ; chúng tôi như rác rến của thế gian, cặn bã của loài người, cho đến ngày nay” (1Cô. 4:10-13) Thành thật mà nhìn nhận, phần lớn chúng ta đã đánh mất tầm nhìn này. Giữa vòng Cơ Đốc Nhân, có không ít người khát khao một cách điên cuồng sự vinh thân, phì gia. Về mặt danh nghĩa là người theo Chúa nhưng trên phương diện thực tế họ chạy theo các tiêu chuẩn thế gian. Giữa vòng Dân Sự Đức Chúa Trời ngày nay, nan đề không phải ở chỗ thiếu “người khôn” mà là có quá nhiều “người khôn”; chỉ có điều là họ không khôn theo Đức Chúa Trời mà “khôn” theo tiêu chuẩn thế gian. Tại sao? Đây là câu trả lời của Kinh Thánh: “Bởi vì sự rồ dại của Đức Chúa Trời là khôn sáng hơn người ta, và sự yếu đuối của Đức Chúa Trời là mạnh hơn người ta” (1Cô. 1:25) “15Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian, thì sự kính mến Đức Chúa Trời chẳng ở trong người ấy. 16Vì mọi sự trong thế gian, như sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời đều chẳng từ Cha mà đến, nhưng từ thế gian mà ra. 17Vả thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (1Gi. 2:15-17) Sự khôn ngoan theo ý riêng luôn luôn đem người ta ra khỏi ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống của họ, chính vì thế mà Giôsuê khẳng định: “14Vậy,… hãy bỏ xa các thần mà tổ phụ các ngươi hầu việc bên kia sông, và tại xứ Êdíptô... 15Hoặc các thần dân Amôrít trong xứ mà các ngươi ở…” (Giô. 24:14b-15b) Tôn giáo đích thực phải là một cuộc hạnh ngộ vô tận giữa cá nhân với chân thần duy nhất là Đức Chúa Trời, là cuộc tận hiến cá nhân để tận hưởng phước hạnh thiên thượng. Tôn giáo đích thực không phải chỉ là ý tưởng để theo đuổi, không phải chỉ là khái niệm để trầm tư, và nhất định không phải là trang sức để tô điểm hay công cụ để thu đoạt. “Hãy bỏ xa các thần mà tổ phụ các ngươi hầu việc bên kia sông, và tại xứ Êdíptô…” Đó chính là những đam mê ngày xưa khi còn ở trong đêm dài tội lỗi, khi chưa được cứu: “17Vậy, nầy là điều tôi nói và điều tôi nhân danh Chúa mà rao ra: Ấy là anh em chớ nên ăn ở như người ngoại đạo nữa, họ theo sự hư không của ý tưởng mình, 18bởi sự ngu muội ở trong họ, và vì lòng họ cứng cỏi nên trí khôn tối tăm, xa cách sự sống của Đức Chúa Trời. 19Họ đã mất cả sự cảm biết, đành bỏ mình trong một đời buông lung, đem lòng mê đắm không biết chán mà phạm hết mọi điều ô uế. 20Nhưng anh em học cho biết Đấng Christ thì chẳng phải như vậy, 21vì anh em đã nghe Đạo Ngài, và được dạy dỗ trong Ngài (y theo lẽ thật trong Đức Chúa Jêsus) 22rằng anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành, 23mà phải làm nên mới trong tâm chí mình, 24và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và thánh sạch của lẽ thật” (Êph. 4:17-24) Tôn giáo đích thực không bao giờ có thể là một thứ thời trang để gắn thêm vào người cho thêm rườm rà “hoa lá cành”. Tôn giáo đích thực phải có tác dụng của một cuộc lột xác trên đời sống cá nhân. Tôn giáo đích thực phải có tác dụng trả lại vẻ khôi ngô, tuấn tú vốn có của “Hoàng Tử Cóc” và trả lại vẻ mỹ miều thiên tiên của “Cô Tấm” trong chuyện đời xưa… “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (2Cô. 5:17) Mặt khác, “trước cổng Thiên Đàng vẫn còn đường đi Địa Ngục”! Cám dỗ vẫn cứ còn đeo đuổi người đã được cứu để vô hiệu hóa đời sống theo Chúa của họ, làm cho đời sống của họ không có bông trái cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Đó chính là “các thần dân Amôrít trong xứ mà các ngươi ở…”! Đây chính là lời cảnh báo của Giôsuê về những tội lỗi còn vấn vương trên đời sống các Cơ Đốc Nhân: “1Thế thì, vì chúng ta được nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây rất lớn, chúng ta cũng nên quên hết gánh nặng và tội lỗi dễ vấn vương ta, lấy lòng nhịn nhục theo đòi cuộc chạy đua đã bày ra cho ta, 2nhìn xem Đức Chúa Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin, tức là Đấng vì sự vui mùng đã đặt trước mặt mình, chịu lấy thập tự giá, khinh điều sỉ nhục, và hiện nay ngồi bên hữu ngai Đức Chúa Trời” (Hê. 12:1-2) Lời thách thức mà Giôsuê đặt ra trước Dân Sự của Đức Chúa Trời là lời kêu gọi về sự thành tâm và trung tín. Để được ở trong Đạo của Đức Chúa Trời, thành tâm và trung tín là những yếu tố không thể nào thiếu được. Cơ Đốc Nhân phải luôn luôn tỉnh thức trên từng bước đi của mình; biết rõ điều gì cần phải nghe và chấp nhận giá phải trả, điều gì cần phải nghe và làm theo, điều gì cần phải nghe và tránh không phạm vào. Cơ Đốc Nhân phải phấn đấu hết lòng để giữ vững lòng trung thành sắc son đối với Đấng yêu thương và cứu chuộc mình, hoàn thành sự kêu gọi vinh quang từ Thiên Thượng: “Vậy, bây giờ hãy kính sợ Đức Giêhôva, và phục sự Ngài cách thành tâm và trung tín…” (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“ÂN TỨ THUỘC LINH NHÌN TỪ THI. 127:1-2” (Thi. 127:1-2) “Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen.” (Thi. 127:1-2) Để có thể biết ân tứ thuộc linh là gì, ân tứ thuộc linh từ đâu đến, và ân tứ thuộc linh để làm gì chúng ta cần phải tra xét Lời Kinh Thánh là lời có thẩm quyền để có một sự giải đáp đủ thẩm quyền cho các câu hỏi ấy. Thi. 127:1-2 có thể đem lại cho chúng ta một tầm nhìn hợp Kinh Thánh trên vấn đề ân tứ thuộc linh… “1Nếu Đức Giêhôva không cất nhà,_Thì những thợ xây cất làm uổng công._Nhược bằng Đức Giêhôva không coi giữ thành,_Thì người canh thức canh luống công._2Uổng công thay cho các ngươi thức dậy sớm, đi ngủ trễ,_Và ăn bánh lao khổ;_Chúa cũng ban giấc ngủ cho kẻ Ngài yêu mến bằng vậy” (Thi. 127:1-2) Trong Thi. 127:1, chữ “cất” trong Tiếng Hêbơrơ là הנב [banah] có nghĩa là xây dựng, tức là có ý nói đến sự thiết lập. Thiết lập tức là làm cho vững mạnh, ổn định. Trên phương diện thuộc linh, tinh thần “thiết lập” mang ý nghĩ “định liệu”, “sắp đặt”. Trong Đức Chúa Trời, một đời sống được thiết lập là một đời sống được Ngài tấn phong và bổ nhiệm: Ngài định hình cho mỗi người để rồi Ngài định hướng họ trong những cương vị nhất định trong Hội Thánh của Ngài. Đức Chúa Trời định hình chúng ta để chúng ta được định hướng cho Ngài; và, trong khi chúng ta được định hướng trong Hội Thánh, chúng ta được định hình để trở nên giống Ngài nhiều hơn. Chúng ta không thể làm được gì ngoài Chúa! Chúng ta phải để Đức Chúa Trời thiết lập chúng ta giữa vòng Hội Thánh, và chính trong đời sống cá nhân của mình. Sự gây dựng mà mỗi người chúng ta có được chỉ có được nhờ bàn tay của Đức Chúa Trời mà thôi. Đức Chúa Trời ở trong mỗi cá nhân chúng ta, Ngài vận hành thông qua chúng ta qua những ân tứ thuộc linh mà chính Ngài ban cho chúng ta để các ân tứ ấy được sử dụng để gây dựng Hội Thánh của Đức Chúa Jêsus Christ, trong đó có mỗi một người chúng ta! “4Chỉ có một Thân Thể, một Thánh Linh, như anh em bởi chức phận mình đã được gọi đến một sự trông cậy mà thôi; 5chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép Báptêm; 6chỉ có một Đức Chúa Trời và một Cha của mọi người, Ngài là trên cả mọi người, giữa mọi người và ở trong mọi người. 7Nhưng, đã ban ân điển cho mỗi một người trong chúng ta theo lượng sự ban cho của Đấng Christ. 8Vậy nên có chép rằng:_Ngài đã lên nơi cao, dẫn muôn vàn kẻ phu tù,_Và ban các ơn cho loài người” (Êph. 4:4-8) Lời Kinh Thánh cho biết chúng ta có những gì? Chúng ta có: (1) Một Thân Thể là Hội Thánh của Đức Chúa Jêsus Christ; (2) Một Đức Thánh Linh; (3) Một sự trông cậy (sự cứu rỗi); (4) Một Chúa (Đức Chúa Jêsus Christ); (5) Một đức tin (không phải một hệ phái); (6) Một phép Báptêm; (7) Một Cha chung (Đức Chúa Trời), Ngài ở trên chúng ta, giữa vòng chúng ta, và trong mỗi người chúng ta! Tất cả mọi tín hữu trong Đức Chúa Jêsus đều cùng thuộc về một Thân Thể, được liên hiệp lại dưới duy nhất một Đầu là Đức Chúa Jêsus. Mỗi tín hữu đều được Đức Chúa Trời ban cho những năng lực nhất định để góp phần làm vững mạnh (gây dựng) cả Thân Thể (Hội Thánh). Khả năng để sử dụng trong Hội Thánh của mỗi người có thể nhiều hay ít nhưng tất cả đều là phần Đức Chúa Trời ban cho mỗi người để góp phần gây dựng cho Dân Ngài: “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy được sự ích chung” (1Cô. 12:7) “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời” (1Phi. 4:10) Có hai chân lý Kinh Thánh phải được ghi nhận ở đây. Thứ nhất, tất cả mọi người chúng ta đều đã được sự ban cho Đức Thánh Linh. Thứ hai, sự biểu lộ (bày tỏ, thể hiện) của những gì được Đức Thánh Linh ban cho chúng ta là nhằm làm ích cho tất cả chúng ta. Đức Thánh Linh bày tỏ chính Ngài giữa vòng chúng ta là để gây dựng cho Thân Thể của Đức Chúa Jêsus, tức Hội Thánh. Như vậy, ân tứ thuộc linh không phải là bởi chúng ta làm ra, mà là Đức Chúa Trời ở giữa chúng ta. Sứ Đồ Phaolô cho chúng ta biết rằng tương tự với việc thân thể chúng ta có nhiều chi thể với những chức năng khác nhau; Hội Thánh cũng có nhiều chi thể khác nhau với các chức năng khác nhau: “4Vả, như trong một thân chúng ta có nhiều chi thể, và các chi thể không làm một việc giống nhau, 5thì cũng vậy, chúng ta là nhiều người mà hiệp nên một Thân trong Đấng Christ, và hết thảy chúng ta đều là các phần chi thể của nhau” (Rô. 12:4-5) Trong Thân Thể của Đấng Christ là Hội Thánh, không phải ai nấy đều có cùng một chức năng như nhau. Sứ Đồ Phaolô tiếp tục bày tỏ cho chúng ta biết rằng chúng ta, nhờ là chi thể của cùng chung một Thân Thể, đều có chung một Thánh Linh; và mỗi một chúng ta phải biết nương dựa nhau như thể chính mình vì chúng ta cần có sự hoạt động chung như một tổng thể thống nhất. Mỗi người chúng ta đều cần lẫn nhau: “12Vả, như thân là một, mà có nhiều chi thể, và như các chi thể của thân dầu có nhiều, cũng chỉ hiệp thành một thân mà thôi, Đấng Christ khác nào như vậy. 13Vì chưng chúng ta hoặc người Giuđa, hoặc người Gờréc, hoặc tôi mọi, hoặc tự chủ, đều đã chịu phép Báptêm chung một Thánh Linh để hiệp làm một Thân; và chúng ta đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa. 14Thân cũng chẳng phải có một chi thể, bèn là nhiều chi thể. 15Nếu chân rằng: Vì ta chẳng phải là tay, nên ta không thuộc về thân, thì chẳng phải bởi đó chân không có phần trong thân. 16Và nếu tai rằng: Vì ta chẳng phải là mắt, nên ta không thuộc về thân, thì tai chẳng phải bởi đó không có phần trong thân. 17Ví bằng cả thân đều là mắt, thì sự nghe ở đâu? Nếu cả thân đều là tai, thì sự ngửi ở đâu? 18Nhưng bây giờ, Đức Chúa Trời đã sắp đặt các chi thể của thân chúng ta, ban cho mỗi một chi thể cái địa vị theo ý Ngài lấy làm tốt mà chỉ định” (1Cô. 12:12-18) Ân tứ thuộc linh được ban cho chúng ta “theo ý Ngài lấy làm tốt mà chỉ định”: Chính Đức Chúa Trời là Đấng quyết định ban cho ai những ân tứ nào tùy theo sự định liệu của Ngài. Đức Chúa Trời biết ai là người hiệu quả nhất ở những ân tứ nào. Đấng biết chúng ta rõ nhất là Đức Chúa Trời, Ngài ban ân tứ thuộc linh cho mỗi người theo sự đẹp ý của Ngài. Hội Thánh là Thân Thể của Đấng Christ được Đức Chúa Trời ban cho thông qua Đức Thánh Linh các phận sự hay chức năng khác nhau. Các thành viên trong Hội Thánh có thể có những ân tứ thuộc linh nào? Kinh Thánh không xác định rõ số lượng các ân tứ thuộc linh. Có lẽ chúng ta cũng không nên hạn chế năng lực của Đức Chúa Trời bằng cách hạn định số lượng các ân tứ thuộc linh. Chúng ta có thể nhận thấy rằng có những ân tứ mà người ta quá đỗi quen thuộc đến độ không còn nhận ra được rằng dó là ân tứ được Đức Chúa Trời ban cho. Những ân tứ như thế cứ vận hành trong đời sống các cá nhân một cách tự nhiên, bình thường mà vẫn có tác dụng gây dựng được Hội Thánh. Thật ra, Kinh Thánh có kể đến một số ân tứ thuộc linh: “3Vậy, nhờ ơn đã ban cho tôi, tôi nói với mỗi người trong anh em chớ có tư tưởng cao quá lẽ, nhưng phải có tâm tình tầm thường, y theo lượng đức tin mà Đức Chúa Trời đã phú cho từng người. 4Vả, như trong một thân chúng ta có nhiều chi thể, và các chi thể không làm một việc giống nhau, 5thì cũng vậy, chúng ta là nhiều người mà hiệp nên một Thân trong Đấng Christ, và hết thảy chúng ta đều là các phần chi thể của nhau. 6Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta, ai được ban cho nói tiên tri, hãy tập nói theo lượng đức tin; 7ai được gọi đến làm chức vụ, hãy buộc mình vào chức vụ; ai dạy dỗ, hãy chăm mà dạy dỗ; 8ai gánh việc khuyên bảo, hãy khuyên bảo; ai bố thí, hãy lấy lòng rộng rãi mà bố thí; ai cai tri, hãy siêng năng mà cai trị; ai làm sự thương xót, hãy lấy lòng vui mà làm” (Rô. 12:3-8) Các ân tứ thuộc linh được nêu lên ở đây là : (1) Nói tiên tri Gr. προφητεία [propheteia], (2) Làm chức vụ Gr. διακονία [diakonia], (3) Dạy dỗ διδάσκω [didasko], (4) Khuyên bảo Gr. παρακαλέω [parakaleo], (5) Bố thí μεταδίδωμι [metadidomi], (6) Cai trị Gr. προΐστημι [proistemi], (7) Làm sự thương xót ἐλεέω [eleeo]. Chúng ta còn tìm thấy các ân tứ thuộc linh khác như: (8) Nói lời khôn ngoan Gr. σοφία [sophia], (9) Nói lời tri thức Gr. γνῶσις [gnosis], (10) Đức tin Gr. πίστις [pistis], (11) Chữa tật bịnh Gr. ἴαμα [iama], (12) Làm phép lạ Gr. δύναμις [dunamis], (13) Phân biệt các thần Gr. διάκρισις [diakrisis], (14) Nói nhiều thứ tiếng khác nhau Gr. γένος γλῶσσα [genos glossa], (15) Thông giải Gr. ἑρμηνεία γλῶσσα [hermeneia glossa]. Lời Kinh Thánh phán: “8Vả, người nầy nhờ Đức Thánh Linh, được lời nói khôn ngoan; kẻ kia nhờ một Đức Thánh Linh ấy, cũng được lời nói có tri thức. 9Bởi một Đức Thánh Linh, cho người nầy được đức tin; cũng bởi một Đức Thánh Linh ấy, cho kẻ kia được ơn chữa tật bịnh; 10người thì được làm phép lạ; kẻ thì được nói tiên tri; người thì được phân biệt các thần; kẻ thì được nói nhiều thứ tiếng khác nhau, người thì được thông giải các thứ tiếng ấy. 11Mọi điều đó là công việc của đồng một Đức Thánh Linh mà thôi, theo ý Ngài muốn, phân phát sự ban cho riêng cho mỗi người” (1Cô. 12:8-11) Trong 1Cô. 12:28, chúng ta tìm thấy một só các ân tứ thuộc linh khác: (16) Sứ Đồ Gr. ἀπόστολος [apostolos], (17) Cứu giúp Gr. ἀντίληψις [antilepsis], (18) Cai quản Gr. κυβέρνησις [kubernesis]. Êph. 4:11 kể thêm các ân tứ thuộc linh (19) Thầy giảng Tin Lành Gr. εὐαγγελιστής euaggelistes, (20) Mục Sư Gr. ποιμήν [poimen]. Ngoài ra, 1Phi. 4:11 còn đề cập đến ân tứ thuộc linh (21) Giảng luận Gr. λαλέω [laleo] nữa: “Đức Chúa Trời đã lập trong Hội Thánh, thứ nhứt là Sứ Đồ, thứ nhì là Đấng Tiên Tri, thứ ba là Thầy Giáo, kế đến kẻ làm phép lạ, rồi kẻ được ơn chữa bịnh, cứu giúp, cai quản, nói các thứ tiếng” (1Cô. 12:28) “Ấy chính Ngài đã cho người nầy làm Sứ Đồ, kẻ kia làm Tiên Tri, người khác làm Thầy Giảng Tin Lành, kẻ khác nữa làm Mục Sư và Giáo Sư” (Êph. 4:11) “Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen” (1Phi. 4:11) Chúng ta có thể chọn lựa và cầu xin cho được loại ân tứ nào mà chúng ta muốn không? Theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, chắc chắn là không: “Mọi điều đó là công việc của đồng một Thánh Linh mà thôi, theo ý Ngài muốn, phân phát sự ban cho riêng cho mỗi người” (1Cô. 12:11) Sự ban cho ân tứ thuộc linh là công việc của duy nhất Đức Chúa Trời, Chúng ta không thể nhờ mong muốn mà được. Khả năng khôn ngoan của chúng ta, tính chất hữu lý mà chúng ta nhận thức,… tất cả đều vô nghĩa trước sự toàn tri và quyền tối thượng của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời ban cho mỗi người một hoặc nhiều ân tứ thuộc linh theo kế hoạch hoàn hảo của Ngài để gây dựng Hội Thánh. Do đó, theo cách nhìn nhận của Đức Chúa Trời, không có ân tứ thuộc linh nào là kém cõi cả. Tất cả các ân tứ thuộc linh đều phải được xem là quí trọng như nhau: “21Mắt không được nói với bàn tay rằng: Ta chẳng cần đến mầy; đầu cũng chẳng được nói với chân rằng: Ta chẳng cần đến bay. 22Trái lại, các chi thể của thân xem ra rất yếu đuối lại là cần dùng. 23Chi thể nào trong Thân chúng ta nghĩ là hèn hạ hơn, thì chúng ta tôn trọng hơn; chi thể nào chẳng đẹp, thì chúng ta lại trau giồi hơn, 24còn như cái nào đã đẹp rồi, thì không cần trau giồi. Nhưng Đức Chúa Trời đã sắp đặt thân người, để chi thể nào thiếu thốn thì được quí trọng hơn, 25hầu cho trong Thân không có sự phân rẽ, mà các chi thể phải đồng lo tưởng đến nhau. 26Lại, trong các chi thể, khi có một cái nào chịu đau đớn, thì các cái khác đều cùng chịu; và khi một cái nào được tôn trọng, thì các cái khác đều cùng vui mừng” (1Cô. 12:21-26) Các ân tứ thuộc linh của chúng ta có thể được gia tăng lên trong đời sống của chúng ta, hoặc liệu chúng ta có thể làm cho các ân tứ ấy mỗi lúc càng phong phú hơn không? Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Jêsus ủy thác cho chúng ta các ân tứ thuộc linh của Ngài như một sự đầu tư ở chúng ta các tài sản của Ngài. Chúng ta sẽ được hưởng lợi của sự đầu tư ấy tùy theo mức độ vâng lời của chúng ta đối với Ngài: Ngài muốn chúng ta biết đem làm lợi các ân tứ đã nhận được… “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời” (1Phi. 4:10) “14Vả, nước thiên đàng sẽ giống như một người kia, khi đi đường xa, gọi các đầy tớ mà giao của cải mình. 15Chủ đó cho người nầy năm talâng, người kia hai, người khác một, tùy theo tài mỗi người; đoạn, chủ lên đường. 16Tức thì, người đã nhận năm talâng đi làm lợi ra, và được năm talâng khác. 17Người đã nhận hai talâng cũng vậy, làm lợi ra được hai talâng nữa. 18Song người chỉ nhận một thì đi đào lỗ dưới đất mà giấu tiền của chủ. 19Cách lâu ngày, chủ của những đầy tớ ấy trở về khiến họ tính sổ. 20Người đã nhận năm talâng bèn đến, đem năm talâng khác nữa, và thưa rằng: Lạy chúa, chúa đã cho tôi năm talâng; đây nầy, tôi làm lợi ra được năm talâng nữa. 21Chủ nói với người rằng: Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi. 22Người đã nhận hai talâng cũng đến mà thưa rằng: Lạy chúa, chúa đã cho tôi hai talâng; đây nầy, tôi đã làm lợi ra được hai talâng nữa. 23Chủ đáp rằng: Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi. 24Người chỉ nhận một talâng cũng đến mà thưa rằng: Lạy chúa, tôi biết chúa là người nghiêm nhặt, gặt trong chỗ mình không gieo, lượm lặt trong chỗ mình không rải ra; 25nên tôi sợ mà đi giấu talâng của chúa ở dưới đất; đây nầy, vật của chúa xin trả cho chúa. 26Song chủ đáp rằng: Hỡi đầy tớ dữ và biếng nhác kia, ngươi biết ta gặt trong chỗ ta không gieo, và lượm lặt trong chỗ ta không rải ra; 27vậy thì ngươi phải đưa bạc của ta lại cho người buôn bạc, rồi khi ta trở về, sẽ lấy vốn và lời. 28Vậy, các ngươi hãy lấy talâng của người nầy mà cho kẻ có mười talâng. 29Vì sẽ cho thêm kẻ nào đã có, thì họ sẽ dư dật; nhưng kẻ nào không có, thì cũng cất luôn điều họ đã có nữa. 30Còn tên đầy tớ vô ích đó, hãy quăng nó ra ngoài là chỗ tối tăm, ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng” (Ma. 25:14-30) Như vậy, chúng ta phải biết vận dụng các ân tứ thuộc linh mà chúng ta nhận được theo một phương hướng phát triển nhất, sinh lợi nhất để hoàn thành chương trình đầu tư của Đức Chúa Jêsus trên đời sống của chúng ta. Đức Chúa Jêsus đã đầu tư vào đời sống của chúng ta để phát triển: Phát triển chính đời sống của chúng ta và phát triển nhiều đời sống khác trong Hội Thánh. Nếu chúng ta không biết mình đã được trao ban những ân tứ thuộc linh nào, chúng ta sẽ không thể nào hoàn thành nhiệm vụ ấy được. Nhưng một khi chúng ta đã khám phá được những ân tứ thuộc linh mà mình có, chúng ta phải hết lòng phát triển những gì Chúa đã ban, đừng để bị kể là “Đầy tớ dữ và biếng nhác”. Bất kể ân tứ thuộc linh mà chúng ta đã được trao ban là gì, chúng ta đều phải thực hành để phát triển ra: “6Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta, ai được ban cho nói tiên tri, hãy tập nói theo lượng đức tin; 7ai được gọi đến làm chức vụ, hãy buộc mình vào chức vụ; ai dạy dỗ, hãy chăm mà dạy dỗ; 8ai gánh việc khuyên bảo, hãy khuyên bảo; ai bố thí, hãy lấy lòng rộng rãi mà bố thí; ai cai trị, hãy siêng năng mà cai trị; ai làm sự thương xót, hãy lấy lòng vui mà làm” (Rô. 12:6-8) Kinh Thánh bày tỏ cho chúng ta thấy được rằng mọi ân tứ thuộc linh đều bởi Đức Chúa Trời mà có để mọi tín hữu đều có thể góp phần gây dựng gia đình chung của mình là Hội Thánh; do đó, ai cũng có được ít nhất là một ân tứ thuộc linh. Ân tứ thuộc linh vốn đa dạng và phong phú, không hề có việc tất cả mọi người đều có cùng một ân tứ thuộc linh giống nhau được. Đòi hỏi người khác phải có cùng loại ân tứ thuộc linh giống như mình, hoặc nhất định phải có loại ân tứ thuộc linh theo ý riêng của mình đều là những sự mong muốn không hợp Kinh Thánh, vì chính Đức Chúa Trời mới là Đấng duy nhất qui định ai được ban cho ân tứ gì trong thời điểm nào. Ân tứ thuộc linh được ban cho mọi tín hữu để ai nấy đều được dự phần trong việc gây dựng Hội Thánh, như vậy cũng không có việc một ân tứ thuộc linh nào đó được dùng làm dấu hiệu để biểu thị sự cứu rỗi, sự nên thánh, hay tình trạng thuộc linh của Cơ Đốc Nhân. Sau cùng, chỉ thực hành ân tứ thuộc linh cho mục đích gây dựng Hội Thánh mới làm đẹp ý Đức Chúa Trời được, vì ân tứ thuộc linh sẽ không hữu ích khi thiếu tình yêu thương (Sv. 1Cô. 13). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“NHỮNG SỰ THỬ THÁCH NGHIỆT NGÔ (Gióp 13:15a) “Dẫu Chúa giết ta, ta cũng còn nhờ cậy nơi Ngài.” (Gióp 13:15a) Tôi thật sự được vui cùng Dân Sự của Đức Chúa Trời! Tôi nhận thấy họ rất dễ mến. Giữa vòng Dân Sự của Đức Chúa Trời mỗi người đều là một chiến tích của Ân Điển của Ngài. Trong cương vị của người Mục Sư tôi sẽ nhớ mãi không bao giờ quên điều ấy. Việc luôn nhớ đến sự thật ấy sẽ giúp tôi hoàn thành chức phận chăn bầy mà người chăn phải hoàn thành đối với Đấng Chăn Chiên Lớn cũng như đối với chiên. Tôi nhận thấy điểm chung của mọi con cái của Đức Chúa Trời là mỗi mảng đời đều là một câu chuyện dài. Mỗi Cơ Đốc Nhân chúng ta đều bắt đầu với một câu chuyện về sự nhân từ của Đức Chúa Trời đã dắt dẫn họ đến đức tin nơi Thân Vị và Công Nghiệp Cứu Rỗi của Đức Chúa Jêsus Christ. Qua câu chuyện của mỗi người luôn nổi rõ dấu ấn của Đức Thánh Linh trên tấm lòng và đời sống của họ. Ngài ban cho họ đức tin, sự phân biệt thuộc linh để nhận lấy lẽ thật từ Lời Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh cùng với các ân tứ thuộc linh để góp phần gây dựng Hội Thánh. Thế nhưng để giúp cho các Cơ Đốc Nhân tấn tới trong Ân Điển và trong sự thông biết Chúa là Đức Chúa Jêsus Christ Đức Chúa Trời cũng đem họ vào những thử thách cay nghiệt trong đời sống. Phần lớn các con cái của Đức Chúa Trời phải trải qua hàng loạt những sự cam go. (Gióp nói rằng “Loài người sanh ra để bị khốn khó như lằn lửa bay chớp lên không”, Gióp 5:7). Đức Chúa Trời bày tỏ qua Lời Ngài trong Kinh Thánh vô số những lý do vì sao Ngài lại cho phép những điều phiền phức cứ ập đến với Dân Ngài. Giữa khi cuộc sống nhờ đức tin và bởi đức tin của chúng ta chính yếu được đánh dấu bằng những khó khăn, rắc rối phần lớn chúng ta còn thỉnh thoảng phải chịu đựng những sự đau đớn quá đậm, những sự tổn thương quá xót, những sự mất mát quá lớn đến đỗi chúng để lại những dấu vết không thể phai mờ suốt cả đời. Loại đau đớn này là một loại đau đớn không thể nói hết được. Những sự đau đớn loại này dường như có khả năng ẩn náu một nơi nào đó tận trong đáy lòng của chúng ta, cứ tích tụ dần lại thành một mảng kinh nghiệm lắng đọng trong con người chúng ta, và tác động trở lại trên con người chúng ta. Lắm người đã phải mang những nỗi đau ấy xuống tận nấm mồ. Có nhiều nhà tư vấn thẳng thừng cho rằng người ta đừng nên để tấm lòng của chúng ta phải chịu đựng một loại thương tích dai dẳng như thế. Tôi thì khác, tôi cho rằng Đức Chúa Trời cho phép loại thử thách này xảy ra cho các Cơ Đốc Nhân để làm cho họ phải quằn quại hầu giúp họ trở nên biết nương cậy Ngài nhiều hơn. Tôi cũng tin rằng Đức Chúa Trời để cho chúng ta phải trải qua những nỗi đau cùng tột này để chúng ta có thể kinh nghiệm về một cấp độ ân điển không dễ nhận ra trên ngoại diện vì nó vận động cách sâu lắng trong đáy của tâm hồn chúng ta. Thế nhưng để chúng ta có thể kinh nghiệm được về một loại ân điển như thế chúng ta cần phải biết lắng lòng để có thể nhìn thấy được đến tận đáy lòng của mình. Sự thử thách cay nghiệt là như thế này: “Liệu chúng ta sẽ cứ toàn tín nơi quyền tể trị tối cao và sự quan phòng của một Đức Chúa Trời yêu thương dầu chúng ta phải gánh chịu những đau xót cao độ hay không?”. Hay là chúng ta sẽ có thái độ cay đắng? Đây là một sự thử thách có thể thắng vượt mà cũng có thể bại vong. Với bài tập này chúng ta có thể đạt điểm mười hoặc điểm không. Bạn có thể trình dâng nỗi đau của mình vào bàn tay yêu thương của Cha Thiên Thượng và rồi yên nghỉ bằng đức tin dầu vẫn cứ còn bị đối xử tàn tệ để rồi mỗi lúc bạn sẽ càng trở nên giống với Đức Chúa Jêsus Christ nhiều hơn, hoặc bạn cũng có thể có thái độ phẫn uất vì cho rằng Đức Chúa Trời tắc trách đối với nỗi đau của mình. Bạn ơi, tất cả chúng ta ai cũng phải đối diện với sự chọn lựa này cả! Hậu quả ê chề của sự đau đớn thì đâu có gì đáng vui nhưng lời Kinh Thánh qua ngòi bút của Sứ Đồ GiaCơ là rành rành: “Hỡi anh em, hãy coi sự thử thách trăm bề thoạt đến cho anh em như là điều vui mừng trọn vẹn” (Gia. 1:2). Đây chính là loại thử thách mà chúng ta học biết ở Gióp. Gióp đã phải chịu khổ cách hết sức bất công mà chỉ có việc Đức Chúa Jêsus Christ chịu đóng đinh trên Thập Tự Giá mới có thể bất công hơn được. Kinh Thánh cho biết về Gióp là “Nơi thế gian chẳng có người nào giống như nó, vốn trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời, và lánh khỏi điều ác” (Gióp 1:8). Hãy để ý đến mức độ hài lòng của Đức Chúa Trời đối với Gióp đến nỗi Ngài khoe Gióp trước mặt Satan rằng “tôi tớ của Ta”. Hãy suy nghĩ về điều ấy! Vậy mà Đức Chúa Trời đã đẹp ý để cho Satan muốn làm gì đối với Gióp cũng được, miễn là Gióp vẫn còn sống. Satan đã cướp đi của Gióp bò, chiên, lạc đà, tôi tớ, và cả các con của Gióp nữa! Hãy để ý thái độ của Gióp trước tất cả những mất mát, đau đớn ấy khi ông nói rằng “Tôi trần truồng lọt khỏi lòng mẹ, và tôi cũng sẽ trần truồng mà về; Đức Giêhôva đã ban cho, Đức Giêhôva lại cất đi; đáng ngợi khen danh Đức Giêhôva!” (Gióp 1:21). Kinh Thánh kết luận về tấm lòng và thái độ của Gióp một cách đáng ngạc nhiên: “Trong mọi sự ấy, Gióp không phạm tội, và chẳng nói phạm thượng cùng Đức Chúa Trời” (Gióp 1:22). Chỉ trong quãng đời ngắn ngủi đã qua của tôi cũng đã có đến ba, bốn lần tôi phải chịu đựng những sự thử thách nghiệt ngã (dầu rằng vẫn chưa nghĩa lý gì khi đem so sánh với những gì Gióp đã phải chịu). Tôi vẫn còn có thể nhớ đầy đủ những gì đã xảy ra. Tôi có thể nhớ là tôi đã bắt đầu hứng chịu như thế nào. Tôi vẫn còn cảm thấy nỗi đau tôi đã phải gánh chịu như thể mới xảy ra ngày hôm qua. Tôi vẫn còn nhớ như in về những đêm trằn trọc không ngủ được. Tôi vẫn còn hình dung được nỗi ảm đạm trong lòng khi tôi phải ở trong các cảnh ngộ ấy và tôi đã thực lòng nghĩ rằng mình đang chịu ngược đãi nặng nề. Tôi thực sự cho rằng tôi đã phải chịu những điều tôi không đáng phải chịu. Tôi đã nghĩ rằng mình đã không nhận được những gì đáng ra mình phải được nhận. Cả đến nay mỗi khi hồi tưởng lại các kinh nghiệm hãi hùng ấy tôi vẫn chưa có thể hoàn toàn hiểu nổi. Thậm chí có trường hợp tôi không thể tin nổi là kết cuộc của nó lại có thể tệ hại đến thế. Tôi cho rằng dòng đời của tôi sẽ phải khác hẳn nếu như những điều ấy đã không xảy ra! Tôi cho rằng việc đúng ra phải công bằng hơn thế mới phải! Việc đúng ra phải không thể bất công như thế được! Và, tất nhiên là khi tôi nghĩ như vậy thì tôi đã thủ tiêu mất quyền làm Chúa của Đức Chúa Trời! Tôi có một người bạn là nhà tư vấn ở thành phố Phoenix và trong văn phòng của ông có hai tấm biển để nhắc nhở. Một tấm ghi là “Có Đức Chúa Trời!” và trên tấm còn lại ghi là “Nhưng Bạn Không Phải Là Ngài!”. Tôi rất thích hai lời ám thị này và tôi đã sao chúng lại cho tôi. Thật đáng quí hóa biết bao! Chính những lời này đã thức tĩnh bản thân tôi mỗi khi tôi bị cám dỗ muốn buộc tội Đức Chúa Trời về những thương tật trong tâm hồn tôi. Khi ngẫm nghĩ về các nỗi đau mình phải chịu Gióp đã quyết định rằng “Dẫu Chúa giết ta, ta cũng còn nhờ cậy nơi Ngài” (Gióp 13:15a). Làm sao mà Gióp có thể có một tấm lòng toàn tín nơi Đức Chúa Trời như thế khi mà những gian truân, khổ ải cứ dồn dập đổ ập xuống mình? Hạt giống của đức tin của Gióp không phải chỉ được tìm thấy trong Gióp mà trong suốt cả Kinh Thánh. Cả Kinh Thánh Cựu Ước lẫn Kinh Thánh Tân Ước đều đầy dẫy sự khẳng định về quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời. Đấng Tể Trị cũng chính là Đấng Sáng Tạo đã thiết kế cho đời sống bạn. Chính Đức Chúa Trời là Đấng đã thiết định cách có mục đích những thời khắc thử thách nghiệt ngã mà bạn phải trải qua. Tất nhiên là Đức Chúa Trời biết rõ bạn cũng như tôi phải ngửa trông Ngài về sự vượt qua “trũng bóng chết” nhưng Ngài vẫn cứ để cho chúng ta phải “đi trong trũng bóng chết” với mục đích yêu thương! Vì sao chúng ta có thể tin được như thế? Vì Đức Chúa Trời luôn luôn là chân thật! Vì Ngài luôn luôn là nhân từ! Vì Ngài luôn luôn là thương xót! Chính vì thế mà chúng ta phải có một sự nương cậy hoàn toàn cho dầu hệ quả của các sự thử thách nghiệt ngã có như thế nào cũng thế. Cuộc sống này không hề vô sự như trong môi trường chân không. Cũng chẳng có sự chi là bất ngờ đối với Đức Chúa Trời cả. Chính Đức Chúa Trời là Đấng soạn bản giao hưởng của cuộc đời chúng ta với tất cả mọi giai điệu, tiết tấu theo ý chỉ tốt đẹp của Ngài. Ngài biết như Gióp đã biết Ngài rằng nếu chúng ta toàn tâm, toàn ý thuận phục Ngài thì mọi thương tật trong tâm hồn chúng ta sẽ được đan kết lại thành tấm dệt đời xinh đẹp của chúng ta trong quyền năng của Ngài để tôn qui vinh hiển về Ngài và để đời sống chúng ta có kết quả nhiều nhất, có sự hoàn thành trọn vẹn nhất, và có niềm vui chân chính nhất. Mối nguy của việc không chịu đem các mảnh vỡ của những nỗi vỡ òa từ sự uất nghẹn của tâm hồn chúng ta đặt trước Ngôi Thi Ân của Đức Chúa Trời để tìm kiếm Ân Điển của Ngài là việc tấm lòng của chúng ta sẽ trở nên sẹo sứt và chai cứng, và cuối cùng chúng ta sẽ trở thành nạn nhân của chúng. Những điều ấy sẽ ám thị khiến chúng ta cứ tin rằng “đáng lẽ ra mình đã được như thế này hay thế nọ” và rồi sự những hoang tưởng bệnh hoạn ấy sẽ ngự trị trên ngai lòng của chúng ta, khiến chúng ta không biết đón nhận Ân Điển của Đức Chúa Trời trên đời sống của chúng ta cho tương lai cách phải phép mà cứ giam cầm chúng ta trong ngục tù của quá khứ. Chính một cơ chế vận động tâm lý như vậy là trở ngại đối với sự chữa lành của Đức Chúa Trời. Một khi thực sự tin được và nói được rằng “Chúa ôi, Ngài biết rõ hơn hết!”, “Chúa ôi, con xin sống đời sống con theo sự tể trị của Ngài; cho dầu con không hình dung được và hiểu hết được những thử thách cay nghiệt đối với con sẽ đem lại điều gì con vẫn xin được sống đời sống con theo sự tể trị của Ngài!”, “Chúa ôi, con cám ơn Ngài về chút dư vị ngọt ngào từ chén đắng mà Ngài đã ban cho con!”, “Chúa ôi, xin giúp con biết vui mừng về những độc tố mà Ngài đã ban để tôi luyên đời sống con mà sinh mệnh con vẫn cứ còn nguyên vẹn!”. Phần lớn ý tưởng kết trong suy nghĩ và trong sự cầu nguyện của bản thân tôi vẫn thường là “Cha ôi, con xin cám ơn Cha vẫn hằng thương xót con!”. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“ĐỂ YÊU THA NHÂN CÁCH THIẾT THA” (Ma. 22:39) “Còn điều răn thứ hai đây, cũng như vậy: Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mìình…” (Ma. 22:39) Mệnh lệnh của Đức Chúa Trời dành cho Cơ Đốc Nhân là phải yêu tha nhân cách thiết tha: “Còn điều răn thứ hai đây, cũng như vậy: Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mìình…” (Ma. 22:39) Để có thể biết yêu tha nhân một cách thiết tha, chúng ta cần được tiếp nạp đúng nguồn năng mà Đức Chúa Jêsus Christ đã sử dụng cho đời sống yêu thương, phục vụ tha nhân của Ngài. Đức Chúa Jêsus Christ biết rõ Ngài là ai, Ngài từ đâu đến và sẽ đi về đâu. Đức Chúa Jêsus Christ biết rõ sự kêu gọi đã được dành cho Ngài: “Đức Chúa Jêsus biết rằng Cha đã giao phó mọi sự trong tay mình, và mình đã từ Đức Chúa Trời đến, cũng sẽ về với Đức Chúa Trời, nên đứng dậy khỏi bàn, cởi áo ra, lấy khăn vấn ngang lưng mình. Kế đó, Ngài đổ nước vào chậu, và rửa chân cho môn đồ, lại lấy khăn mình đã vấn mà lau chân cho.” (Gi. 13:3-5) Cũng giống như Đức Chúa Jêsus Christ, chúng ta có chân giá trị và năng lực, chúng ta có đủ mọi phước hạnh thuộc linh (Sv. Êph. 1:3, 19; 3:16; 20-21). Mỗi người chúng ta đều có bản sắc và chân giá trị của mình (Sv. Rô. 8:18, 35-39). Cùng với sự kêu gọi Thiên Thượng cho đời sống chúng ta, tất cả những điều vừa kể phải là nguồn năng vô tận để đáp ứng cho mọi nhu cần căn bản nhất của chúng ta, và giúp chúng ta vượt qua mọi rào cản của toàn bộ hệ thống thế gian khiến chúng ta vẫn thường cảm thấy do dự, lẻ loi, mất phương hướng,… trong việc yêu thương tha nhân theo cùng một cách mà Đức Chúa Jêsus Christ đã yêu thương họ. Một khi chúng ta thường trực sống trong sự nhận thức về sự kêu gọi mình đã nhận (chức phận môn đồ của Đức Chúa Jêsus Christ), chúng ta sẽ dạn dĩ để làm mọi sự như là làm cho Chúa: “Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta.” (Côl. 3:23) Tất nhiên, sống yêu thương tha nhân tha thiết ngay giữa đời ác này là phải chấp nhận rủi ro. Tuy nhiên, một khi đức tin chúng ta thực sự được neo chặt trong Đức Chúa Jêsus Christ, phần thưởng cho việc làm của chúng ta chính ngay tại việc làm của chúng ta: “Phải, anh em thật là sự vinh hiển và vui mừng của chúng tôi vậy.” (1Tê. 2:20) Có hai nét đặc trưng trong thể cách của tình yêu thương mà Cơ Đốc Nhân chúng ta phải biết dành cho tha nhân để có thể được xem là chúng ta biết yêu tha nhân một cách thiết tha: 1. Chịu Đựng Theo Ân Điển… “Tình yêu thương hay nhịn nhục; tình yêu thương hay nhân từ; tình yêu thương chẳng ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo, chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ, chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật. Tình yêu thương hay dung thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, nín chịu mọi sự.” (1Cô. 13:4-7) 2. Tha Thứ Theo Ân Điển… “Tình yêu thương hay dung thứ mọi sự…” (1Cô. 13:7a) Để có thể yêu thương tha nhân cách thiết tha thì sự hạ mình, sự chịu đựng, và sự tha thứ là những sự đòi hỏi tất yếu khách quan. Đó là những yêu cầu rất cao nhưng điều may mắn là Cơ Đốc Nhân chúng ta luôn có đủ ân điển để hạ mình, chịu đựng, và tha thứ. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |