“PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ NHU MÌ!” (Ma. 5:5) “Bài Giảng Trên Núi” của Đức Chúa Jêsus về “Các Phước Lành” vĩnh viễn là một núi kim cương hùng vĩ, lấp lánh các nguyên lý Thiên Đàng. Mỗi khi tiếp cận phân đoạn Kinh Thánh này (Ma. 5:1-12), với sự hiểu biết thô thiển và kinh nghiệm ít oi của bản thân, tôi luôn thấy mình chỉ như một đứa bé, choáng ngợp trước vô vàn tia sáng phản chiếu vinh quang Thiên Thượng. Tôi muốn lĩnh hội sao cho được trọn vẹn nhưng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. Tôi muốn diễn đạt cho sao cho thật khúc chiết để làm ích nhiều nhất cho đàn chiên nhỏ bé mà Đức Chúa Trời đã ủy thác cho tôi chăm nuôi nhưng, đáng thương thay, cũng chỉ là những lời thô thiển, tầm thường… Ước ao rằng chính Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ cho người đọc có được những sự nội kiến đẹp ý Đức Chúa Trời; còn những gì được viết ra đây chỉ là chỗ dựa cho sự tri giác, giúp cho sự suy gẫm được thuận lợi hơn… “Tolle lege, tolle lege” (“Cứ đọc đi! Cứ đọc đi!”) [St. Augustine, 354-430] (Mục Sư Đoàn Nhật Tân, Tháng Mười 2006) Từ liệu “nhu mì” thường được dùng để nói về những người khiêm nhường và đức khiêm nhường. Trong xã hội ngày nay, khái niệm “nhu mì” bao giờ cũng khiến cho người ta liên tưởng đến sự “dịu dàng”, “hòa nhã”, và cho rằng cứ được như thế là “khiêm nhường”. “Nhu mì” hay “khiêm nhường” theo cách hiểu hiện nay luôn luôn chứa đựng tính chất “yếu đuối”, và đó là một cách hiểu không hợp Kinh Thánh. Một lần nữa, chúng sẽ nhận thấy được rằng lời giảng về “Các Phước Lành” của Đức Chúa Jêsus trong “Bài Giảng Trên Núi” hoàn toàn trái với sự suy nghĩ của người đời. Đức Chúa Jêsus phán: “Phước cho những kẻ nhu mì vì sẽ hưởng được đất!” (Ma. 5:5). Đây không phải chỉ là một loại “lời hay ý đẹp” của người đời mà là yêu cầu Thiên Thượng của Đức Chúa Trời. Lời này là lời phán của Đức Chúa Trời trong Thân Vị Đức Chúa Jêsus chứ không phải chỉ là sự dạy dỗ thuần túy của loài người. Ý chỉ Thiên Thượng được bày tỏ không phải để cho người ta suy diễn tùy tiện và lựa chọn tùy ý. Lời Chúa phải được hiểu theo Ý Chúa đã được khải thị một cách vô ngộ và bất bại trong Kinh Thánh. Ai muốn được hưởng phước Thiên Thượng phải để cho Ân Điển Thiên Thượng hành động trong đời sống qua việc học và làm theo Lời Đức Chúa Trời một cách thành tâm. I. “PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ NHU MÌ” Theo lời phán này của Đức Chúa Jêsus, thế giới này sẽ được chinh phục bởi những người nhu mì, những ai nhu mì giữa vòng mọi dân tộc sẽ được trao cho quyền sở hữu cả thế gian này. Quả thật là bất ngờ! Người đời trải qua mọi thời đại vẫn cậy ở sức mạnh, quyền thế, năng lực để tranh đoạt ảnh hưởng, để lấn lướt trên đồng loại mình, để khống chế, để cai trị, để cầm quyền,… Lịch sử nhân loại được dệt bằng một chuỗi dài những cuộc chiến tranh. Thân sử của từng đời người, khi nhìn lại cũng thấy lắm điều lo toan, tính toán, giành giật. Các hoạt động trong xã hội loài người thật rất phong phú và đa dạng, không thể đếm hết được. Tuy nhiên, trên một phương diện, người ta dễ dàng nhận thấy rằng mọi sự trong đời sống con người nhìn chung chủ yếu thuộc về hai mối: “Danh” và “Lợi”. Vì “danh” mà đấu, vì “lợi” nên tranh; đấu tranh diễn biến tạo ra “thành”, “bại”. “Thành” khiến cho có kẻ cười, “bại” khiến cho có người khóc. “Khóc”, “cười” làm nên cuộc sống muôn mặt và chóng mặt! Mọi sự trong sinh hoạt xã hội loài người đều gồm trong hai mối ấy. Thế mà Đấng Sáng Tạo Và Tể Trị trong thân vị Đức Chúa Jêsus lại khẳng định rằng quyền cai trị tối hậu trên thế gian này thuộc về tất cả những ai khiêm nhường! Theo sự khải thị này của Kinh Thánh, có vẻ như nhân loại đang lạc đường, vì hiển nhiên là sự dạy dỗ của Kinh Thánh trái ngược với sự dạy dỗ của thế gian: Trong khi sự khôn ngoan đời này dạy rằng phải “hống hách”, thì khi Kinh Thánh dạy rằng phải “khiêm hòa”; trong khi sự khôn ngoan đời này dạy rằng phải “tranh đọat”, thì khi Kinh Thánh dạy rằng phải “nhường nhịn”; trong khi sự khôn ngoan đời này dạy rằng muốn thống lĩnh thì phải “áp chế”, “phô trương”, “cưỡng bức” thì Kinh Thánh khải thị rằng những kẻ khiêm nhường sẽ đồng trị đời đời trên thế gian dưới Vương Quyền Đời Đời của Đức Chúa Trời: “Vì ngươi đã giữ lời nhịn nhục Ta, Ta cũng sẽ giữ ngươi khỏi giờ thử thách, là giờ sẽ đến trong khắp thế gian, đặng thử những người ở trên đất” (Khải. 3:10). “26Kẻ nào thắng, và giữ các việc của Ta đến cuối cùng, Ta sẽ ban cho quyền trị các nước: 27Kẻ đó sẽ cai trị bằng một cây gậy sắt, và sẽ phá tan các nước như đồ gốm, khác nào chính Ta đã nhận quyền cai trị đó nơi Cha Ta. 28Ta sẽ cho kẻ ấy ngôi sao mai. 29Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng các Hội Thánh” (Khải. 2:26-29). Bạo lực chỉ làm nên quyền lực nhất thời, đức khiêm nhường theo sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời ban cho người tin Ngài quyền lực đời đời từ chính tay Ngài. Đức khiêm nhường có một vai trò nổi bật trong các sự dạy dỗ của Kinh Thánh. Trong mọi mối quan hệ xã hội, Cơ Đốc Nhân được đòi hỏi phải tuyệt đối khiêm nhường: “1Hãy nhắc lại cho các tín đồ phải vâng phục những bậc cầm quyền chấp chánh, phải vâng lời các bậc ấy, sẵn sàng làm mọi việc lành, 2chớ nói xấu ai, chớ tranh cạnh, hãy dung thứ, đối với mọi người phải tỏ ra một cách mềm mại trọn vẹn” (Tít 3:1-2). Đức khiêm nhường là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi mối quan hệ trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Giữa vô vàn bất cập của các mối quan hệ đa phương trong Hội Thánh, đức khiêm nhường phải hiện diện; điều đó phải là một trong các nguyên tắc nền tảng cho mối thông công Cơ Đốc giữa vòng những người đã được cứu: “Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại; chính mình anh em lại phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng” (Gal. 6:1). Nguyên tắc căn bản cho sự ứng sử của người hầu việc Đức Chúa Trời cũng là đức khiêm nhường: “24Vả, tôi tớ của Chúa không nên ưa sự tranh cạnh; nhưng phải ở tử tế với mọi người, có tài dạy dỗ, nhịn nhục, 25dùng cách mềm mại mà sửa dạy những kẻ chống trả, mong rằng Đức Chúa Trời ban cho họ sự ăn năn để nhìn biết lẽ thật, 26và họ tỉnh ngộ mà gỡ mình khỏi lưới ma quỉ, vì đã bị ma quỉ bắt lấy đặng làm theo ý nó” (2Ti. 2:24-26). Nói chung, đức khiêm nhường là điều kiện không thể thiếu đối với tất cả những ai thực tâm tin theo Đức Chúa Jêsus. Có đức khiêm nhường người ta mới có thể tiếp nhận Lời Chúa vào lòng mình một cách phải lẽ, nhiên hậu đời sống họ mới được biến đổi phù hợp theo ý muốn Đức Chúa Trời: “Vậy, hãy bỏ đi mọi điều ô uế và mọi điều gian ác còn lại, đem lòng nhu mì nhận lấy lời đã trồng trong anh em, là lời cứu được linh hồn của anh em” (Gia. 1:21). II. “…VÌ SẼ HƯỞNG ĐƯỢC ĐẤT” Muốn nắm vững thế nào là “khiêm nhường”, chúng t a cần phải biết thế nào không phải là “khiêm nhường”. “Khiêm nhường” hiểu theo nghĩa Kinh Thánh không phải là một đức tính tự nhiên theo bản tính của con người. “Khiêm nhường” không bao giờ đồng nghĩa với “yếu đuối”, “nhút nhát”. “Khiêm nhường” hoàn toàn khác với “lẩn tránh”, “che dấu” cho khỏi bộc lộ con người thật. Có những người thực sự có một vẻ bề ngoài hòa nhã, dịu dàng; nhưng liệu họ có phải là người khiêm nhường theo đúng nghĩa của Kinh Thánh hay không còn là một vấn đề khác. Cũng có rất nhiều người có vẻ bề ngoài dường như “khiêm nhường” nhưng thực chất họ không hề “khiêm nhường” gì cả, chẳng qua họ chỉ là người khéo che đậy bằng sự thể hiện bên ngoài. Đừng kết luận về đức khiêm nhường mà chỉ căn cứ theo vẻ bề ngoài! Bất kể vẻ bề ngoài của một người là thế nào, người duy ngã không phải là một người khiêm nhường. Bất kể vẻ bề ngoài của một người là thế nào, người ngạo mạn không phải là một người khiêm nhường. Bất kể vẻ bề ngoài của một người là thế nào, người gian hùng không phải là một người khiêm nhường. Bất kể vẻ bề ngoài của một người là thế nào, người ngoan cố không phải là một người khiêm nhường. Cũng tương tự như vậy đối với những người huênh hoang, vênh váo, hão huyền, tự phụ… Chúng ta có thể nêu ra nhiều nhân vật Kinh Thánh khác nhau có những cá tính như thế (và họ đều không phải là người khiêm nhường). Một trong các nhân vật ấy được đề cập và xử lý trong 3Gi. 9-11: “9Tôi đã viết mấy chữ cho Hội Thánh rồi, nhưng Điôtrép là kẻ ưng đứng đầu Hội Thánh không muốn tiếp rước chúng ta. 10Cho nên, nếu tôi đến, tôi sẽ bới việc xấu người làm, là lấy lời luận độc ác mà nghịch cùng chúng ta. Điều đó còn chưa đủ, người lại không tiếp rước anh em nữa, mà ai muốn tiếp rước, thì người ngăn trở và đuổi ra khỏi Hội Thánh. 11Hỡi kẻ rất yêu dấu, chớ bắt chước điều dữ, nhưng bắt chước điều lành. Ai làm điều lành là thuộc về Đức Chúa Trời, còn kẻ làm điều dữ, chẳng hề thấy Đức Chúa Trời”. Nhân vật Điôtrép mà Sứ Đồ Phaolô nói đến ở đây có những nét tính cách nào? Theo sự khải thị qua Lời Kinh Thánh, Điôtrép là một con người duy ngã, ngạo mạn, gian hùng, và ngoan cố: (1) “Ưng đứng đầu Hội Thánh” (C. 9) Điôtrép là một con người duy ngã. Nghĩa là, Điôtrép chỉ biết yêu có chính mình mà thôi: Điôtrép muốn đường lối của mình phải được tuân theo, không muốn chấp nhận bất kỳ điều gì khác. (2) “Không muốn tiếp rước chúng ta” (C. 9) Điôtrép là một con người ngạo mạn. Nghĩa là, Điôtrép không chịu thuận phục thẩm quyền Đức Chúa Trời và Hội Thánh của Ngài. (3) “Lấy lời luận độc ác mà nghịch cùng chúng ta” (C. 10) Điôtrép là một con người gian hùng. Nghĩa là, Điôtrép sẵn sàng bôi nhọ, phao vu tiếng xấu cho người nào mình không thích để thỏa mãn tham vọng ích kỷ của bản thân. (4) “Mà ai muốn tiếp rước, thì người ngăn trở và đuổi ra khỏi Hội Thánh” (C. 10) Điôtrép là một người ngoan cố. Nghĩa là, Điôtrép không cần quan tâm đến bất cứ điều gì ngoài ý muốn chủ quan của mình, và chỉ biết thực hiện nó cho bằng được. Cá tính của Điôtrép nghịch lại với “Các Phước Lành” mà Đức Chúa Jêsus bày tỏ trong “Bài Giảng Trên Núi” cho nên Sứ Đồ Phaolô phải xử lý vấn đề Điôtrép như được trước thuật ở đây: Điều ác phải được vạch trần và loại trừ. Thật ra, đức khiêm nhường theo Kinh Thánh hoàn toàn tương hợp với sự dũng cảm và đó là một đức tính đòi hỏi nghị lực cao. Chỉ có hai nhân vật được Kinh Thánh mô tả như mẫu mực của đức khiêm nhường. Cả hai đều là những nhân vật đầy quyền lực. Một người được đánh giá khách quan bởi Lời Đức Chúa Trời, và nhân vật còn lại tự khải thị cho nhân loại biết Ngài là Đấng khiêm nhường. Nhân vật thứ nhất được Lời Kinh Thánh khẳng định là đầy dẫy đức khiêm nhường là Môise: “Vả, Môise là người rất khiêm hòa hơn mọi người trên thế gian” (Dân. 12:3). Theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời, Môise là người khiêm nhường bậc nhất. Thế nhưng, chúng ta đã biết rằng Môise là một nhà lãnh đạo đầy dũng khí và quyền lực. Môise đã được đào tạo hoàn chỉnh từ trong cung điện Pharaôn, và được rèn luyện thuần thục ngoài trường đời. Môise là một lão tướng văn võ song toàn. Môise đã lãnh đạo dân Ysơraên từ Aicập đến đồng vắng, đưa cuộc đấu tranh lập quốc nguyên khai của dân Do Thái đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, thắng lợi sau to hơn thắng lợi trước, mở ra thắng lợi cuối cùng mà người kế nhiệm của ông là Giôsuê đã kế thừa. Lời Kinh Thánh cũng còn cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng khiêm nhường theo như chính Ngài đã khải thị thành văn: “28Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. 29Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của Ta, và học theo Ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. 30Vì ách Ta dễ chịu và gánh Ta nhẹ nhàng” (Ma. 11:28-30). Đức Chúa Jêsus là Đấng khiêm nhường nhưng Ngài không hề là người yếu đuối. Chưa hề có một họa phẩm nào trên thế gian tả vẻ Đức Chúa Jêsus như một người ẻo lả giống với những con người giả bộ khiêm nhường ngày nay. Đức Chúa Jêsus nhu mì, khiêm nhường như chính Ngài khải thị. Đức Chúa Jêsus đã sống trong nhân trạng một đời sống yêu thương, dịu dàng, hòa nhã, hạ mình, và tuyệt đối nương cậy Đức Chúa Cha. Tuy nhiên, chính Ngài là Đấng đã bày tỏ đức dũng cảm có một không hai khi chống trả các sự giảng dạy sai trật của người Pharisi và Sađusê. Ngài đã không ngại khi phải dùng đến roi da để đánh đuổi bọn người đa trá mượn danh thánh và nơi thánh của Đức Chúa Trời để làm những điều vô phép. Ngay cả đối với những người thân nhất của Ngài trên thế gian, Ngài vẫn không thỏa hiệp theo cách nghĩ, việc làm theo xác thịt của họ và sẵn sàng quở nặng cho họ tỉnh ngộ mà thoát ra khỏi bẫy, lưới của Ma Quỉ. Chính Ngài là Đấng có sự can đảm cái thế để chịu lấy thập tự giá mà Ngài biết trước, hoàn thành công trình đền tội thay cho chúng ta, trở nên Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Khiêm nhường là thuận thiên hành đạo chứ không phải là yếu đuối, đầu hàng. Đức Chúa Jêsus là hiện thân của sự nhu mì, khiêm nhường. Ngài đã sống trong nhân trạng một đời sống yêu thương, dịu dàng, hòa nhã, hạ mình, và tuyệt đối nương cậy Đức Chúa Cha. Dầu vậy, dũng khí của Ngài cao ngất thượng thiên; chói lòa nhật nguyệt; rạng rỡ suốt dòng lịch sử nhân loại! Từ “Bài Giảng Trên Núi” cho đến các sự dạy dỗ khác trong Kinh Thánh, Đức Chúa Jêsus luôn kêu gọi chúng ta học theo Ngài để được đồng trị với Ngài cho đến đời đời: “Phước cho những kẻ nhu mì vì sẽ hưởng được đất!” (Ma. 5;5). “28Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. 29Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của Ta, và học theo Ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. 30Vì ách Ta dễ chịu và gánh Ta nhẹ nhàng” (Ma. 11:28-30). “5Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có, 6Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời nhưng không coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; 7chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; 8Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự. 9Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, 10hầu cho nghe đến danh Đức Chúa Jêsus, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống, 11và mọi lưỡi thảy đều xưng Jêsus Christ là Chúa, và tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha” (Phil. 2:5-11). “26Kẻ nào thắng, và giữ các việc của Ta đến cuối cùng, Ta sẽ ban cho quyền trị các nước: 27Kẻ đó sẽ cai trị bằng một cây gậy sắt, và sẽ phá tan các nước như đồ gốm, khác nào chính Ta đã nhận quyền cai trị đó nơi Cha Ta. 28Ta sẽ cho kẻ ấy ngôi sao mai. 29Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng các Hội Thánh” (Khải. 2:26-29). (Rev. Doan Nhat Tan, PhD) ![]()
“PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ THAN KHÓC!” (Ma. 5:4) “Bài Giảng Trên Núi” của Đức Chúa Jêsus về “Các Phước Lành” vĩnh viễn là một núi kim cương hùng vĩ, lấp lánh các nguyên lý Thiên Đàng. Mỗi khi tiếp cận phân đoạn Kinh Thánh này (Ma. 5:1-12), với sự hiểu biết thô thiển và kinh nghiệm ít oi của bản thân, tôi luôn thấy mình chỉ như một đứa bé, choáng ngợp trước vô vàn tia sáng phản chiếu vinh quang Thiên Thượng. Tôi muốn lĩnh hội sao cho được trọn vẹn nhưng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. Tôi muốn diễn đạt cho sao cho thật khúc chiết để làm ích nhiều nhất cho đàn chiên nhỏ bé mà Đức Chúa Trời đã ủy thác cho tôi chăm nuôi nhưng, đáng thương thay, cũng chỉ là những lời thô thiển, tầm thường… Ước ao rằng chính Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ cho người đọc có được những sự nội kiến đẹp ý Đức Chúa Trời; còn những gì được viết ra đây chỉ là chỗ dựa cho sự tri giác, giúp cho sự suy gẫm được thuận lợi hơn… “Tolle lege, tolle lege” (“Cứ đọc đi! Cứ đọc đi!”) [St. Augustine, 354-430] (Mục Sư Đoàn Nhật Tân, Tháng Mười 2006) Sống trên đời, khóc_cười là việc không sao tránh khỏi. Thông thường, khi vui người ta mới cười; và khóc là dấu hiệu của việc chẳng hay, ít ai mong muốn. Khóc_cười thể hiện trạng thái tâm lý; là hình thức phản ánh của các kích thích tâm lý_thần kinh, ít khi lệ thuộc sự tác động của ý chí. Phản ứng tâm lý_thần kinh mang tính chủ quan; do đó nhiều khi khóc_cười cũng có thể là “có duyên” hay “vô duyên” đối với các nhận thức khách quan. Dưới ánh sáng Kinh Thánh, theo sự nhìn nhận Thiên Thượng, khóc_cười còn có thể “được phước” hay “mất phước” nữa! Tất nhiên, “được phước” khi phù hợp theo ý chỉ Thiên Thượng của Đức Chúa Trời; và “mất phước” khi không đẹp ý Đức Chúa Trời. A. “NHỮNG KẺ THAN KHÓC” Vì một người không thể nào đến với Đức Chúa Jêsus Christ khi chưa được Đức Chúa Cha đổi lòng, cho nên “kẻ than khóc” cũng đồng thời là người đã được Đức Chúa Trời làm cho đổi lòng. Do đó, người nhận biết tội lỗi và tình trạng vô phương tự cứu của mình trước mặt Đức Chúa Trời, người “có lòng khó khăn” (Ma. 5:3), cũng sẽ đồng thời là người biết xót xa cho tình trạng băng hoại thuộc linh của mình: “Phước cho những kẻ than khóc, vì sẽ được yên ủi!” (Ma. 5:4) Sự than khóc này không phải chỉ là tâm lý buồn thảm, cũng không phải là trạng thái chấn động tình cảm; mà là nỗi xót xa của tâm linh và là cảm thức ê chề xuất hiện theo sau sự nhận thức về tính chất suy thoái của bản thân. Người công nghĩa không muốn đắm đuối một cách ích kỷ trong sự sa đọa của xác thịt. Người công nghĩa có sự quặn thắt về tội lỗi mình, vì họ tôn trọng những điều Đức Chúa Trời quan tâm. Một khi bắt đầu nhận thức được sự hiện diện của tội lỗi, người có xu hướng công nghĩa cũng biết được rằng sự suy thoái của họ làm tổn thương Đức Chúa Trời thánh khiết nữa:“Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy?” (Rô. 7:24) B. “PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ THAN KHÓC” I. Họ Là Người Công Nghĩa Một người bị bắt, bị phạt vì hành vi tội lỗi có thể sẽ biết hối tiếc về tội lỗi mình đã phạm mặc dầu người ấy có thể chẳng có chút cảm thức tội lỗi nào theo sự cáo buộc của Kinh Thánh. Và, một người theo một loại triết lý hay tôn giáo phi Kinh Thánh nào đó rất có thể sẽ hết sức xót xa vì đã không thể trội vượt lên trên các tiêu chuẩn (phi Cơ Đốc) của những gì họ tin. Đức Chúa Trời chẳng hề “yên ủi” những người “than khóc” phi Kinh Thánh này bao giờ! Đức Chúa Jêsus đang dạy về một loại “than khóc” đến từ sự hạ mình và sự ăn năn thật, đẹp ý Đức Chúa Trời. Sự “than khóc” được Đức Chúa Jêsus nói đến ở đây không đến bởi lòng sùng mộ phản Kinh Thánh cũng như sự nản lòng, thoái chí mang tính chất tâm lý cá nhân hay dưới ảnh hưởng xã hội. Nói cho cùng, loại “than khóc” được nêu ra ở đây là loại “than khóc” của sự tin kính chứ không phải là sự than khóc bất kính của đời thường: “Vì sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự hối cải, và sự hối cải dẫn đến sự rỗi linh hồn; về sự đó người ta chẳng hề ăn năn, còn sự buồn rầu theo thế gian sanh ra sự chết” (2Cô. 7:10) Người có lòng công nghĩa – tức là người đã được Đức Chúa Trời chứng giải, chứng tri, và chứng chiếu – không những chỉ xót xa cho tội lỗi của riêng mình mà còn biết tiếc cho tội lỗi của người khác, nhất là của những người cùng chung trong một cộng đồng thuộc linh, chung Hội Thánh. Khi Đức Chúa Trời bày tỏ tội lỗi cho Êsai, Nhà Tiên Tri đã hết sức thấm thía về những gì mình được chứng giải; đã “than khóc” chẳng những cho bản thân mà còn cho tội lỗi của những người sống chung quanh mình nữa: “Khốn nạn cho tôi! Xong đời tôi rồi! Vì tôi là người có môi dơ dáy, ở giữa một dân có môi dơ dáy, bởi mắt tôi đã thấy Vua, tức là Đức Giêhôva vạn quân!” (Ês. 6:5) Cùng một cách tương tự, Giêrêmi đã bày tỏ sự “than khóc” tột độ của mình về tội lỗi trong các Sách Giêrêmi và Ca Thương (và Đức Chúa Trời đã phát vãn Dân Ngài y theo như Giêrêmi đã nói tiên tri). Về sau, khi Đaniên nói về Đức Chúa Trời cùng với lời hứa của Ngài về việc phục hồi Dân Ngài, (cũng như Giêrêmi đã nói), Đaniên cũng “than khóc” cho tội lỗi của dân mình “4Vậy, ta cầu nguyện Giêhôva Đức Chúa Trời ta, và xưng tội cùng Ngài mà rằng: Ôi! Chúa là Đức Chúa Trời cao cả và đáng khiếp sợ! Ngài giữ lời giao ước và sự nhân từ đối với những kẻ yêu Ngài và giữ các điều răn Ngài, 5chúng tôi đã phạm tội, làm sự trái ngược, ăn ở hung dữ, chúng tôi đã bạn nghịch và đã xây bỏ các giềng mối và luật lệ của Ngài” (Đa. 9:4-5) II. Họ Thuộc Về Đức Chúa Trời Theo văn mạch của “Bài Giảng Trên Núi”, có thể là Đức Chúa Jêsus bao gồm cả sự “than khóc” của người tín hữu đối với sự chống đối, bắt bớ của những người không tin: “10Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì Nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy!11Khi nào vì cớ Ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. 12Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các Đấng Tiên Tri trước các ngươi như vậy” (Ma. 5:10-12) Đức Chúa Jêsus phán cho biết rằng những ai chịu “than khóc” sẽ được “phước”; không phải được phước vì chính hành vi “than khóc” mà là sự “than khóc” nói lên được họ là ai, tấm lòng của họ thế nào,… Sự than khóc của một cá nhân thể hiện trạng thái thuộc linh của họ là điều Đức Chúa Trời quan tâm. Người “than khóc” vì nhận thức được tình trạng tội lỗi của bản thân cũng sẽ được “phước” như người “than khóc” vì bị áp bức bởi các thế lực tội lỗi. Đối với những ai giảng dạy và tuân hành các điều răn của Đức Chúa Trời, người đời này sẽ đàn áp họ. Sự áp bức trên những người “than khóc” vì cớ sự công bình của Đức Chúa Trời có nhiều hình thái và cấp độ khác nhau, từ các xu thế xã hội vô đạo cho đến những chính sách tàn bạo của các thể chế trong đời này. Đối với những ai chịu áp bức như thế mà vẫn vững lòng tin nơi sự yên ủi và giải cứu của Đức Chúa Trời, Ngài sẽ đáp ứng sự trông cậy của họ bằng mọi thứ phước thiêng liêng từ nơi Ngài, vì họ thuộc về Ngài: “18Ví bằng người đời ghét các ngươi, thì hãy biết rằng họ đã ghét Ta trước các ngươi. 19Nếu các ngươi thuộc về thế gian, thì người đời sẽ yêu kẻ thuộc về mình; nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian và Ta đã lựa chọn các ngươi giữa thế gian, bởi cớ đó người đời ghét các ngươi” (Gi. 15:18-19) III. Họ Không Còn Ở Dưới Sự Phán Xét Qua lời phán này, Đức Chúa Jêsus cũng còn vạch rõ thế đối lập trong cách nghĩ của người đời. Có nhiều người vốn phá sản về thuộc linh nhưng họ không hề biết như thế, họ vẫn cứ làm như thể là mình sung mãn về thuộc linh lắm: Thay vì phải “than khóc”, họ tự đắc về vi phạm mình. Có lắm người trong vai trò “chức sắc tôn giáo” vẫn tỏ ra an nhiên trong việc lợi dụng các kẽ hở của tổ chức để mưu cầu lợi lộc bản thân! Các tay “anh chị” trong giới giang hồ vẫn hiu hiu tự đắc về lề thói “xã hội đen” của họ! Lắm khi những người “chẳng ra gì” trên phương diện luân lý, đạo đức (ấy là chưa kể đến thân phận tội nhân trước mặt Đức Chúa Trời) nhưng lại rất vênh váo! Cứ xem tình trạng “được đằng chân, lân đằng đầu” của các trào lưu hắc ám trong xã hội ngày nay là đủ biết. Họ không hề có bất cứ một chút gì là “kính sợ” Đức Chúa Trời cả. Họ không bao giờ đếm xỉa đến Đức Chúa Trời. Hơn nữa, họ tự cho mình là một loại “thượng đế” hoặc nghĩ rằng Thượng Đế tồn tại là để nuông chìu họ! Kinh Thánh không cho thấy Đức Chúa Trời phải như thế. Kinh Thánh dạy cho biết rằng Đức Chúa Trời chỉ tha thứ cho những ai được Ngài ban cho sự ăn năn thật. Ngoại giả, Đức Chúa Trời định tội nặng nề cho các tội nhân không chịu ăn năn về tội lỗi mình, không biết “than khóc” cho thân phận mình theo sự nhìn nhận của Ngài. Những hạng người này chẳng những tự đắc về tội lỗi của họ, họ còn ủng hộ cho những ai sống giống như họ nữa. Thậm chí, có những người tự nhận mình là Cơ Đốc Nhân nhưng vẫn bất chấp sự dạy dỗ của Kinh Thánh một cách hiển nhiên. Giữa vòng các Hội Thánh ngày nay trên thế giới, người ta vẫn thường công khai ủng hộ các thần học gia giả danh thần học gia, hoặc lập những con người bất minh, bất chính và bất kính vào các vai trò lãnh đạo thuộc linh: “Dầu họ biết mạng lịnh Đức Chúa Trời tỏ ra những người phạm các tội dường ấy là đáng chết, thế mà chẳng những họ tự làm thôi đâu, lại còn ưng thuận cho kẻ khác phạm các điều ấy nữa” (Rô. 1:32) Ngày nay, người ta thường tỏ ra tự đắc về việc có một lập trường “cởi mở” đối với những điều phi Kinh Thánh. Dầu vậy, Sứ Đồ Phaolô lên án những việc như thế một cách nặng nề. Theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, thay vì dung túng thái độ không ăn năn và các sự vi phạm luân lý, đạo đức; thay vì đồng tình với các sự giảng dạy tà vạy và những kẻ lầm đường lạc lối; chúng ta phải có thái độ thẳng thắn đối với họ, sẵn sàng loại ra khỏi Hội Thánh những kẻ không chịu ăn năn: “1Có tin đồn ra khắp nơi rằng trong anh em có sự dâm loạn, dâm loạn đến thế, dẫu người ngoại đạo cũng chẳng có như vậy: là đến nỗi trong anh em có người lấy vợ của cha mình. 2Anh em còn lên mình kiêu ngạo! Anh em chẳng từng buồn rấu, hầu cho kẻ phạm tội đó bị trừ bỏ khỏi vòng anh em thì hơn!” (1Cô. 5:1-2) “12Vì chưng có phải tôi nên đoán xét kẻ ở ngoài sao? Há chẳng phải anh em nên đoán xét những người ở trong sao? 13Còn như kẻ ở ngoài, thì Đức Chúa Trời sẽ đoán xét họ. Hãy trừ bỏ kẻ gian ác khỏi anh em” (1Cô. 5:12-13). Sự dạy dỗ của Kinh Thánh là rất hiển nhiên. Dầu vậy, ngày nay chỉ có một thiểu số cộng đoàn Dân Chúa là giữ lòng trung tín trong việc thi hành các mệnh lệnh Kinh Thánh đối với các sự vi phạm Kinh Thánh. Còn tệ hơn thế, hiện đang có một xu hướng muốn để cho những người vi phạm Kinh Thánh lãnh đạo Hội Thánh dầu họ biết mạng lịnh Đức Chúa Trời tỏ ra những người phạm các tội dường ấy là đáng chết! Tương tự như việc người công nghĩa và người bất nghĩa có các thái độ đối nghịch nhau đối với vấn đề tội lỗi, Đức Chúa Trời đã định phận trái ngược nhau cho hai hạng người ấy. Kinh Thánh cho biết rằng Đức Chúa Trời sẽ trút cơn giận Ngài trên những ai dung túng tội lỗi, đang đùa với tội lỗi. Ngày nay, có nhiều người cứ khăng khăng rằng Đức Chúa Trời chỉ muốn cho họ được vui (theo cách của họ), và họ lấy sự giả định phi Kinh Thánh ấy làm nguyên tắc để ra các quyết định cho đời sống của mình. Vì họ tưởng rằng Đức Chúa Trời sẽ chìu chuộng họ, Ngài sẽ không hạn chế tư dục của họ; cho nên họ được phép sống theo cách họ thích! Theo Kinh Thánh, Đức Chúa Trời không bao giờ như thế cả! “Vả, cơn giận của Đức Chúa Trời từ trên trời tỏ ra nghịch cùng mọi sự không tin kính và mọi sự không công bình của những người dùng sự không công bình mà bắt hiếp lẽ thật” (Rô. 1:12). “3Vì ý muốn của Đức Chúa Trời, ấy là khiến anh em nên thánh: Tức là phải lánh sự ô uế, 4mỗi người phải biết giữ thân mình cho thánh sạch và tôn trọng, 5chẳng bao giờ sa vào tình dục luông tuồng như người ngoại đạo, là kẻ không nhìn biết Đức Chúa Trời. 6Chớ có ai phỉnh phờ anh em mình, hay là làm hại anh em bất kỳ việc gì, vì Chúa là Đấng báo oán những sự đó, như chúng tôi đã nói trước cùng anh em và đã làm chứng. 7Bởi chưng Đức Chúa Trời chẳng gọi chúng ta đến sự ô uế đâu, bèn là sự nên thánh vậy. 8Cho nên, ai khinh bỏ điều chúng tôi nói, thì không phải khinh bỏ người ta đâu, bèn là khinh bỏ Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban Thánh Linh của Ngài trong anh em” (1Tê. 4:3-8). “Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đương no, vì sẽ đói! Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đương cười, vì sẽ để tang và khóc lóc” (Lu. 6:25). Hai hạng người, hai định phận đối nghịch nhau. Nếu sự đoán phạt để dành cho kẻ bất nghĩa thì phước hạnh của Đức Chúa Trời đang chờ đón những ai biết trăn trở, xót xa về vi phạm mình để rồi từ đó có thể đến với Ngài, tìm được ơn trong lúc có cần: “Phước cho những kẻ than khóc, vì sẽ được yên ủi!” (Ma. 5:4). Cười là cười và khóc là khóc, Đức Chúa Trời không hề ban phước cho tự thân tiếng cười hay tiếng khóc. Người có cảm thức về tội lỗi của mình (hoặc của người chung quanh), có ý chí quyết lòng từ bỏ (hay cảnh tỉnh cho người khác từ bỏ) là người được phước của Đức Chúa Trời vì nhờ đó mà người ta có thể có thể đến với sự sống đời đời qua sự tái sinh. Cuộc biến đổi thuộc linh thiêng liêng trong đời sống cá nhân bắt đầu từ cảm thức ăn năn của cá nhân về tội lỗi. Sự quặn thắt về thân phận dẫn người ta đến sự hối cải, và bởi ơn của Đức Chúa Trời, sự hối cải giúp thay đổi được định phận đời đời của mình: “Phước cho những kẻ than khóc, vì sẽ được yên ủi!” (Ma. 5:4). “Vì sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự hối cải, và sự hối cải dẫn đến sự rỗi linh hồn; về sự đó người ta chẳng hề ăn năn, còn sự buồn rầu theo thế gian sanh ra sự chết” (2Cô. 7:10). (Rev. Doan Nhat Tan, PhD.) ![]()
“PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ CÓ LÒNG ĐÓI KHÁT” (Ma. 5:1-3) “Bài Giảng Trên Núi” của Đức Chúa Jêsus về “Các Phước Lành” vĩnh viễn là một núi kim cương hùng vĩ, lấp lánh các nguyên lý Thiên Đàng. Mỗi khi tiếp cận phân đoạn Kinh Thánh này (Ma. 5:1-12), với sự hiểu biết thô thiển và kinh nghiệm ít oi của bản thân, tôi luôn thấy mình chỉ như một đứa bé, choáng ngợp trước vô vàn tia sáng phản chiếu vinh quang Thiên Thượng. Tôi muốn lĩnh hội sao cho được trọn vẹn nhưng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. Tôi muốn diễn đạt cho sao cho thật khúc chiết để làm ích nhiều nhất cho đàn chiên nhỏ bé mà Đức Chúa Trời đã ủy thác cho tôi chăm nuôi nhưng, đáng thương thay, cũng chỉ là những lời thô thiển, tầm thường… Ước ao rằng chính Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ cho người đọc có được những sự nội kiến đẹp ý Đức Chúa Trời; còn những gì được viết ra đây chỉ là chỗ dựa cho sự tri giác, giúp cho sự suy gẫm được thuận lợi hơn… “Tolle lege, tolle lege” (“Cứ đọc đi! Cứ đọc đi!”) [St. Augustine, 354-430] (Mục Sư Đoàn Nhật Tân, Tháng Mười 2006) Đối với một con người thiên nhiên, “Bài Giảng Trên Núi” của Đức Chúa Jêsus dễ khiến họ cảm thấy bối rối. Hễ khi nào chúng ta còn cậy mình, Đức Chúa Trời vẫn còn để cho sự yếu đuối của chúng ta phô bày ra. Chỉ khi nào chúng ta, bởi ơn của Đức Chúa Trời, biết đến với Ngài y theo thân phận cùng khốn của mình và xin tiếp nhận Ân Điển của Ngài, chúng ta mới được Ngài ban phước cho: “1Đức Chúa Jêsus xem thấy đoàn dân đông, bèn lên núi kia; khi Ngài đã ngồi, thì các môn đồ đến gần. 2Ngài bèn mở miệng mà truyền dạy rằng: 3Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì Nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy! (Ma. 5:1-3). A. “NƯỚC THIÊN ĐÀNG” “Nước” hay “Vương Quốc” thường có ba ý nghĩa chính: (1) Sự trị vì của một vị Quốc Vương; (2) Dân Sự và lãnh địa thuộc về một vị Quốc Vương; (3) Sự thụ hưởng cá nhân dưới sự trị vì của một Quốc Vương. “Nước Thiên Đàng” hay “Vương Quốc Đức Chúa Trời” được đề cập trong Kinh Thánh là một khái niệm diễn đạt bằng Tiếng Hêbơrơ hay Hylạp có đầy đủ cả ba ý nghĩa kể trên, nhất là trong Kinh Thánh Tân Ước. I. “Nước Thiên Đàng” Nói Về Sự Trị Vì Của Đức Chúa Trời. Sự đề cập sớm nhất trong Kinh Thánh về “Nước Thiên Đàng” được tìm thấy trong Sách Đaniên: “Trong đời các vua nầy, Chúa trên trời sẽ dựng nên một Nước không bao giờ bị hủy diệt, quyền Nước ấy không bao giờ để cho một dân tộc khác; song nó sẽ đánh tan và hủy diệt hết các nước trước kia, mà mình thì đứng đời đời” (Đa. 2:44). Tuy nhiên, “Nước Thiên Đàng” không phải chỉ thuần túy là sự điều hành trừu tượng. “Nước Thiên Đàng” là sự trị vì của Đức Chúa Trời một cách đầy quyền năng để phá diệt mọi điều ác và cứu chuộc tội nhân. Đức Chúa Jêsus nhất định sẽ trị vì như là Quốc Vương của “Nước Thiên Đàng” sau khi Ngài đã diệt trừ xong các kẻ thù của mình, trong đó kẻ thù cuối cùng là sự chết, sau đó Ngài sẽ dâng “Nước Thiên Đàng” lên cho Đức Chúa Cha (1Cô. 15:24-26). Theo nghĩa này, “Nước Thiên Đàng” sẽ đến trong quyền năng và sự vinh hiển của sự tái lâm của Đức Chúa Jêsus để kết thúc tiến trình diệt trừ các kẻ thù của Ngài. Nhờ các kết quả đã có được cho đến thời điểm hiện tại, chúng ta là những người tin theo Đức Chúa Jêsus đã có thể hưởng được một phần các phước hạnh của “Nước Thiên Đàng” trong khi mong đợi được hưởng các phước hạnh lớn lao hơn khi Đức Chúa Jêsus tái lâm. II.“Nước Thiên Đàng” Nói Về Dân Sự Và Lãnh Thổ Thuộc Về Đức Chúa Trời. Kinh Thánh Tân Ước cũng dùng phạm trù “Nước Thiên Đàng” để chỉ về Dân Sự của Đức Chúa Trời, tức những người đã được Đức Chúa Trời cứu chuộc bằng công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus: “Đấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, và làm cho chúng ta nên Nước Ngài, nên Thầy Tế Lễ của Đức Chúa Trời là Cha Ngài…” (Khải. 1:6). “Ngài đã làm cho những người ấy nên Nước, và Thầy Tế Lễ cho Đức Chúa Trời chúng ta; những người ấy sẽ trị vì trên mặt đất” (Khải. 5:10). Hiện nay chương trình cứu cuộc của Đức Chúa Trời chưa kết thúc, Dân Sự Ngài còn chịu sự phối thuộc tư cách công dân với các nước của thế gian. Trong tương lai, khi chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời hoàn tất, “Nước Thiên Đàng” sẽ là một thực thể có lãnh thổ (Khải. 21:1-27). III. “Nước Thiên Đàng” Nói Về Sự Thụ Hưởng Cá Nhân Dưới Sự Trị Vì Của Đức Chúa Trời. Sự thụ hưởng cá nhân trong “Nước Thiên Đàng” vừa vốn có trong quá khứ, đang có trong hiện tại, và sẽ còn đến trong tương lai. Lời rao báo sớm nhất trong Kinh Thánh Tân Ước về “Nước Thiên Đàng” là lời của Giăng Báptít: “Các ngươi phải ăn năn, vì Nước Thiên Đàng đã đến gần” (Ma. 3:2). Mệnh lệnh về một tấm lòng “ăn năn” là sứ điệp xuyên suốt để được hưởng “Nước Thiên Đàng”: “Từ lúc đó, Đức Chúa Jêsus khởi giảng dạy rằng: Các ngươi hãy ăn năn, vì Nước Thiên Đàng đã đến gần” (Ma. 4:17). “Nước Thiên Đàng” được giới thiệu cho thế gian qua mục vụ của Giăng Báptít, và phải được nhận thức, theo đuổi bằng sự quyết tâm. Sự hai lòng, giả hình của người Pharisi, dầu rằng theo dòng giống thì họ là người được thừa kế, không cho phép “Nước Thiên Đàng” hiện hữu trong lòng họ một cách tự động được: “Luật Pháp và các Lời Tiên Tri có đến đời Giăng mà thôi; từ đó, Tin Lành của Nước Đức Chúa Trời được truyền ra, và ai nấy dùng sức mạnh mà vào đó” (Lu. 16:16; Gk. βιάζω [biazo] = dốc lòng, dốc sức). Trên một phương diện, “Nước Thiên Đàng” chính là kinh nghiệm bản thân về sự điều khiển, dắt dẫn của Đức Chúa Trời trên đời sống cá nhân. Dầu rằng “Nước Thiên Đàng” đã được mở ra trên đất, nhưng để hưởng được “Nước Thiên Đàng” người ta phải mở cửa lòng mình ra để đón nhận: “Đức Chúa Jêsus cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời” (Gi. 3:3). Trên phương diện là sự thụ hưởng cá nhân dưới sự trị vì của Đức Chúa Trời, “Nước Thiên Đàng” là năng lực cảm thụ và đáp ứng với quyền năng Thiên Thượng chứ không phải chỉ là chữ nghĩa, văn tự: “Vì nước Đức Chúa Trời chẳng phải ở tại lời nói, mà ở tại năng lực” (1Cô. 4:20). Đó chính là sự dạy dỗ trong lời phán của Đức Chúa Jêsus trong “Bài Giảng Trên Núi”: “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì Nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy” (Ma. 5:3). B. “KẺ CÓ LÒNG KHÓ KHĂN” Trong Định Kỳ Hội Thánh, “Nước Thiên Đàng” chỉ về trạng thái một cá nhân đầu phục hoàn toàn theo sự dắt dẫn của Thánh Linh Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, nếu một người chẳng nhờ nước và Đức Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Đức Chúa Trời” (Gi. 3:5). Khi vua Salômôn làm vua dân Ysơraên, Đức Chúa Trời hứa ban bất cứ điều gì ông xin. Thay vì xin sự giàu sang, quyền lực; Salômôn đã xin Đức Chúa Trời sự khôn ngoan. Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu xin ấy và ban cho vua Salômôn sự khôn ngoan. Với sự khôn ngoan từ nơi Đức Chúa Trời, mọi sự khác đều đã đến với vua Salômôn. Đó là một hình ảnh cho thấy tác dụng phi thường của một tấm lòng “khó khăn”. “Có lòng khó khăn” là nhận thức được sự thiếu kém của mình và biết nương cậy Đức Chúa Trời trong tất cả mọi sự. Nhờ vậy, kẻ “có lòng khó khăn” sẽ được ban cho “Nước Thiên Đàng”. Ai biết lấy Đức Chúa Trời làm lẽ sống của mình sẽ được Ngài ban cho tất cả để sống. Các nhân vật Kinh Thánh đã biểu lộ “lòng khó khăn” của họ như thế nào, và làm thế nào để chúng ta thực sự có “lòng khó khăn” để có thể thừa hưởng được “Nước Thiên Đàng”? I. “Lòng Khó Khăn” Phải Thường Trực. Khi dân Ysơraên rời khỏi xứ Aicập, họ đã mang theo một phần sự giàu có của Aicập mà Đức Chúa Trời cho phép họ đòi hỏi như tiền công cho những năm dài phục dịch (Xuất. 11:2; Thi. 105:37). Tuy nhiên, tình trạng sung túc tài chính ấy đã không giải quyết nổi vấn đề thiếu nước uống của họ trong sa mạc. Tiền bạc là một việc, nhưng thức ăn, nước uống trong sa mạc lại hoàn toàn là một việc khác. Lúc ấy, dân Ysơraên thừa tiền của nhưng lại thiếu nước để sống. Nếu không có sự tiếp trợ của Đức Chúa Trời, sự sống của họ đã phải giã từ sự giàu có để ra đi. Vào mỗi buổi sớm mai, Đức Chúa Trời đã ban cho họ Mana, một loại thức ăn từ trời rơi xuống sáu ngày mỗi tuần. Dân Sự chỉ được phép nhặt một số lượng đủ dùng cho mỗi ngày. Số Mana dùng còn thừa sẽ trở nên hư thối, hóa sâu bọ trong ngày tiếp theo (Xuất. 16:16-21). Tuy nhiên, vào ngày (Thứ Sáu) trước ngày Sabát, họ được phép thu nhặt nhiều gấp đôi ngày thường (Xuất. 16:22-24). Bằng việc qui định như thế, Đức Chúa Trời dạy cho Dân Sự Ngài biết nương cậy nơi Ngài mỗi ngày. Sự cung ứng Mana của Đức Chúa Trời cho dân Ysơraên dạy cho chúng ta biết thế nào là “có lòng khó khăn”. Đức Chúa Trời muốn chúng ta: (1) Trực tiếp nhận từ nơi Ngài sự đáp ứng thuộc linh; (2) Biết rằng sự đáp ứng thuộc linh là nhu cần hàng ngày và phải được nhận mỗi ngày; (3) Phải có sự chuẩn bị thuộc linh cho sự yên nghỉ trong Ngài. Thử tưởng tượng, bầu không khí thuộc linh trong Hội Thánh mỗi Chúa Nhật sẽ tốt đẹp biết bao nếu mọi người trong Hội Thánh đều chuẩn bị lòng mình cho Lời Chúa, cho sự cầu nguyện, cho sự thờ phượng,… ngay từ ngày (Thứ Bảy) hôm trước? Có được như thế, buổi thờ phượng Chúa Nhật của chúng ta sẽ được sự hiện diện đầy quyền năng của Đức Thánh Linh. Ngược lại, nếu Dân Sự chỉ biết dành duy nhất ngày Chúa Nhật để gặp gỡ với Đức Chúa Trời cho cả tuần lễ, sự kinh nghiệm Chúa của họ sẽ lập tức bị thui chột ngay vào ngày hôm sau theo cùng một cách mà ngày xưa Mana đã bị phân hủy! Chúng ta được dạy phải biết chuẩn bị thích đáng cho sự giao ngộ với Đức Chúa Trời của mình. II. “Lòng Khó Khăn” Phải Tích Cực. Sự nương cậy nơi Đức Chúa Trời là một nổ lực tích cực của ý chí, không phải chỉ là phản ứng có điều kiện theo cảm xúc. Đaniên là một con người thực sự “có lòng khó khăn”. Nhu cần tương giao với Đức Chúa Trời của Đaniên lớn không có gì ngăn cản nổi. Chính những người chống đối Đaniên biết rõ điều đó và họ đã tâu xin vua ban một sắc lệnh cấm không được cầu nguyện với bất cứ thần nào khác trong thời hạn ba mươi ngày. Đúng như mưu tính của những kẻ gian ác, Đaniên đã không bỏ sự cầu nguyện với Đức Chúa Trời của mình và đã bị ném vào hang sư tử để trừng phạt. “Có lòng khó khăn” là có cả Thiên Đàng với muôn thiên binh, thiên sứ và Đức Chúa Trời mình! Đaniên đã được bình an vô sự trước lũ sư tử đói mồi, khát máu. Đã bao giờ chúng ta bị đặt vào hoàn cảnh khó khăn như Đaniên chưa? Liệu chúng ta “có lòng khó khăn” như Đaniên không? Sự nương cậy đúng nghĩa nơi Đức Chúa Trời phải là một sự nương cậy chân thực. Sách Mác Chương10 trước thuật về một người trai trẻ, giàu có được kể là đã giữ mọi điều Luật Pháp đòi hỏi “từ khi còn nhỏ” (Mác 10:20), được chính Đức Chúa Jêsus xem như chỉ “còn thiếu một điều” (Mác 10:21) nhưng đã thất bại trong việc nắm bắt “sự sống đời đời” (Mác 10:17) vì người này “có nhiều của lắm” (Mác 10:22). Chính các môn đồ của Đức Chúa Jêsus cũng không tự tách vạch nổi bản chất của vấn đề (Mác 10:28), và đã phải cần đến sự minh giải của Đức Chúa Jêsus: “29Quả thật, Ta nói cùng các ngươi, chẳng một người nào vì Ta và Tin Lành từ bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đất ruộng, 30mà chẳng lãnh được đương bây giờ, trong đời nầy, trăm lần hơn về những nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con, đất ruộng, với sự bắt bớ, và sự sống đời đời trong đời sau” (Mác 10:29-30). Sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus về việc “có lòng khó khăn” không nói về sự khó khăn vật chất. Tuy nhiên, có một mối tương quan giữa sự nghèo khó thuộc linh và sự nghèo khó trong đời này. Con người thiên nhiên luôn có xu hướng ỷ lại nơi những gì mình có. Khi không thể tìm được sự nương cậy nơi của cải vật chất, người ta sẽ dễ dàng hơn trong việc đến với Kinh Thánh để tìm kiếm lẽ thật và sự khôn ngoan. Khi không thể ỷ lại vào của cải vật chất, người ta sẽ thấy dễ dàng hơn trong việc hạ mình, quì gối trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm sự thương xót của Ngài. “Có lòng khó khăn” cũng không nói về sự thiếu hiểu biết Kinh Thánh. Có người tưởng lầm rằng có sự hiểu biết về Kinh Thánh đồng nghĩa với sự trưởng thành thuộc linh, nhưng điều ấy không đúng. Có một kiến thức Kinh Thánh phong phú có thể giúp ích cho người ta tăng trưởng trong đời sống Cơ Đốc. Tuy nhiên, đời sống Cơ Đốc là một vấn đề hoàn toàn khác: Đời sống Cơ Đốc là đời sống làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong Kinh Thánh chứ không phải chỉ là sự hiểu biết về Kinh Thánh. Đời sống Cơ Đốc có liên quan đến việc vâng theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, áp dụng sự dạy dỗ Kinh Thánh trong đời sống mình. “Có lòng khó khăn” cũng không có nghĩa là tự đánh giá thấp về mình. Đức Chúa Trời muốn chúng ta có nhận thức về mình đúng y theo như vốn có, không hơn, không kém. Đức Chúa Trời không hề muốn chúng ta tự gớm ghét mình, Ngài chỉ đòi hỏi chúng ta phải nương cậy Ngài mà thôi. “Có lòng khó khăn” có nghĩa là tự nhận thức được trạng thái băng hoại thuộc linh của bản thân; biết rằng không thể tự mình hoàn thiện mình, không thể tự mình cứu mình được mà phải hoàn toàn nương cậy nơi Ân Điển của Đức Chúa Trời (Lu. 18:9-14). Phước hạnh Thiên Thượng sẵn dành cho những ai sống đẹp ý Đức Chúa Trời. Ngài dò thấu tận trong lòng mỗi người, và Ngài làm ơn dồi dào cho ai biết tận hiến để hoàn thành ý chỉ của Ngài trên đời sống mình. Là Cơ Đốc Nhân chân thực, người ta phải tìm thấy được mọi sự có cần cho đời sống theo Chúa từ nơi Đức Thánh Linh đang ở cùng trong đời sống mình. Sự hiện diện của Đức Thánh Linh đem Vương Quốc của Đức Chúa Trời đến trong đời sống của bất cứ ai thành tâm, trung tín trong sự nương cậy Ngài, chịu để cho Ngài dắt dẫn. “Có lòng khó khăn” là có một sự nhận thức thường trực, tích cực, và chân thực về thân phận bất lực của mình; biết trông cậy ở sự đáp ứng toàn diện và tuyệt đối của duy nhất Đức Chúa Trời cho mọi nhu cần cá nhân. (Rev. Doan Nhat Tan, PhD.) ![]()
“HỘI THÁNH THEO KINH THÁNH” (Kinh Thánh: Công. 2:40-47) “Vả, những người ấy bền lòng giữ lời dạy của các Sứ Đồ, sự thông công của anh em, lễ bẻ bánh, và sự cầu nguyện” (Công. 2:42) Đại Mạng Lịnh của Đức Chúa Jêsus đối với tất cả các tín hữu của Ngài là hãy môn đồ hóa muôn dân, “Hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đứa Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép Báptêm cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà Ta đã truyền cho các ngươi” (Ma. 28:19-20). Công. 2 mô tả về một bước khởi đầu rực rỡ của việc thực hiện Đại Mạng Lịnh của Chúa. “Mỗi ngày Chúa lấy những kẻ được cứu thêm vào Hội Thánh” (Công. 2:47b) là tin vui cho Hội Thánh khắp mọi nơi từ thời ấy đến nay. Thế nhưng phải chăng “Hội Thánh” luôn luôn là Hội Thánh hợp Kinh Thánh, là Hội Thánh đẹp ý Đức Chúa Trời? Hội Thánh theo Kinh Thánh cần phải có các loại hình sinh hoạt căn bản nào để bảo đảm được tính hợp Kinh Thánh của Hội Thánh cho đẹp ý Đức Chúa Trời? I. “GIỮ LỜI DẠY CỦA CÁC SỨ ĐỒ” Hội Thánh sơ kỳ đã được thành lập trước khi Kinh Thánh Tân Ước được hoàn thành. Vì vậy, các tín hữu đã phải nhận sự dạy dỗ của các Sứ Đồ về những điều mà các vị Sứ Đồ đã được nhận trực tiếp từ sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus: “Chúng tôi lấy điều đã thấy, đã nghe mà truyền cho anh em, hầu cho anh em cũng được giao thông với chúng tôi. Vả chúng tôi vẫn được giao thông với Con Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ” (1Gi. 1:3). Dầu vậy, đối với các tín hữu ngày nay, khi sự khải thị của Đức Chúa Trời qua Kinh Thánh đã hoàn thành, không còn gì quí hơn cho họ là được hưởng sự bổ dưỡng trực tiếp từ “sữa thiêng liêng của Đạo” là những sự dạy dỗ trực tiếp từ Lời Đức Chúa Trời. “1Vậy anh em đã từ bỏ mọi điều độc ác, mọi điều gian giảo, mọi thứ giả trá, lòng ghen ghét và sự nói hành, 2thì hãy ham thích sữa thiêng liêng của Đạo, như trẻ con mới đẻ vậy, hầu cho anh em nhờ đó lớn lên mà được rỗi linh hồn” (1Phi. 2:1-2). Về phần người chăn bầy của Đức Chúa Trời, việc bền chí dạy cho các tín hữu giáo lý Kinh Thánh chân chính, và chỉ giáo lý Kinh Thánh chân chính mà thôi, là một đòi hỏi bắt buộc: “Hãy giảng Đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi” (2Ti. 4:2). “Nhưng con hãy dạy điều hiệp với đạo lành” (Tít 2:1). “4Lời nói và sự giảng của tôi chẳng phải bằng bài diễn thuyết khéo léo của sự khôn ngoan, nhưng tại sự tỏ ra Thánh Linh và quyền phép; 5hầu cho anh em chớ lập đức tin mình trên sự khôn ngoan loài người, bèn là trên quyền phép Đức Chúa Trời” (1Cô. 2:4-5). “20Anh em biết tôi chẳng trễ nải rao truyền mọi điều ích lợi cho anh em, chẳng giấu điều chi hết, lại biết tôi đã dạy anh em hoặc giữa công chúng, hoặc từ nhà nầy sang nhà kia, 21giảng cho người Giuđa như cho người Gờréc về sự ăn năn đối với Đức Chúa Trời, và đức tin trong Đức Chúa Jêsus là Chúa chúng ta” (Công. 20:20-21). Các nguyên tắc ấy đã được Sứ Đồ Phaolô thiết lập khi thành lập Hội Thánh cho Dân Ngoại, và đó là những nguyên tắc Kinh Thánh phải luôn luôn được giữ vững, không thể được phép làm ngơ. Trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời, việc “sáng tác” giáo lý phi và phản Kinh Thánh, tự nhận cho mình “quyền Sứ Đồ” là một trọng tội đối với Đức Chúa Trời: “36Có phải là Đạo Đức Chúa Trời ra từ nơi anh em, hoặc chỉ đến cùng anh em mà thôi chăng? 37Nếu ai tưởng mình là Tiên Tri, hay là được Đức Thánh Linh soi sáng, thì người ấy hãy biết rằng điều tôi viết cho anh em đây là mạng lịnh của Chúa” (1Cô. 14:36-37). II. “SỰ THÔNG CÔNG CỦA ANH EM” Sự tăng trưởng thuộc linh có thể được khơi dậy nhờ sự thông công giữa vòng anh chị em tín hữu với nhau. Mỗi Cơ Đốc Nhân là một “con chiên” của Đức Chúa Jêsus và là chi thể của Thân Thể Đấng Christ. Mỗi một Cơ Đốc Nhân đều đã được ban cho một hoặc các ân tứ thuộc linh để phục vụ, gây dựng lẫn nhau: “5Chúng ta là nhiều người mà hiệp nên một Thân trong Đấng Christ, và hết thảy chúng ta đều là các phần chi thể của nhau. 6Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta, ai được ban cho nói tiên tri, hãy tập nói theo lượng đức tin, 7ai được gọi đến làm chức vụ, hãy buộc mình vào chức vụ; ai dạy dỗ, hãy chăm mà dạy dỗ; 8ai gánh việc khuyên bảo, hãy khuyên bảo; ai bố thí, hãy lấy lòng rộng rãi mà bố thí; ai cai trị, hãy siêng năng mà cai trị; ai làm sự thương xót, hãy lấy lòng vui mà làm” (Rô. 12:5-8). Sự ràng buộc với nhau nhờ mối thông công sẽ đem lại được sự khoan dung đối với nhau, và sự cưu mang lẫn nhau. Nhờ có sự thông công, các thánh đồ của Hội Thánh Đức Chúa Trời buổi sơ kỳ đã biết chia sẻ cho nhau các nhu cần cơ bản hằng ngày: “34Vì trong tín đồ không ai thiếu thốn cả, bởi những người có ruộng hay nhà, đều bán đi, bán được bao nhiêu tiền cũng đem đến 35đặt dưới chân các Sứ Đồ; rồi tùy theo sự cần dùng của mỗi người mà phát cho” (Công. 4:34-35). Không hề có nơi nào trong suốt cả Kinh Thánh Tân Ước từ liệu “thông công” nói về “sự vui chơi” vì có vẻ đó là điều trái với ý muốn của Đức Chúa Trời: “Nhưng về phần kẻ ưa sự vui chơi, thì dẫu sống cũng như chết” (1Ti. 5:6). Từ liệu “thông công” (Gk. koinonia) hàm ý về sự chia sẻ. Trong Hội Thánh, “thông công” là chia sẻ với nhau về đức tin chung, chia sẻ với nhau về xúc cảm riêng tư, về gánh nặng riêng tư đến nỗi cái riêng của mỗi người, cả buồn và vui, không còn là riêng nữa… “Cả Luật Pháp chỉ tóm lại trong một lời nầy: Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mình… Hãy mang lấy gánh nặng cho nhau, như vậy anh em sẽ làm trọn Luật Pháp của Đấng Christ…” (Gal. 5:14; 6:2). Do đó, sự “thông công” có nghĩa chung là việc tham dự vào một điều gì đó bằng hành vi “cho” hoặc “nhận” tùy theo trường hợp. Mục đích của sự thông công trong Hội Thánh luôn luôn là để gây dựng cho người khác hơn là tìm sự hưởng thụ cho chính mình: “24Ai nấy hãy coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành; 25chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy” (Hê. 10:24-25). III. “LỄ BẺ BÁNH” Sự thông công cần thiết cho sự tăng trưởng thuộc linh của Cơ Đốc Nhân, nhưng mối thông công giữa con người với nhau luôn luôn là một cái gì đó “mỏng manh”, “dễ vỡ” (Gia. 3:1-12; Rô. 7:14; Gal. 5:17). Tinh thần hiệp một trong một công đồng, chẳng hạn một Hội Thánh Địa Phương, có thể dễ dàng bị tổn hại do việc hiểu lầm hoặc các sự tổn thương do còn non yếu về sự trưởng thành thuộc linh. Do đó, Đức Chúa Jêsus, Nguyên Thủ của Hội Thánh, đã thiết lập Lễ Tiệc Thánh của Ngài để các tín hữu muôn đời lấy đó làm một thời điểm, cơ hội để không những tưởng nhớ về công trình đền tội thay mà Ngài đã hoàn thành trên Thập Tự Giá, mà cũng còn để cho họ kết ước với Ngài và kết ước với nhau: “28Vậy mỗi người phải tự xét lấy mình, và như thế mới ăn bánh, uống chén ấy; 29vì người nào không phân biệt Thân Chúa mà ăn bánh uống chén đó, tức là ăn uống sự xét đoán cho mình” (1Cô. 11:28-29). “Tự xét lấy mình” (Gk. dokimazo) là tự tra xét xem mình có thực sự ăn năn tội và đã xử lý xong các vấn đề liên quan chưa. “Phân biệt Thân Chúa” là nhận thức đầy đủ tính biểu tượng thuộc linh của Lễ Tiệc Thánh: “Thân Chúa” (Gk. soma) mà tín hữu phải nhận thức trong Lễ Tiệc Thánh là Hội Thánh của Đức Chúa Jêsus (chứ chẳng phải lễ phẩm sẽ trở nên thân thể hữu cơ của Ngài)! “Phân biệt Thân Chúa” (Gk. diakrino) trong Lễ Tiệc Thánh là nhận thức ý nghĩa không gì so sánh được của Hội Thánh là cộng đoàn mà Đức Chúa Jêsus đã xả thân để mua chuộc về cho Ngài, và nhận thức về vai trò của mình trong Hội Thánh, nhất là trong mối quan hệ với các thành viên khác trong Hội Thánh: “Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại; chính mình anh em lại phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng?” (Gal. 6:1). “14Vả, nếu các ngươi tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ tha thứ các ngươi. 15Song nếu không tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha lỗi cho các ngươi” (Ma. 6:14-15). Dự Lễ Tiệc Thánh, Cơ Đốc Nhân kết ước với Đức Chúa Jêsus về việc sẽ rao sự chết của Ngài cho đến lúc Ngài tái lâm: “Ấy vậy, mỗi lần anh em ăn bánh nầy, uống chén nầy, thì rao sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến” (1Cô. 11:26). Dự Lễ Tiệc Thánh, Cơ Đốc Nhân kết ước tha thứ và yêu thương nhau để tự chứng rằng mình là môn đồ của Đức Chúa Jêsus và để gây dựng Thân Thể thuộc linh của Ngài là Hội Thánh: “Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ Ta” (Gi. 13:35). Cũng chính vì thế mà các thánh đồ của Hội Thánh sơ kỳ đã giữ Lễ Tiệc Thánh mỗi ngày (Công. 2:46). IV. “SỰ CẦU NGUYỆN” Sự cầu nguyện của Hội Thánh không phải chỉ là nghi thức chiếu lệ. Thời gian cầu nguyện là thời gian người tín hữu thiết tha tâm sự với Đức Chúa Trời và rồi sự làm chứng tốt về quyền năng Đức Chúa Trời sẽ được hiển thị ra để đem người ta đến chỗ nương cậy Ngài và có ích cho Ngài nhiều hơn nữa: “Khi đã cầu nguyện, thì nơi nhóm lại rúng động; ai nấy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, giảng Đạo Đức Chúa Trời cách dạn dĩ” (Công. 4:31). “Cầu nguyện” (Gk. proseuche) là sự thông công của người tín hữu với Cứu Chúa của mình, là hơi thở của đời sống thuộc linh Hội Thánh. Mọi sự đều ở trong Chúa nên mọi sự phải được dâng lên cho Ngài: “17Ngài có trước muôn vật, và muôn vật đứng vững trong Ngài. 18Ấy cũng chính Ngài là Đầu của Thân Thể, tức là Đầu của Hội Thánh. Ngài là ban đầu, sanh trước nhứt từ trong những kẻ chết, hầu cho trong mọi vật, Ngài đứng đầu hàng” (Côl. 1:18-19). “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời” (Phil. 4:6). “Lại hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em” (1Phi. 5:7). Trong thời đại chúng ta đang sống, hiện có một khuynh hướng thịnh hành là thiên nhiều về truyền giáo mà lại xao lãng các sinh hoạt căn bản của Hội Thánh. Tất nhiên là chúng ta vui mừng khi biết được rằng có nhiều linh hồn được cứu, nhưng việc các tân tín hữu phải được chăm nuôi như thế nào cũng là một sự đòi hỏi hợp Kinh Thánh nữa. Nhu cần chăm sóc các “chiên con” là một trong những sự quan tâm hàng đầu của Đức Chúa Jêsus (Gi. 21:15). Các tân tín hữu cần một sự bảo vệ và chăm sóc thường xuyên. Họ cần có được sự hướng dẫn thực hành để có được các phẩm hạnh và hành vi cần thiết của một đời sống theo Chúa. Cũng có thể là trong đời sống thuộc linh cá nhân của mỗi người chúng ta vẫn còn yếu kém ở một phương diện nào đó. Chúng ta hãy dũng cảm làm tất cả những gì có thể làm được để bồi dưỡng cho chính bản thân cũng như cho các tín hữu khác đi đến chỗ trưởng thành thuộc linh. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“CON ĐƯỜNG NÀO PHẢI ĐI?” “Đức Chúa Trời phán cùng Balaam rằng: Ngươi chớ đi với chúng nó, chớ rủa sả dân nầy, vì dân nầy được ban phước.” (Dân. 22:12) Hầu như chúng ta ai cũng đều đồng ý rằng đường lối của Đức Chúa Trời là tốt nhất. Thế nhưng, không phải tất cả những người biết rằng đường lối Đức Chúa Trời là tốt đều từ bỏ đường lối riêng của mình để đi theo đường lối của Ngài. Có một sự cách biệt lớn lao giữa việc biết điều tốt và làm theo điều tốt. Nói và làm là hai phạm trù hoàn toàn khác nhau. Những con người tôn giáo nửa mùa hay giả danh tôn giáo chính là những người chuyên hô hào các định hướng tốt đẹp nhưng không bao giờ chịu làm theo. Những nhà lừa đảo tôn giáo chuyên nghiệp bao giờ cũng cắm một chân trong đạo và chân còn lại thì cố chiếm lấy một chỗ ngoài đời. Họ khiến chúng ta nhớ đến lời của Sứ Đồ Phaolô: “1Hãy biết rằng trong ngày sau rốt, sẽ có những thời kỳ khó khăn. 2Vì người ta đều tư kỷ, tham tiền, khoe khoang, xấc xược, hay nói xấu, nghịch cha mẹ, bội bạc, không tin kính, 3vô tình, khó hòa thuận, hay phao vu, không tiết độ, dữ tợn, thù người lành, 4lường thầy phản bạn, hay nóng giận, lên mình kiêu ngạo, ưa thích sự vui chơi hơn là yêu mến Đức Chúa Trời, 5bề ngoài giữ điều nhân đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhân đức đó. Những kẻ thể ấy, con hãy lánh xa đi” (2Ti. 3:1-5). Cần phải biết một số điều căn bản về nhân vật Balaam mới có thể hiểu được câu chuyện trước thuật trong Dân. 22. Càng biết nhiều về Balaam, chúng ta càng có được nhiều sự nội kiến hơn về các quyết định của Balaam và về cách Đức Chúa Trời đối đãi với Balaam thể theo hành động của con người này. I. CON ĐƯỜNG CỦA BALAAM Balaam không phải là một người Do Thái. Balaam là một người ngoại bang đến từ miền Mêsôpôtami. Lắm người khi đọc câu chuyện này cứ ngỡ Balaam là một người công bình. Điều ấy không đúng. Dầu rằng vào thời của Balaam, có nhiều người đã xem Balaam là một Đấng Tiên Tri, nhưng không phải thế. Balaam là một thầy phù thủy (C. 7). Đối với Balaam, tôn giáo là một loại công việc chứ không phải là một lẽ sống. Thời ấy, các thầy phù thủy được người ta cho là có ảnh hưởng đối với các thần; vì thế, vua Môáp muốn nhờ Balaam sử dụng quyền lực của mình đối với Đức Chúa Trời của Ysơraên để gán trên Ysơraên một lời rủa sả. Vua Môáp mong rằng với tà thuật, Đức Chúa Trời sẽ lìa bỏ Ysơraên là Dân Ngài. Rõ ràng là cả Balaam lẫn Balác đều không hình dung được là họ đang muốn tác động trên một Đấng vĩ đại như thế nào! Câu chuyện về Balaam thể hiện cho thấy một trạng thái dối giả: Vẻ bề ngoài là thuộc linh (Sv. Cc. 8, 13, 18), nhưng bên trong là một đời sống sa bại. Balaam chỉ vâng theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời khi nào sự vâng lời ấy còn giúp ông kiếm chác được. Điều này khá quen thuộc trong Hội Thánh ngày nay! Mặc dầu Balaam biết rằng Đức Chúa Trời của Ysơraên là một Đức Chúa Trời đáng kính sợ, tấm lòng của Balaam vẫn đầy ắp tham vọng được làm giàu nhờ người Môáp. Sự pha tạp giữa các động cơ đối nghịch nhau - sự vâng lời và sự kiếm chác - cuối cùng đã dẫn Balaam vào con đường sự chết: “15Chúng nó đã bỏ đường thẳng mà đi sai lạc theo đường của Balaam, con trai Bôsô, là kẻ tham tiền công của tội ác; nhưng người bị trách về sự phạm tội của mình. 16Bởi có một con vật câm nói tiếng người ta, mà ngăn cấm sự điên cuồng của người tiên tri đó” (2Phi. 2:15-16). “11Khốn nạn thay cho chúng nó, vì đã theo đường của Cain, lấy lòng tham lợi mà gieo mình vào sự sai lạc của Balaam; và bị hư mất về sự phản nghịch của Côrê. 12Những kẻ đó là dấu vít trong đám tiệc anh em, như người chăn chiên chỉ tưởng nuôi mình no nê, không lo sợ gì; như đám mây không nước, theo gió đưa đi dây đó, như cây tàn mùa Thu, không có trái, hai lần chết, trốc lên bực rễ” (Giu. 11-12). “Bề ngoài giữ điều nhân đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhân đức đó” chính là nét tính cách của Balaam. Balaam biết rõ rằng đường lối của Đức Chúa Trời là tốt nhất mà vẫn cứ hành động theo lịch trình của mình, đi theo lộ trình mà mình đã vạch sẵn. Tại sao Đức Chúa Trời lại phán qua một người như Balaam, hay là đã sử dụng một thầy phù thủy như Balaam? Thứ nhất, Đức Chúa Trời có thể sử dụng một người chẳng màng chi đến công việc của Ngài để hoàn thành các mục đích của Ngài. Đức Chúa Trời muốn ban cho người Môáp một thông điệp qua người họ đã thuê là Balaam. Balaam đã được chuẩn bị sẵn cho Đức Chúa Trời sử dụng giống như ngày xưa Đức Chúa Trời đã sử dụng Pharaôn gian ác để hoàn thành ý chỉ của Ngài ở Aicập, hay là Ngài đã sử dụng Sêsa trong thời Đức Chúa Jêsus. Thứ hai, Đức Chúa Trời có một chương trình cho Balaam, nhưng Balaam đã theo chương trình riêng của mình. Đức Chúa Trời ban cho Balaam một cơ hội, cũng giống như Ngài luôn ban cơ hội cho tất cả mọi người chúng ta, để quay trở lại với Ngài. Mỗi người chúng ta đều có những cơ hội như Balaam. Điểm chính là chúng ta có biết lắng nghe Ngài hay không mà thôi. Balaam chạm trán với chính Đức Chúa Trời, đó là cơ hội vàng để khôi phục lại đời sống cho đúng đường lối, nhưng Balaam đã cố tình cho trôi qua. II. CON ĐƯỜNG PHẢI ĐI Có những lý do nhất định khiến cho người ta lãng tránh ý chỉ của Đức Chúa Trời. Chúng ta không thể nào nhận ra được ý chỉ của Đức Chúa Trời dầu ý chỉ ấy ở ngay trước mặt chúng ta, vì chúng ta không hề quan tâm đến. Đôi khi chúng ta có thấy, có biết nhưng lại cố làm ngơ… Trong câu chuyện này, Đức Chúa Trời đã sử dụng một con lừa để dạy cho Balaam về con đường phải đi. Câu chuyện đem lại cho chúng ta một số bài học: 1. Bài Học Thứ Nhất: Đức Chúa Trời Đòi Hỏi Chúng Ta Phải Tuyệt Đối Vâng Lời Ngài (C. 12). Đức Chúa Trời đã ban cho Balaam một chỉ thị rằng “Ngươi chớ đi với chúng nó, chớ rủa sả dân nầy, vì dân nầy được ban phước” (C. 12). Mệnh lệnh này thật rõ ràng. Lời phán của Đức Chúa Trời luôn luôn dứt khoát; khi Ngài phán đừng đi cũng dứt khoát như khi Ngài phán hãy đi: “1Có lời Đức Giêhôva phán cho Giôna con trai Amitai như vầy: 2Ngươi khá chỗi dậy! Hãy đi đến thành lớn Ninive, và kêu la nghịch cùng nó; vì tội ác chúng nó đã lên thấu trước mặt Ta” (Giôna. 1:1-2). Tương tự với Giôna, Balaam gặp rắc rối không phải vì Đức Chúa Trời đã không hướng dẫn mà là vì đã không chịu theo sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời. Ở đây không có vấn đề hiểu lầm hay giải nghĩa lầm. Đây là vấn đề của sự vâng lời. Một khi Đức Chúa Trời phán rằng phải làm thì hãy cứ mà làm. Đừng bao giờ nghi ngờ, ngại ngần hay cố làm cho sự vật chìu theo ý muốn của mình. Balaam hiểu Đức Chúa Trời chứ chẳng phải là không (C. 13). Ngay lần đầu tiên khi Balác sai người đến với Balaam, đâu có điều gì khiến cho Balaam không hiểu được ý chỉ của Đức Chúa Trời? Thật ra, đâu cần phải đợi chờ gì thêm, ý chỉ của Đức Chúa Trời đã rõ ràng đủ cho Balaam làm theo rồi! Chính Balaam cũng tỏ cho thấy là mình biết điều ấy: “Đức Chúa Trời chẳng phải là người để nói dối,_Cũng chẳng phải là con loài người đặng hối cải._Điều Ngài đã nói, Ngài há sẽ chẳng làm sao?_Điều Ngài đã phán, Ngài há sẽ chẳng làm ứng nghiệm sao?” (Dân. 23:19). Một khi Đức Chúa Trời đã phán truyền cho chúng ta làm gì, Ngài đòi hỏi ở chúng ta một sự vâng lời tuyệt đối. Nếu chúng ta dám điều hòa ý chỉ của Ngài, đừng trách sao phải chịu hậu quả thảm thương! Có người đã nói như thế này: “Lắm khi Đức Chúa Trời trách phạt chúng ta bằng cách để cho chúng ta đi theo đường lối riêng của mình”. 2. Bài Học Thứ Hai: Đức Chúa Trời Luôn Cảnh Báo Cho Chúng Ta Khỏi Lạc Lối (C. 22). Balaam đã hạ quyết tâm là sẽ chẳng làm trái ý Đức Chúa Trời vì tiền, thế nhưng lòng tham giàu sang nhờ Balác đã làm mù mắt Balaam đến mức không còn nhận ra được ra được rằng Đức Chúa Trời không muốn Balaam làm như thế. Dầu rằng chúng ta có thể biết Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm điều gì, chúng ta vẫn cứ có thể trở nên mù quáng vì tiền bạc, của cải, danh vọng. Giống như trường hợp của Balaam, nhiều khi Đức Chúa Trời cũng sẽ “đứng trên đường có cây gươm trần nơi tay” để chống lại chúng ta khi chúng ta đang cố làm một điều gì đó. Đức Chúa Trời yêu chúng ta, Ngài muốn chúng ta suy nghĩ lại, quay trở lại, biết rằng một sự thực hiện nào đó của chúng ta là sai. Đức Chúa Trời không muốn chúng ta tự làm tổn hại mình. Nếu chúng ta rời bỏ ý chỉ của Đức Chúa Trời, Ngài không bao giờ chịu để cho chúng ta đi mà thiếu các bảng cấm trên đường. Thế nhưng vấn đề ở chỗ chúng ta bị cuốn theo làn sóng của ý riêng đến độ không còn nhận ra sự cảnh báo của Đức Chúa Trời. Vì vậy, chúng ta thường phải chịu đau đớn sau đó. Đức Chúa Trời muốn ngăn cản Balaam nhưng Balaam quá tự tin đến mức không sao nhận ra được điều gì khác hơn là ý muốn riêng của mình. Mấy ai biết để ý xem Đức Chúa Trời muốn gì một khi chính lòng mình đang bị một điều gì đó thôi thúc? Đức Chúa Trời muốn cho Balaam phải dừng lại, nhưng “dừng lại” là điều làm cho Balaam trở nên bực bội. Chúng ta cũng thế. Một khi công việc đang diễn tiến bỗng gặp trở ngại, phản ứng của chúng ta là ngã lòng. Chúng ta phân vân không biết mình sẽ phải làm gì, ai sẽ giúp cho chúng ta, hậu quả sẽ thế nào… Hỏng xe dọc đường đã khó, hỏng việc khi công việc đang tiến triển còn khó khăn hơn nhiều! Balaam “hỏng xe’ và trở nên tức giận trước viễn cảnh “hỏng việc”, và phản ứng tâm lý ấy đã biến Balaam thành người mù quáng: Chính Balaam tự biến mình thành một “con lừa” không còn biết phân biệt phải quấy nữa! Balaam đã nghe tiếng phán của Đức Chúa Trời nhưng không làm theo. Balaam thực hiện ý riêng của mình dưới chiêu bài bước đi theo Đức Chúa Trời. Vì thế, Đức Chúa Trời đã chống lại Balaam, Ngài sai Thiên Sứ đứng trên đường “đặng cản người”, làm một rào cản cho Balaam không đi sai đường. Dầu vậy, Balaam không đủ nhạy bén với ý muốn của Đức Chúa Trời và đã trút tai vạ lên con lừa của mình. 3. Bài Học Thứ Ba: Khi Được Đức Chúa Trời Ngăn Cấm, Đừng Đổ Vạ Trên Người Khác. Lắm khi Đức Chúa Trời cố làm cho chúng ta chú ý nhưng chúng ta không hề biết lắng nghe Ngài. Vào những lúc như thế, Đức Chúa Trời thường cho phép những điều nhất định nào đó xảy ra để chúng ta biết quay lại với Ngài mà thưa rằng “Lạy Chúa, con đã sai trật ở đâu, xin phán dạy cho con đi theo đúng ý chỉ của Ngài”. Tuy nhiên, vì quá tự mãn, chúng ta chỉ bận tâm đến công việc đang theo đuổi mà thôi, chúng ta coi thường tất cả các điều khác, và sẵn sàng nổi nóng với bất cứ sự gì gây trở ngại cho chúng ta. Thật ra, khi chúng ta đổ vạ trên một ai đó, điều ấy có nghĩa là chúng ta đang có sự sai trật. Đừng để sự thương tổn hay kiêu căng của mình làm tổn thương người khác. Ngày xưa, con lừa là một công cụ đa năng: Làm phương tiện đi lại, chuyên chở hàng hóa, kéo cối xay thóc, kéo cày,… Thông thường, con lừa là loài có thể cậy nhờ được. Chính điều ấy giải thích vì sao Balaam đã trở nên tức giận khi con lừa của mình đứng lại, không chịu đi tới. Ngay cả khi những người bạn thân, rất đáng tin cậy của chúng ta can gián chúng ta về một điều gì đó, chúng ta vẫn có thể tức giận được! Ba lần Balaam đánh con lừa của mình là vì Balaam bị cầm tù trong sự suy nghĩ của mình mà không nhận thức được các rào cản yêu thương của Đức Chúa Trời dành cho mình (Cc. 23, 25, 27): “Bấy giờ, Đức Giêhôva mở miệng lừa ra, nó nói cùng Balaam rằng: Tôi có làm chi cho người, mà người đã đánh tôi ba lần?” (C. 28). Dầu là một người tài giỏi, danh vọng, nhưng khi bị cầm tù trong tư dục mình người ta vẫn cứ tầm thường hết sức. Balaam là một người thông thái hơn hết đã phải bước vào cuộc đối thoại với một con vật có tiếng là đần độn hơn hết (Cc. 29-30) rồi mới có được sự chứng giải từ nơi Đức Chúa Trời (Cc. 31-34). Trong trường hợp này, nói cho đúng nghĩa, ai là người và ai là lừa là một vấn đề đáng nên suy gẫm vậy! Một khi được Đức Chúa Trời mở mắt ra cho, khi chúng ta nhận thức được mình đã trôi giạt khỏi đường lối Ngài như thế nào rồi, hãy dũng cảm thực hiện một quyết định then chốt là quay trở lại với Ngài để khỏi lún sâu vào con đường hủy diệt! (C. 31). Sự kiêu ngạo làm cho chúng ta xa cách Đức Chúa Trời, khiến cho chúng ta nghịch lại ý chỉ và lời phán của Ngài. Sự kiêu ngạo không giúp cho chúng ta nhận ra sự sai trật của mình để được khôi phục. Mỗi khi nhận ra được sự sai trật của mình, chúng ta đừng chống chế mà hãy đến phủ phục trước Đức Chúa Trời toàn năng để được ban ơn (C. 38; Sv Gia. 4:6; 1Phi 5:5). Con lừa của Balaam là một con lừa trung tín, vì muốn cứu sự sống cho chủ mà phải bị hành hạ (Sv. C. 33). Trong sự nóng giận và u mê, Balaam đã đánh con vật vô tội của mình ba lần. Điều này vẫn thường xảy đến với chúng ta. Rất có thể chúng ta đã từng đối xử tệ bạc với một người nào đó khi họ toan làm điều ích cho chúng ta. Cũng có thể chúng ta đã từng phải chen vào khoảng giữa sự nguy hiểm với bạn thân yêu của mình, và rồi chúng ta phải hứng chịu sự thịnh nộ của bạn mình… Ngày nay, có quá nhiều người trên phương diện danh nghĩa là người rao giảng Lời Đức Chúa Trời nhưng thực chất chỉ là người đi theo con đường Balaam. Đối với hạng lãnh đạo ấy, tôn giáo không phải là một lẽ sống mà là một phương tiện sống. Họ tự chứng tỏ chẳng có một chút cảm động nào đối với chức phận lãnh đạo trong tinh thần phục vụ mà Đức Chúa Jêsus đã nêu gương. Để biết phải đi đường nào và đi được đúng con đường Đức Chúa Trời chuẩn thuận, chúng ta phải giữ cho tiếng nói của ý riêng im lặng, phải lắng nghe tiếng phán của Đức Chúa Trời, và cẩn thận làm theo ý chỉ của Ngài. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“ÂN ĐIỂN TRONG TRỞ NGẠI NỘI TẠI” “Vậy nên, e rằng tôi lên mình kiêu ngạo bởi sự cao trọng cả thể của những sự tỏ ra ấy chăng, thì đã cho một cái giằm xóc vào thịt tôi, tức là quỉ sứ của Satan, để vả tôi, và làm cho tôi đừng kiêu ngạo” (2Cô. 12:7) Theo một chuyện ngụ ngôn của Aesop, có hai chú gà trống đá nhau để giành quyền làm chủ sân kho. Chú gà thua cuộc phải lặng lẽ lẻn đi chỗ khác, nấp mình trong bụi cây, đầy tủi hổ. Trong khi đó, chú gà thắng cuộc nhảy tót lên mái nhà, vỗ cánh, gáy vang mấy hồi liền. Một con diều hâu lớn chứng kiến từ đầu đến cuối câu chuyện, từ trên cây cao bổ nhào xuống, cắp chặt chú gà đang gáy giữa những móng vuốt không sao thoát được, đem đi mất dạng. Còn lại chỉ có một mình, chú gà thua cuộc mặc nhiên trở thành kẻ thắng cuộc. Khi thắng cuộc, con người cũng có khuynh hướng “gáy” như thế. Về mặt bản chất, con người vốn có khuynh hướng tự kỷ trung tâm và kiêu ngạo. Thậm chí, ngay cả khi không có sự cố đặc biệt gì, chỉ cần được bình tịnh, yên ổn, thoải mái, người ta cũng trở thành tự mãn, không biết nương cậy. Thế nhưng Kinh Thánh cảnh báo rằng “Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau,_Và tánh tự cao đi trước sự sa ngã” (Châm 16:18). Sự trước thuật trong 2Cô. 12:1- 4 cho thấy Sứ Đồ Phaolô đã kinh nghiệm được những đắc thắng thuộc linh hết sức đặc biệt nhưng rồi ông cũng đã trải qua cuộc tranh chiến với tính tự kỷ trung tâm, và những niềm hân hoan ông nhận được cũng đồng thời là cạm bẫy cho linh hồn. Không ít người trong chúng ta đang đứng trước mối hại của trạng thái ổn định. Hễ khi nào cuộc sống chúng ta được thuận lợi, tiền bạc dồi dào, tình cảm thỏa mãn,… thì đó cũng chính là lúc chúng ta đứng trước nguy cơ về một tấm lòng thoái hóa và thỏa hiệp: Ngủ quên, càng lúc càng trở nên tự mãn, ít biết nương cậy. Để giữ chúng ta khỏi mối hại lớn của một tấm lòng mê muội, lạc lầm, đôi khi Đức Chúa Trời cho phép sự trục trặc, đau đớn, hoặc đau khổ xảy đến với chúng ta hầu cho chúng ta thức tỉnh mà quay trở lại nương cậy Ngài: “Vậy nên, e rằng tôi lên mình kiêu ngạo bởi sự cao trọng cả thể của những sự tỏ ra ấy chăng, thì đã cho một cái giằm xóc vào thịt tôi, tức là quỉ sứ của Satan, để vả tôi, và làm cho tôi đừng kiêu ngạo” (2Cô. 12:7). Lời Kinh Thánh này giải đáp được một loạt các câu hỏi “Tại sao?” của chúng ta: Tại sao Đức Chúa Trời lại để cho chúng ta phải chịu khổ? Tại sao chúng ta phải nếm mùi đau đớn thể chất và tinh thần? Tại sao thân xác chúng ta phải hao mòn, tình cảm chúng ta phải biến dạng? Đức Chúa Trời cho phép những điều như thế đến với đời sống của chúng ta để giữ chúng ta ở trong sự hạ mình, tỉnh thức, nương cậy Ngài luôn luôn. Đức Chúa Trời không phải chỉ quan tâm ở những gì chúng ta hoàn thành cho Ngài mà Ngài cũng còn quan tâm đến việc chúng ta trông cậy Ngài như thế nào nữa. Đã từng có nhiều học giả Kinh Thánh tranh luận với nhau trong một thời gian dài về vấn đề bản chất của “cái giằm” của Sứ Đồ Phaolô. Tuy nhiên, Kinh Thánh cho thấy vị Sứ Đồ này không lập luận mà chỉ sử dụng bốn từ liệu khác nhau để mô tả cho chúng ta biết “cái giằm” ấy là gì. I. “CÁI GIẰM XÓC VÀO THỊT” (C. 7) Việc cho biết rằng “Một cái giằm xóc vào thịt tôi” (Gr. σκόλοψ [skolops] “cây gai”) có thể gợi ý cho chúng ta về sự đau đớn thuộc thể, và rất có thể là Sứ Đồ Phaolô đã nghĩ đến nỗi đau của Đức Chúa Jêsus trên Thập Tự Giá, Ngài đã phải chịu gai đâm khi “Họ đương một cái mão gai mà đội trên đầu” của Ngài (Ma. 27:29). Chiếc mão gai này khi được ấn xuống chắc chắn đã gây đau đớn và làm cho máu từ đầu, trán của Đức Chúa Jêsus phải chảy nhiều trên khuôn mặt của Ngài. Sứ Đồ Phaolô và chúng ta không phải chịu một “cái mão gai” giống như của Đức Chúa Jêsus mà chỉ có thể là một “cây gai” như thế nào đó mà thôi. Phần lớn các nhà chú giải Kinh Thánh tin rằng Phaolô nói về “cái giằm” để chỉ một bệnh chứng thuộc thể nào đó. Tuy nhiên, một số nhà chú giải khác cho rằng Phaolô nói đến một sự bắt bớ mà ông phải chịu đựng một cách nhức nhối như bị gai đâm vào da, thịt. Ngoài ra, cũng có một số người nghĩ rằng đó là một sự cám dỗ có liên quan đến vấn đề luân lý cứ mãi vây quanh vị Sứ Đồ này và ông phải tranh chiến với nó. Chúng ta không thể nói chắc đó là cái gì, nhưng chúng ta có thể để ý đến lời nhận xét rất có ích của J. Oswald Sanders: “Thoạt đầu, Sứ Đồ Phaolô xem đó như là một sự trở ngại, nhưng về sau, khi vị Sứ Đồ này nhìn nhận vấn đề theo một góc độ đáng nên có, Sứ Đồ Phaolô nhận ra được rằng đó là một điều có ích”. II. “QUỈ SỨ CỦA SATAN” (C. 7) Cho đến ngày nay, Satan vẫn còn làm những sự quấy nhiễu, châm chích của nó. Chúng ta thường mất quân bình trong việc đánh giá sự tác động của Ma Quỉ đằng sau các sự trục trặc mà chúng ta gặp phải: Nhiều khi chúng ta xem thường ảnh hưởng tà ác của Satan, lắm lúc chúng ta lại quá cường điệu nó, qui tất cả mọi sự cho nó mà không nhìn nhận trách nhiệm cá nhân của mình. Hãy để ý đến cách Sứ Đồ Phaolô qui trách cho Satan: - Khi gặp phải những người ngăn trở chức vụ mình, Sứ Đồ Phaolô kể họ như là con cái của Ma Quỉ, cần phải được sửa dạy để “…25Đức Chúa Trời ban cho họ sự ăn năn để nhìn biết lẽ thật, 26và họ tỉnh ngộ mà gỡ mình khỏi lưới Ma Quỉ, vì đã bị Ma Quỉ bắt lấy đặng làm theo ý nó” (2Ti. 2:25-26). - Khi đối đầu với những kẻ gây sự rối loạn trong Hội Thánh, Sứ Đồ Phaolô nhận biết được bàn tay thủ đoạn của Satan: “17Hỡi anh em, tôi khuyên anh em coi chừng những kẻ gây nên bè đảng và làm gương xấu, nghịch cùng sự dạy dỗ mà anh em đã nhận. Phải tránh xa họ đi…20Đức Chúa Trời bình an sẽ kíp giày đạp quỉ Satan dưới chân anh em. Nguyền xin Ân Điển của Đức Chúa Jêsus chúng ta ở cùng anh em!” (Rô. 16:17-20). - Khi không thể đến thăm Hội Thánh Têsalônica được, Sứ Đồ Phaolô xem đó là sự ngăn trở của Satan: “Vì vậy, đã hai lần, chúng tôi, nhứt là tôi, Phaolô, muốn đi đến cùng anh em; nhưng quỉ Satan đã ngăn trở chúng tôi” (1Tê. 2:18). - Và ở đây, 2Cô. 12:7, Sứ Đồ Phaolô gọi sự bất lợi nội tại trong bản thân ông là “quỉ sứ của Satan”. Satan có thể làm cho chúng ta trở nên đau yếu, phiền muộn, sa sút,… Mặc dầu xuất phát điểm của điều ác không phải ở Đức Chúa Trời, Ngài vẫn có thể vận dụng các thủ đoạn của Satan để gia tốc các mục đích của Ngài trên đời sống của những ai chịu vâng lời Ngài, biết đáp ứng với trở lực một cách thỏa đáng. Một sự minh họa cho lẽ thật này trong Cựu Ước là Gióp. Satan đã vùi dập con người đáng thương này đến là thế, thế nhưng Đức Chúa Trời đã dùng sự công kích của Satan để phát triển đức tin của Gióp, và cuối cùng đã ban phước cho Gióp bội phần hơn. III. “NÓ” (C. 8) Nhắc lại “cái giằm” là tai ách trong đời sống của mình, Sứ Đồ Phaolô dùng một từ liệu tổng quát: “Nó”. Sứ Đồ Phaolô cho biết: “Đã ba lần tôi cầu nguyện Chúa cho nó lìa xa tôi” (2Cô. 12:8) Bằng việc dùng đại từ trung tính “nó” (Gr. τούτου [toutou] “cái này”), vị Sứ Đồ này đã giấu không tiết lộ bản chất đích thực của “cái giằm” là gì. Đức Chúa Trời khôn ngoan cả trong sự khải thị lẫn trong sự kín giấu. Với việc đề cập tổng quát như thế, Sứ Đồ Phaolô thiết lập một nguyên lý chung cho tất cả chúng ta: Mỗi người chúng ta, tùy theo từng giai đoạn của cuộc đời mình, đều có “một cái giằm xóc vào thịt” hiểu theo nghĩa ứng dụng trên các lĩnh vực cả thuộc thể lẫn thuộc linh; cả thân xác lẫn lý trí, ý chí, và tình cảm. Nếu Sứ Đồ Phaolô chỉ rõ một cách dứt khoát cho thấy “cái giằm” là gì, chúng ta sẽ thôi không còn bận tâm đến nó nữa vì xem đó chỉ là nan đề riêng của Sứ Đồ Phaolô mà thôi. Thế nhưng, nhờ việc Kinh Thánh khải thị một cách tổng quát, chúng ta học được một nguyên lý cho đời sống Cơ Đốc: Từng hồi, từng lúc, trên bước đường theo Chúa, Cơ Đốc Nhân phải xử lý với những trở ngại nội tại nhất định của bản thân. Sứ Đồ Phaolô đã cầu nguyện ba lần - bằng với số lần Đức Chúa Jêsus đã cầu nguyện trong vườn Ghếtsêmanê - và cũng đã quay trở lại với cùng một sự trả lời của Đức Chúa Cha: “Không!”. Tại sao có khi Đức Chúa Trời không nhậm lời cầu xin thiết tha của chúng ta xin được chữa lành một bệnh chứng, thoát khỏi một thời điểm khó khăn về tinh thần, vượt qua một giai đoạn khủng hoảng tâm lý, tình cảm,…? Ấy là vì Ngài đã dự định điều tốt hơn cho chúng ta. Đôi khi Ngài không ban cho chúng ta một sự bình an thuộc thể nào đó để chúng ta có được một kinh nghiệm thuộc linh cao hơn. Cũng có khi Ngài không sớm đưa chúng ta ra khỏi một giai đoạn khủng hoảng tâm lý, tình cảm để hình thành và làm cho sâu đậm bông trái thuộc linh trên đời sống chúng ta hầu cho chúng ta hiệu quả hơn trong việc phục vụ tha nhân, làm vinh hiển Danh Thánh của Ngài. IV. “SỰ YẾU ĐUỐI” (C. 9) Qua sự đáp lời cho Sứ Đồ Phaolô, Đức Chúa Trời đã bày tỏ một lẽ thật quan trọng: “Ân Điển Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cô. 12:9a) Sự đáp ứng của Sứ Đồ Phaolô đối với lẽ thật ấy đem lại cho chúng ta một nguyên tắc sống: “9Vậy tôi sẽ rất vui lòng khoe mình về sự yếu đuối tôi, hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi. 10Cho nên tôi vì Đấng Christ mà đành chịu trong sự yếu đuối, nhuốc nhơ, túng ngặt, bắt bớ, khốn khó; vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ” (2Cô. 12:9b-10) “Sự yếu đuối” (C. 9, Gr. ἀσθένεια [astheneia] “sự bất lực”) nói về tình trạng thiếu kém, hạn chế. Làm thế nào có thể “khoe” (C. 9, Gr. καυχάομαι [kauchaomai] “lấy làm tự hào”) về sự yếu đuối? Chúng ta chỉ có thể bình an chịu đựng những “cái giằm” trong đời sống mình nếu chúng ta biết và tin quyết rằng đó là những khí cụ trong tay Đấng đang gọt dũa để cuối cùng chúng ta trở nên tôn quí và được tràn ngập sự vui mừng. Ma Quỉ có đang châm chích quí vị bằng một “cái giằm” khó chịu nào đó không? “Cái giằm” ấy có thể là một sự bất toàn hay một bệnh chứng nào đó. “Cái giằm” ấy cũng có thể là một sự đau đớn trong thân xác nhưng cũng có thể là một nỗi buồn khổ trong tình cảm. “Cái giằm” có thể là do sự hạn chế của bản thân nhưng cũng có thể là do hoàn cảnh tạo ra; hoặc do cả hai điều ấy hợp lại mà có. “Cái giằm” đang có trong quí vị có thể là “Quỉ sứ của Satan”, nhưng đó cũng chính là công cụ đang ở trong tay của Đức Chúa Trời kính yêu của chúng ta. Đừng quên rằng Ma Quỉ muốn dùng “cái giằm” ấy để nghiền nát chúng ta nhưng Đức Chúa Trời đang vận dụng mưu gian ác của nó để rèn luyện chúng ta cho được mạnh hơn, nhanh hơn, cao hơn,… Một khi Sứ Đồ Phaolô nhận thức được rằng “cái giằm” là điều được Đức Chúa Trời ban cho (C. 7, “Đã cho một cái giằm”, Gr. δίδωμι [didomi] “trao ban”), thái độ của vị Sứ Đồ này hoàn toàn thay đổi. Một khi Sứ Đồ Phaolô nhận được sự bảo an Thiên Thượng rằng “Ân Điển Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối” (C. 9a), vị Sứ Đồ này hoàn toàn được chuyển biến: “Vậy tôi sẽ rất vui lòng khoe mình về sự yếu đuối tôi, hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi” (C 9b), và “Khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ” (C. 10b). Hãy học theo Sứ Đồ Phaolô, hãy xem “cái giằm” đang có trong giai đoạn này của đời sống mình là một sự trao ban của Đức Chúa Trời và hãy thay đổi thái độ. Hãy nhận biết rằng mục đích của Đức Chúa Trời khi Ngài cho phép chúng ta chịu đựng “cái giằm” là để đem chúng ta vào trong những chiều kích mới của Ân Điển Ngài hầu cho đời sống chúng ta thăng hoa, tâm hồn chúng ta thắm đượm những hương sắc Thiên Đàng mà chúng ta chưa được kinh nghiệm. Đó chính là sự bí mật của những lời cầu xin chưa được nhậm và những nỗi đau dai dẳng trong thân thể và tâm hồn của chúng ta: “Chúng ta cầu xin sức lực để có thể thắng vượt, nhưng chúng ta vẫn còn bị đặt trong sự mòn mỏi để biết vâng lời. Chúng ta cầu xin được khỏe mạnh để làm những việc lớn, nhưng chúng ta phải chịu sự yếu đuối là để làm được nhiều việc tốt. Chúng ta cầu xin quyền năng để được tỏa sáng, nhưng chính sự bất toàn khiến cho chúng ta biết nương cậy Đức Chúa Trời. Chúng ta cầu xin nhiều điều để hưởng thụ đời sống này, nhưng chúng ta không nhớ rằng chúng ta đã được ban cho đời sống này để vui hưởng mọi điều” (J. Oswald Sanders). Hãy có lòng vui mừng. “Cái giằm” châm chích chúng ta, nhưng đồng thời - bởi Ân Điển của Đức Chúa Trời - nó cũng khơi dậy than lửa nghị lực đang bị vùi tro trong linh hồn ngủ quên của chúng ta. Hãy lắng nghe tiếng Đức Thánh Linh hát bằng lời phán của Đức Chúa Trời: “Ân Điển Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cô. 12:9a) Hãy chấp nhận “cái giằm” như một công cụ mà Đức Chúa Trời đã gửi đến để thăng tiến đời sống chúng ta! Hãy cười lên, đứng dậy, bước đi để thực hành quyền năng của Đức Chúa Trời bằng sự vâng lời Ngài! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“CHỚ BỎ SỰ NHÓM LẠI!” (Kinh Thánh: Hê. 10:19-25) “Vậy thì anh em hãy khuyên bảo nhau, gây dựng cho nhau như anh em vẫn thường làm” (1Tê. 5:11) Mệnh lệnh Kinh Thánh dưới mỗi hình thái ngữ pháp truyền đạt theo cách riêng các Lẽ Thật thuộc linh mà Đức Chúa Trời muốn gửi đến Dân Ngài. Một trong những cách bày tỏ mệnh lệnh Kinh Thánh là một hình thái ngữ pháp được gọi là “mệnh lệnh cách”, hay “thể cầu khiến”, bắt đầu với những từ liệu như “hãy”, “phải”, “nên”, “chớ”, “cũng nên”... Tổng số lần các câu mệnh lệnh cách được sử dụng trong các Thư Tín Tân Ước không nhiều lắm nhưng riêng Sách Hêbơrơ đã có 15 lần (Hê. 1:6; 4:1, 11, 14, 16; 6:1; 10:22, 23, 24, 25; 12:1; 12:2; 12:28; 13:13, 15), và trong đó Chương 10 có đến 4 lần để hình thành một sự dạy dỗ đặc biệt về việc nhóm lại của Dân Chúa trong các Hội Thánh Địa Phương, mở ra cho chúng ta thấy ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống Cơ Đốc Nhân chúng ta. I. “HÃY… ĐẾN GẦN CHÚA” (Hê. 10:22) “Hãy lấy lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong, mà đến gần Chúa” (Hê. 10:22). “Đến gần” (Gk. "proserchomai") là một từ liệu Hylạp có nghĩa là “tiếp cận”, “thăm viếng”, “thờ kính”, “hội nhập”, “kết hiệp”. “Hãy… đến gần Chúa” là mệnh lệnh về việc phải có đức tin đặt nơi Đức Chúa Jêsus Christ về công nghiệp đền tội thay đã hoàn thành trên Thập Tự Giá của Ngài. Để có thể “đến gần” để thờ phượng Đức Chúa Trời, chúng ta được đòi hỏi phải có phẩm cách xứng hiệp là phải “tinh sạch” trước mặt Đức Chúa Trời: “Lòng thật thà”, “đức tin đầy dẫy trọn vẹn”, “lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu”, “thân thể rửa bằng nước trong”. Nếu “thân thể rửa bằng nước trong” nói về một đời sống thánh khiết hoàn toàn thì ai có thể đến gần được Đức Chúa Trời để thờ phượng Ngài? Phần lớn các học giả Kinh Thánh đều tin rằng “thân thể rửa bằng nước trong” (C. 22) nói về phép Báptêm. Vấn đề ở đây là động từ “rửa” trong Tiếng Hylạp là “rhantizo” có nghĩa là “rảy (nước)” đã tạo nên một số dị luận. Sự thật ở chỗ điều mà Đức Chúa Trời muốn dạy dỗ ở đây là phép Báptêm cho tấm lòng, cho con người bề trong của tín hữu. Chỉ có quá mức thiếu sáng suốt mới có thể tin được rằng một ít nước cho bên ngoài cơ thể lại có tác dụng làm sạch được cho con người bề trong! Với sự hoàn thành công nghiệp đền tội thay trên Thập Tự Giá của Đức Chúa Jêsus, chúng ta cần nên biết rằng “thân thể rửa bằng nước trong” phải được thực hiện bằng một sự “rửa” tượng trưng cho bề ngoài thân thể và được hoàn tất bằng một sự “rửa” thiêng liêng cho tấm lòng nhờ sự rưới huyết (rhantizo: “rảy”) đã hoàn thành tại Thập Tự Giá của Đức Chúa Jêsus: “Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép Báptêm cho họ…” (Ma. 28:20). “Thân thể rửa bằng nước trong” là một cách nói chỉ về một linh hồn (tâm thần) đã được đổi mới “nhờ Ân Điển, bởi đức tin” (Êph. 2:8) đặt vào công nghiệp cứu rỗi của Đức Chúa Jêsus. “Thân thể rửa bằng nước trong” nói về đức tin thật, nói về sự xứng hiệp của một “tâm thần” đã biết (chịu) đáp ứng theo “lẽ thật”: “23Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. 24Đức Chúa Trời là thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy” (Gi. 4:23-24). II. “HÃY CẦM GIỮ…” (Hê. 10:23) “Hãy cầm giữ sự làm chứng về điều trông cậy chúng ta chẳng chuyển lay, vì Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín” (Hê. 10:23). Hiển nhiên đây là một sự kêu gọi về sự bền đỗ trong niềm tin và đời sống thực hành niềm tin của Cơ Đốc Nhân. Từ liệu “cầm giữ” được dịch từ một từ liệu Hylạp là “katecho” với nghĩa là “chịu đựng”, “lưu trữ”, “ghi nhớ trong tâm trí”. Từ liệu “cầm giữ” trong câu Kinh Thánh này được bổ nghĩa cho mạnh hơn bằng một trạng từ là “kilines”, với nghĩa là “một cách không thay đổi”. “Hãy cầm giữ sự làm chứng về điều trông cậy chúng ta chẳng chuyển lay…” là lời khuyên giục mà Đức Thánh Linh đã dùng ngòi bút của Trước Giả Sách Hêbơrơ gửi đến chúng ta để bất cứ lúc nào, và trong bất cứ sự gì niềm tin mà chúng ta đã đặt nơi công nghiệp đền tội thay của Đức Chúa Jêsus cũng không thay đổi. Mệnh lệnh này dạy chúng ta về tính hiệu quả của đức tin bền đỗ trong Đức Chúa Jêsus Christ: “Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng, chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu” (1Cô. 15:58). Sự bền đỗ của chúng ta trong đức tin được hiệu quả trong Đức Chúa Jêsus (1Cô. 15:58) không phải vì bất cứ điều gì khác hơn là vì “Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín” (Hê. 10:23). Đức thành tín của Đức Chúa Trời là tất cả những gì cần và đủ cho đức tin của chúng ta đặt nơi Ngài có hiệu quả. Đức thành tín ấy là nguồn cho sự trông cậy của chúng ta để chúng ta có khả năng vững vàng, chịu khổ, vượt qua mọi trở ngại, thử thách: “14Nếu anh em phải vì sự công bình mà chịu khổ, ấy thật là có phước. Chớ sợ điều họ sợ và đừng rối trí; 15nhưng hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ, 16phải có lương tâm tốt, hầu cho những kẻ gièm chê cách ăn ở lành của anh em trong Đấng Christ biết mình xấu hổ trong sự mà anh em đã bị nói hành; 17vì nếu ý muốn Đức Chúa Trời dường ấy, thì thà làm điều thiện mà chịu khổ, còn hơn làm điều ác mà chịu khổ vậy” (1Phi. 3:14-17). III. “HÃY COI SÓC NHAU…” (Hê. 10:24). “Ai nấy hãy coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành” (Hê. 10:24). Đây là mệnh lệnh về tình yêu thương trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Trên phương diện là một cộng đoàn được gọi riêng ra cho Đức Chúa Trời, Hội Thánh phải là một cộng đoàn yêu thương, vì đó là sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời, là dấu hiệu cơ bản của một cộng đoàn Cơ Đốc, và là đặc trưng của Cơ Đốc Nhân: “Điều răn của Ta đây nầy: Các ngươi hãy yêu nhau, cũng như Ta đã yêu các ngươi” (Gi. 15:12). “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau; vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời” (1Gi. 4:7). “Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc” (Rô. 12:15). “Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ Ta” (Gi. 13:35). Khi các Cơ Đốc Nhân biết yêu thương nhau, tình yêu thương của họ phải được thể hiện bằng sự quan tâm. Khi chúng ta biết yêu thương nhau, hành động yêu thương phải được nhận thấy rõ ràng: “Lại, trong các chi thể, khi có một cái nào chịu đau đớn, thì các cái khác đều cùng chịu; và khi một cái nào được tôn trọng, thì các cái khác đều cùng vui mừng” (1Cô. 12:26). “17Nếu ai có của cải đời nầy, thấy anh em mình đương cùng túng mà chặt dạ, thì lòng yêu Đức Chúa Trời thể nào ở trong người ấy được! 18Hỡi các con cái bé mọn, chớ yêu mến bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật” (1Gi. 3:17-18). IV. “CHỚ BỎ SỰ NHÓM LẠI…” (Hê. 10:25). “Chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh em thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy” (Hê. 10:25). Điều được kêu gọi ở đây là đức trung tín của Cơ Đốc Nhân. Hình thái ngữ pháp của sự kêu gọi này cho thấy Đức Chúa Trời quan tâm đến việc có nhiều Cơ Đốc Nhân xem thường việc nhóm lại trong Hội Thánh: “Chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm…”. “Sự nhóm lại” được viết bằng một từ liệu Hylạp là “episunagoge”, nghĩa là “qui tụ lại với nhau”. Trong sinh hoạt tôn giáo, thường có hai điều đối nghịch nhau: Bản thân cá nhân tôn giáo đòi hỏi “ý chí tự do” cho cá nhân, còn tổ chức tôn giáo lại muốn “phận sự tôn giáo” phải được thực hiện cho tổ chức ấy. Lời Kinh Thánh không kêu gọi “hãy nhóm lại” mà khuyên giục “chớ bỏ qua sự nhóm lại” là vì Đức Chúa Trời không muốn bó buộc kẻ tin Ngài. Đức Chúa Trời kêu gọi “chớ bỏ qua sự nhóm lại” là nhằm kêu gọi ý thức tự giác của Cơ Đốc Nhân, và vì lợi ích đời đời của họ. Chúng ta cần nên tránh thái độ “xét đoán” đối với những anh em, chị em đã lìa bỏ sự nhóm lại trong Hội Thánh Địa Phương của chúng ta. Ngay cả khi Dân Ysơraên muốn lìa bỏ Đức Giêhôva để lập vua lên cai trị họ (1Sa. 8), Ngài không đẹp ý nhưng vẫn không ngăn cản họ: “Vậy bây giờ, hãy nghe theo lời chúng nó, song chớ quên báo cáo cho chúng nó cách nghiêm trang và tỏ ra cho biết vua cai trị chúng nó sẽ đãi chúng nó ra làm sao” (1Sa. 8:9). Về vấn đề nhóm lại trong Hội Thánh Địa Phương, phận sự của chúng ta là “Chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh em thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy”. Điều ấy có nghĩa là chúng ta có phận sự phải tích cực khuyên bảo các anh em, chị em chúng ta trong Hội Thánh “chớ bỏ qua sự nhóm lại” vì qua đó chúng ta được “đến gần Chúa”, chúng ta có thể “cầm giữ sự làm chứng về điều trông cậy chúng ta”, và chúng ta cũng đồng thời có thể “coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành”… Trong phân đoạn Kinh Thánh này (Hê. 10:19-25), chúng ta tìm thấy có ít nhất hai lý do để không nên bỏ qua sự nhóm lại trong Hội Thánh Địa Phương: (1) Thứ nhất, chúng ta đã có đường vào Nơi Chí Thánh để tiếp cận với Đức Chúa Trời: “19Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào Nơi Rất Thánh, 20bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài” (Hê. 10:19-20). (2) Thứ hai, chúng ta đã có Thầy Tế Lễ Lớn: “Lại vì chúng ta có một Thầy Tế Lễ Lớn đã lập lên cai trị nhà Đức Chúa Trời” (Hê. 10:21). Ngày nay có quá nhiều sự vỡ mộng trong lòng các tín hữu về Hội Thánh. Nhìn chung, chúng ta dễ nhận ra một tâm trạng “mệt mỏi” đối với Hội Thánh. Người ta có thể kể ra được rất nhiều nguyên nhân làm cho “chán” Hội Thánh, và nguyên nhân nào trông cũng “có vẻ” xác đáng cả! Điều hiển nhiên không thể chối cãi là có nhiều sự bất mãn đối với Hội Thánh vì nhận thấy Hội Thánh thiếu xứng hiệp, thiếu hữu ích, và có vẻ lãng phí thời gian… Tuy nhiên, sự huyền nhiệm về Hội Thánh là “lẽ mầu nhiệm trong các đời khác chưa từng được phát lộ cho con cái loài người” (Êph. 3:5). Chúng ta không thể hiểu hết các Lẽ Thật thuộc linh về Hội Thánh cũng như sự hữu ích vô cùng của việc nhóm lại trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời được nhưng điều chắc chắn mà ai trong chúng ta cũng biết là Đức Chúa Trời muốn chúng ta cứ ở trong Hội Thánh của Ngài để được gây dựng: “Vậy thì anh em hãy khuyên bảo nhau, gây dựng cho nhau như anh em vẫn thường làm” (1Tê. 5:11). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“VÌ SAO ĐIỀU XẤU LẠI XẢY RA CHO NGƯỜI TỐT?” (Kinh Thánh: Lu. 13:1-5) “… Nhưng nếu các ngươi chẳng ăn năn, thì hết thảy cũng sẽ bị hư mất như vậy” (Lu. 13:5b) Chúng ta vẫn thường tự hỏi “Vì sao điều xấu lại có thể xảy ra cho người tốt?”, và có vẻ như vấn đề không thể được xử lý chỉ bằng một câu trả lời là xong. Có nhiều nguyên nhân khiến nảy sinh điều xấu … Mỗi trường hợp lại mang tính “đặc thù” của riêng nó, có nguyên nhân và tác nhân riêng của nó. Để có thể nhìn nhận vấn đề này một cách hợp Kinh Thánh, chúng ta cần phải nhờ đến sự soi rọi của Lời Kinh Thánh. I. ĐIỀU XẤU ĐẾN VÌ VIỆC XẤU CỦA CHÍNH BẢN THÂN (Dân. 12:1-16) Chúng ta đều biết chuyện Môise lãnh đạo Dân Ysơraên rời khỏi Ai Cập qua một hành trình dài 40 năm trong sa mạc trước khi họ đến được Đất Hứa. Arôn và Miriam đã được Đức Chúa Trời sử dụng để hợp tác với Môise trong những năm gian truân ấy. Dẫu vậy, đã có một lý do nào đó khiến Miriam không còn kính trọng Môise nữa: “Miriam và Arôn nói hành Môise về việc người nữ Êthiôbi mà người đã lấy, vì người có lấy một người nữ Êthiôbi làm vợ” (Dân. 12:1) Tuy nhiên, “việc xấu” không dừng lại ở đó, Miriam tiến xa hơn qua việc đã bàn cùng anh là Arôn về những điều có liên quan đến thánh chức… “Hai người nói rằng: Đức Giêhôva há chỉ dùng một mình Môise mà phán sao? Ngài há không dùng chúng ta mà phán nữa sao? Đức Giêhôva nghe điều đó” (Dân. 12:2). “Việc xấu” không thể sinh ra điều tốt được, “việc xấu” chỉ có thể sinh ra “điều xấu”, mà thường thường lại là điều xấu hơn “việc xấu” đã có trước: “Khi trụ mây rút khỏi trên Đền Tạm, thì kìa, Miriam đã bị phung trắng như tuyết. Arôn xây lại phía Miriam, thấy người đã có bịnh phung” (Dân. 12:10). Việc Miriam phải gánh chịu “điều xấu” (của “việc xấu” của mình) do sự quở phạt của Đức Chúa Trời là một Lẽ Thật Kinh Thánh hiển nhiên. Lẽ Thật Kinh Thánh này thường dẫn đến hai sự ngộ nhận sau đây: (1) Thứ nhất, từ “việc xấu” này của Miriam người ta cho rằng Miriam là “người xấu”; (2) Thứ hai, “việc xấu” là nguyên nhân duy nhất khiến cho “điều xấu” xảy ra! Thật ra, Kinh Thánh cho thấy còn nhiều “lý do” khác khiến cho điều xấu xảy ra… II. ĐIỀU XẤU ĐẾN VÌ VIỆC XẤU CỦA THA NHÂN (Giôna 1:1-16) Giôna là một Tiên Tri Cựu Ước, là người đã được Đức Chúa Trời sai đến thành Ninive để giảng Tin Lành cho dân thành ấy. Tuy nhiên, Ninive là Thủ Đô của người Asyri, kẻ thù của Dân Tộc Ysơraên, và theo nhận thức của Giôna, họ không đáng nhận Tin Lành cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Giôna đã mắc một sai lầm căn bản đối với ý chỉ của Đức Chúa Trời: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời” (Gi. 3:16). “Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết Lẽ Thật” (1Ti. 2:4). “Hãy giảng Đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi” (2Ti. 4:2). Theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, “kẻ dữ” cần phải được nghe Tin Lành cứu rỗi của Ngài, và đó là phận sự của đầy tớ Ngài. Ấy vậy mà Giôna đã đến Giaphô, đáp tàu đi Tarêsi “đặng trốn” mệnh lệnh của Đức Chúa Trời. “Nhưng Đức Giêhôva khiến gió lớn thổi trên biển; trên biển có trận bão lớn, chiếc tàu hầu vỡ” (Giôna 1:4). Tuy nhiên, Giôna “xuống dưới lòng tàu, nằm và ngủ mê” (Giôna 1:5) còn cả tàu phải chịu tai vạ của cơn bão! Dầu vậy, nguyên nhân của “điều xấu” cũng đã được tỏ ra: Ấy là vì lỗi (“việc xấu”) của Giôna. Chính Giôna cũng biết điều ấy nữa, vì “Người trả lời rằng: Hãy bắt lấy ta, hãy ném ta xuống biển, thì biển sẽ yên lặng cho các anh; vì ta biết rằng ấy là vì cớ ta mà các anh đã gặp phải trận bão lớn này” (Giôna 1:12). “Điều xấu” đến vì “việc xấu” của người khác làm, nhưng không phải mọi trường hợp đều luôn luôn như thế… III. ĐIỀU XẤU ĐẾN VÌ SỰ CÔNG KÍCH CỦA SATAN (Gióp 1:1-22) Các tai họa đến với Gióp đều không phải vì “việc xấu” Gióp đã làm… “Tại trong xứ Útxơ có một người tên là Gióp; người ấy vốn trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác” (Gióp 1:1). Đức Chúa Trời luôn đẹp ý về người công bình của Ngài và Satan luôn bất mãn với việc ấy. Một trong các danh xưng Kinh Thánh được biết của Satan là “Kẻ Kiện Cáo”, là “kẻ ngày đêm kiện cáo chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời” (Gk. kategoreo; Khải. 12:10). Satan kiện cáo Gióp trước mặt Đức Chúa Trời và Ngài đã đẹp ý để (ban quyền năng) cho Gióp chịu sự hại hành tột độ của Satan hầu cho sự trung tín của Gióp có cơ hội được minh thị và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời được bày tỏ… “Đức Giêhôva phán với Satan rằng: Nầy, các vật người có đều phó trong tay ngươi; nhưng chớ tra tay vào mình nó…” (Gióp 1:12). Chỉ riêng những “điều xấu” mới bắt đầu xảy đến với Gióp cũng đã đủ khủng khiếp lắm rồi (Gióp 1:13-19), nhưng đức trung tín của Gióp trước sau vẫn như một… “20Gióp bèn chỗi dậy, xé áo mình, và cạo đầu, đoạn sấp mình xuống đất mà thờ lạy, 21và nói rằng: Tôi trần truồng lọt khỏi lòng mẹ, và tôi cũng sẽ trấn truồng mà về; Đức Giêhôva đã ban cho, Đức Giêhôva lại cất đi; đáng ngợi khen danh Đức Giêhôva” (Gióp 1:20-21). “Dẫu Chúa giết ta, ta cũng còn nhờ cậy nơi Ngài;_Nhưng ta sẽ binh vực tánh hạnh ta trước mặt Ngài” (Gióp 13:15). Nhờ có một đức tin và sự kinh nghiệm Chúa như thế mà những lời Kinh Thánh phán về Gióp thật là tốt đẹp: “Trong mọi sự ấy, Gióp không phạm tội, và chẳng nói phạm thượng cùng Đức Chúa Trời” (Gióp 1:22). IV. ĐIỀU XẤU ĐẾN VÌ SỰ RÈN TẬP CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (Thi. 66:8-12) Môise đã lãnh đạo Dân Ysơraên ra khỏi Ai Cập, nhưng cuộc hành trình đã diễn ra là hết sức lâu dài và gian nan dẫu rằng, xét trên phương diện địa lý tự nhiên, người ta hoàn toàn có khả năng thực hiện một chuyến đi ngắn hơn và dễ chịu hơn. Cuộc hành trình từ xứ nô lệ đến Đất Hứa đã không suông sẻ là vì đâu? “2Hãy nhớ trọn con đường nơi đồng vắng mà Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi đã dẫn ngươi đi trong bốn mươi năm nầy, để hạ ngươi xuống và thử ngươi, đặng biết điều có ở trong lòng ngươi, hoặc ngươi có gìn giữ những điều răn Ngài hay chăng. 3Vậy Ngài có hạ ngươi xuống, làm cho ngươi bị đói, đoạn cho ăn Mana mà ngươi và tổ phụ ngươi chưa hề biết, để khiến ngươi biết rằng loài người sống chẳng phải nhờ bánh mà thôi, nhưng loài người sống nhờ mọi lời bởi miệng Đức Giêhôva mà ra” (Phục. 8:2-3). Tình yêu thương và sự nhân từ của Đức Chúa Trời là quá đỗi lớn lao để luôn đem những người yêu mến Ngài đến với những điều tốt đẹp hơn trong bước đường họ theo Ngài (Rô. 8:28), tuy nhiên sự thử thách rèn tập để Dân Ngài mỗi ngày càng mạnh hơn, nhanh hơn, cao hơn cho sự vinh hiển của Ngài vẫn không được miễn trừ… “10Vì, Đức Chúa Trời ơi, Chúa đã thử thách chúng tôi,_Rèn luyện chúng tôi y như luyện bạc._11Chúa đã đem chúng tôi vào lưới,_Chất gánh nặng quá trên lưng chúng tôi._12Chúa khiến người ta cỡi trên đầu chúng tôi;_Chúng tôi đi qua lửa, qua nước;_Nhưng Chúa đem chúng tôi ra nơi giàu có” (Thi. 66:10-12). V. ĐIỀU XẤU ĐẾN VÌ SỰ DẠY DỖ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (2Cô. 12:7-10) Sứ Đồ Phaolô vốn được xem như một Cơ Đốc Nhân “vĩ đại” nhất trong lịch sử Hội Thánh, là người đã được Đức Chúa Trời đại dụng để rao Tin Lành cho Dân Ngoại, thành lập Hội Thánh, và hoàn thành một bộ phận quan trọng của Kinh Thánh. Dầu vậy, vị Sứ Đồ này vẫn không tránh khỏi sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời qua những việc bất như ý, tức “điều xấu”: “7Vậy nên, e rằng tôi lên mình kiêu ngạo bởi sự cao trọng cả thể của những sự tỏ ra ấy chăng, thì đã cho một cái giằm xóc vào thịt tôi, tức là quỉ sứ của Satan, để vả tôi, và làm cho tôi đừng kiêu ngạo. 8Đã ba lần tôi cầu nguyện xin Chúa cho nó lìa xa tôi. 9Nhưng Chúa phán rằng: Ân Điển Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối…” (2Cô. 12:7-9a). Thiên Đàng vẫn hằng trải thảm đỏ bằng quyền năng Thiên Thượng cho các thánh đồ của Đức Chúa Trời bước đi mỗi ngày trong tiến trình nên thánh của họ, chỉ có điều là họ phải giữ được sự trung tín trong việc vác Thập Tự Giá bước đi theo dấu chân của Thầy mình… “Những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh bị cám dỗ quá sức mình đâu; nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được” (1Cô. 10:13). “9… Vậy tôi sẽ rất vui lòng khoe mình về sự yếu đuối tôi, hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi. 10Cho nên tôi vì Đấng Christ mà đành chịu trong sự yếu đuối, nhuốc nhơ, túng ngặt, bắt bớ, khốn khó; vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ” (2Cô. 12:9b-10). VI. ĐIỀU XẤU ĐẾN VÌ SỰ ĐIỀU ĐỘNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (Sáng. 45:4-8) Tất nhiên là những “điều xấu” mà Giôsép phải chịu là hệ quả trực tiếp của những “việc xấu” của các anh Giôsép, nhưng vấn đề ở chỗ có bàn tay của Đức Chúa Trời đàng sau tất cả những “việc xấu” ấy để ý tốt của Ngài được hoàn thành: “Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi, hầu cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và giữ gìn sự sống của Dân Sự đông đảo” (Sáng. 50:20). Để có được một sự nhận thức như Giôsép, người ta cần phải biết đếm các phước hạnh của Đức Chúa Trời trong tai họa của mình, biết lấy kinh nghiệm theo Chúa đè nén nỗi đau cá nhân, biết lau sạch lớp bùn đen của những điều đau khổ phủ đầy trên mặt viên kim cương phước hạnh sáng lấp lánh những điều tốt hơn cho nhiều người hơn là sự lợi ích ích kỷ của bản thân… “5Bây giờ, đừng sầu não và cũng đừng tiếc chi về điều các anh đã bán tôi đặng bị dẫn đến xứ nầy; vì để giữ gìn sự sống các anh, nên Đức Chúa Trời đã sai tôi đến đây trước các anh. 6Kìa, hai năm rồi trong xứ đã bị đói kém, và còn năm năm nữa sẽ không có cày cấy chi, gặt hái chi được hết. 7Đức Chúa Trời sai tôi đến đây trước, đặng làm cho các anh còn nối dòng trên mặt đất, và nương một sự giải cứu lớn đặng giữ gìn sự sống cho anh em. 8Không, chẳng phải các anh sai tôi đến đây đâu, ấy là Đức Chúa Trời; Ngài dường đặt tôi làm cha Pharaôn, cai quản cả nhà người, và trị khắp xứ Êdíptô” (Sáng. 45:5-8). VII. ĐIỀU XẤU ĐẾN VÌ SỰ VINH HIỂN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (Gi. 9:1-41) Những người hỏi Đức Chúa Jêsus về lý do nào mà một người đã mù từ khi mới sanh chắc phải ngạc nhiên nhiều trước sự trả lời của Ngài: “Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Đó chẳng phải tại người hay cha mẹ đã phạm tội, nhưng ấy để cho những việc Đức Chúa Trời được tỏ ra trong người” (Gi. 9:3). Những việc nào là “việc của Đức Chúa Trời được tỏ ra” qua người mù này? “Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Ta đã đến thế gian đặng làm sự phán xét nầy: Hễ ai chẳng thấy thì thấy; còn ai thấy lại hóa mù” (Gi. 9:39). “Người trả lời rằng: Người tên gọi là Jêsus kia đã hòa bùn, xức mắt tôi, và nói rằng: hãy đi đến rửa nơi ao Silôê. Vậy tôi đi đến, rửa tại đó, rồi thấy được” (Gi. 9:11). “Bấy giờ chúng hỏi người mù nữa rằng: Còn ngươi, về người đã làm sáng mắt ngươi, thì ngươi nói làm sao? Người trả lời rằng: Ấy là một Đấng Tiên Tri” (Gi. 9:17). “25Người trả lời rằng: Tôi chẳng biết người có phải là kẻ có tội chăng, chỉ biết một điều, là tôi đã mù mà bây giờ lại sáng... 27… Tôi đã nói với các ông rồi, mà các ông chẳng nghe tôi. Cớ sao các ông muốn nghe lại lần nữa? Há cũng muốn làm môn đồ người chăng?... 33Nếu người nầy chẳng đến từ Đức Chúa Trời, thì không làm gì được hết” (Gi. 9:25, 27, 33). “Người thưa rằng: Lạy Chúa, tôi tin; bèn sấp mình xuống trước mặt Ngài” (Gi. 9:38). Dưới ánh sáng Lời Kinh Thánh, có khá nhiều khả năng cho điều xấu lại xảy ra cho người tốt. Các khả năng ấy có thể do chính bản thân, hoặc có liên quan đến tha nhân, hoặc Satan, hoặc Đức Chúa Trời. Cho dầu là do nguyên nhân nào, là con cái vâng phục và trung tín của Đức Chúa Trời, chúng ta phải lấy lòng vui vẻ thuận theo ý Chúa trên đời sống của chúng ta trong mọi điều. Chúng ta lại cũng phải biết xét nét cẩn thận để biết mình đang ở đâu và cần phải làm gì để được đẹp ý Đức Chúa Trời, được ở trong sự dắt dẫn của Ngài… “… Nhưng nếu các ngươi chẳng ăn năn, thì hết thảy cũng sẽ bị hư mất như vậy” (Lu. 13:5b). (Mục Sư ĐOÀN NHẬT TÂN) ![]()
“ĐỂ NGHE ĐƯỢC TIẾNG PHÁN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI” (Kinh Thánh: Giô. 1:1-9) “Quyển sách Luật Pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước” (Giô. 1:6) Chúng ta nghe được tiếng gọi từ phía nào thì sẽ đi về phía ấy. Nếu chúng ta chỉ nghe tiếng nói của xúc cảm mình, chúng ta vẫn cứ còn lang thang trong hoang mạc thuộc linh và là Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng. Trong một tình trạng như thế, chúng ta dễ nghe theo tiếng thì thầm của kẻ thù thuộc linh, và chúng ta sẽ bị lung lạc. Một khi bị cuốn hút vào sự lung lạc, nhất định chúng ta sẽ bị bối rối, mất phương hướng, và nhất định sẽ lạc đường. Chỉ khi nào chúng ta biết thường xuyên nghe theo tiếng phán của Đức Chúa Trời, chúng ta mới có đủ dũng khí để làm theo ý muốn của Ngài, thắng vượt được mọi sự bất cập, tiến lên trong chiến thắng và sự chinh phục. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng chúng ta đang ở trong một trận chiến thuộc linh mà chỉ có thể chiến đấu bằng những vũ khí thuộc linh. Để có thể nắm vững chiến lược, chiến thuật, phương án tác chiến, chúng ta cần phải thường xuyên và liên tục giữ liên lạc với vị Tổng Tư Lệnh của chúng ta là Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy cùng nhau xem xét những gì Đức Chúa Trời phán với Giôsuê để tìm ra bài học cho mình. I. “HÃY ĐỨNG DẬY ĐI” (C. 1-2) Từ đầu Sách Giôsuê, đã có lời phán rằng “Môise, tôi tớ ta, đã chết; bây giờ ngươi và cả dân sự nầy hãy đứng dậy đi…” (C. 2). Cho đến khi Môise qua đời, Dân Sự vẫn còn mơ hồ về mục tiêu chung của mình là tiến vào Đất Hứa. Tâm trạng phổ biến của Dân Sự là vẫn chưa thấy rõ vì sao họ phải tiếp tục gian nan trong con đường mà Môise đã dẫn họ đi. Đức Chúa Trời không hề có ý định cứ để họ lang thang trong hoang mạc. Thật ra, Đức Chúa Trời đã dành sẵn cho họ nhiều điều tốt hơn. Đức Chúa Trời đã dành cho họ nhiều điều đáng ước ao hơn là một đời sống đầy truân chuyên, rất đáng chán trong hoang mạc. Tại mọi thời điểm, Dân Chúa đều luôn phải thực hiện một sự chọn lựa: Họ phải quyết định hoặc cứ sống với những gì hiện có hoặc đi theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời và sẽ hoàn thành những việc lớn lao theo ý muốn của Ngài. Chúng ta ngày nay cũng vậy. Lệnh truyền rằng “ Hãy đứng dậy đi…” vẫn còn có giá trị đối với chúng ta. Chúng ta phải biết “đứng dậy” khỏi các cảm xúc đang thắng thế của mình. Ngày nay chúng ta cũng phải đứng trước một sự chọn lựa tương tự như sự chọn lựa của Dân Sự ngày xưa. Câu hỏi mà chúng ta phải tự vấn phải là “Liệu chúng ta mới chỉ biết thỏa lòng với những kinh nghiệm mà người khác đã từng có được với Đức Chúa Trời hay chúng ta đang khát khao tự khám phá được những điều gì đó có kết quả trong cõi đời đời? Liệu chúng ta có đang thực sự tiến lên để dành những chiến thắng thuộc linh trong miền Đất Hứa mà Đức Chúa Trời đã dự ứng hay không?” Nếu chúng ta chỉ biết thỏa lòng với hiện trạng thuộc linh của mình, chúng ta phải thấy được hậu quả đáng buồn của việc ấy. Nếu chúng ta chỉ biết giữ nguyên trạng thuộc linh của mình, chẳng trước thì sau chúng ta cũng sẽ rơi vào trạng thái chán nản của Dân Sự ngày xưa khi lang thang trong đồng vắng. Khó có thể hiểu hết được vì sao người ta cứ mãi dậm chân tại chỗ trên phương diện thuộc linh; nhưng chúng ta biết chắc có sự chọn lựa cá nhân trong việc ấy. Nếu chúng ta muốn biết chúng ta đang ở đâu trên phương diện thuộc linh, hãy chú ý những hiện tượng sau đây của việc còn sống trong hoang mạc thuộc linh: (1) Bất An Trong hoang mạc, Dân Sự không hề có nơi ở ổn định. Dân Sự không thể nào biết ngày mai mình sẽ đến đâu, ở đâu. Các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng sẽ cứ bất an trong thân thể, tâm trí, và tâm linh. Về nguyên tắc, không hề có Cơ Đốc Nhân bình an trong hoang mạc thuộc linh. (2) Bất Mãn Các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng thường kêu ca, than phiền Đức Chúa Trời và người chăn bầy của Ngài. Đối với những người này, dầu Đức Chúa Trời cung ứng bao nhiêu cũng không đủ. Các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng luôn phải bận tâm về những lo toan riêng của họ và tỏ ra không đủ sức cho trận chiến thuộc linh. Về nguyên tắc, không hề có Cơ Đốc Nhân thật trong hoang mạc thuộc linh. (3) Không Bông Trái Ngày xưa, Dân Sự đã từng chiến đấu và chiến thắng một số trận chiến nhưng họ đã không dành được lợi thế và lãnh thổ đối với kẻ thù. Những chiến trận của các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng hầu như mang đặc trưng của sự manh động hơn là sự chiến đấu, chiến thắng, và chinh phục. Về nguyên tắc, không hề có Cơ Đốc Nhân đầy dẫy bông trái trong hoang mạc thuộc linh. (4) Tiêu Cực Đối với các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng, tính tiến công rất thấp. Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng được tiêu biểu bằng những gì họ không làm: Không hút, không uống, không dự vào,… Đời sống của họ mang tính chất chung chung, có rất ít tính đặc sắc. Đời sống của các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng chỉ đáng kể ở những gì họ kiêng giữ chứ không phải ở những gì họ tự thân khám phá được. Về nguyên tắc, không hề có Cơ Đốc Nhân tích cực trong hoang mạc thuộc linh. (5) Dao Động Đem Dân Sự ra khỏi Ai Cập thì dễ nhưng làm cho Ai Cập ra khỏi Dân Sự là một sự thách thức lớn lao. Việc đem những đời sống thiếu phương hướng ra khỏi hoang mạc thuộc linh khá giống với việc ngồi tàu chạy vòng vòng trong công viên. Nếu công việc hanh thông, người ta dễ dàng cảm thấy tự tin, vững vàng. Thế nhưng khi tình hình trở nên xấu, người ta bắt đầu nhớ lại “Xứ Êdíptô, khi còn ngồi kề nồi thịt và ăn bánh chán chê” (Xuất. 16:3). Trên một phương diện, các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng khá giống với một nhiệt kế cứ khi trồi, khi sụt theo nhiệt độ bên ngoài. Về nguyên tắc, không hề có Cơ Đốc Nhân ổn định trong hoang mạc thuộc linh. Một con tàu nếu cứ bỏ neo đứng yên trong bến cảng thì sẽ được an toàn, nhưng một con tàu không đạp sóng, lướt gió, vượt đại dương thì không còn là một con tàu nữa; và rồi nó sẽ rỉ sét, mục nát một cách vô dụng. Đời sống của các Cơ Đốc Nhân cũng vậy. Đức Chúa Trời có chương trình phong phú cho mỗi Cơ Đốc Nhân tự khám phá. Đức Chúa Trời muốn mỗi người chúng ta “Hãy đứng dậy đi” để tiến vào một xứ “Đẹp đẽ và rộng rãi, đượm sữa và mật” (Xuất. 3:8) chứ không thỏa lòng với trạng thái tiềm sinh thuộc linh trong hoang mạc. Đức Chúa Trời muốn chúng ta hãy bước ra khỏi sự cầm buộc của cảm xúc để tiến lên phía trước theo đức tin. Ngài muốn đời sống thuộc linh chúng ta có nhiều đức tin và có ít cảm xúc hơn! Ngay cả khi đã có ý thức và quyết định “Hãy đứng dậy đi”, người ta vẫn còn khả năng mắc lỗi “đi giật lùi”. Có quá nhiều vấn vương khiến họ cứ ngoái mặt lại nhìn vào quá khứ nên họ không làm được điều Phaolô đã kinh nghiệm: “Tôi cứ làm một điều: Quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Phil. 3:14). Việc đáp lại mệnh lệnh “Hãy đứng dậy đi” đòi hỏi chúng ta phải có một sự chọn lựa: Chúng ta phải chọn tiến lên phía trước theo tiếng phán của Đức Chúa Trời, và sẽ nhận được quyền năng dẫn dắt không rời của Đức Chúa Trời theo như lời Ngài phán hứa trong Kinh Thánh: “Vậy, hễ những người trọn vẹn trong chúng ta, phải có ý tưởng đó; và nếu anh em tưởng đàng khác, Đức Chúa Trời cũng sẽ lấy sự đó soi sáng cho anh em” (Phil. 3:15). II. “HÃY VỮNG LÒNG BỀN CHÍ” (C. 3-7) Sau khi Môise qua đời, Đức Chúa Trời cần một người đưa Dân Sự tiến lên phía trước, và người ấy chính là Giôsuê. Giôsuê là một mẫu người không chịu thỏa lòng với việc chỉ ngồi yên trong sự an nhàn. Giôsuê muốn làm một điều gì đó giàu ý nghĩa hơn cho Đức Chúa Trời. Chỗ dựa cho cả Giôsuê lẫn Dân Sự là lời hứa của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời hứa gì cho Dân Sự ngày xưa và cho các Cơ Đốc Nhân ngày nay? Phải chăng Ngài chỉ hứa sự giàu có? Hay chỉ là sự khỏe mạnh? Hay chỉ là quyền năng? Hay là tất cả những điều vừa kể? Để tìm được lời giải đáp, chúng ta phải xem lại Canaan có ý nghĩa như thế nào đối với Dân Sự Đức Chúa Trời: Canaan là sản nghiệp của Dân Chúa, đó là lời Đức Chúa Trời đã hứa với Ápraham và hậu tự Ápraham trong Sách Sáng Thế Ký: “Ta là Đức Giêhôva, Đấng đã dẫn ngươi ra khỏi xứ Urơ, thuộc về xứ Canhđê, để ban cho ngươi xứ nầy làm sản nghiệp” (Sáng. 15:7). Có người giải nghĩa rằng lời hứa này chỉ dành riêng cho Ysơraên, và đã được hoàn nghiệm khi Giôsuê lãnh đạo Ysơraên tiến vào, chinh phục được Canaan. Có người lại cho rằng Canaan là một thực thể trên Thiên Đàng: Sau khi đã trải qua đời này rồi, Dân Chúa mới nhận được xứ ấy. Xứ Canaan là một thực thể địa cầu mà Ysơraên đã chinh phục và sẽ được khôi phục lại cho Ysơraên khi Đức Chúa Jêsus tái lâm. Sẽ có Giêrusalem mới, vì vậy cũng sẽ có Canaan hiểu theo nghĩa một thực thể Thiên Đàng trong cõi đời đời. Mặt khác, dưới Định Kỳ Ân Điển, Cananan cũng còn là hình bóng của đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh, là đời sống mà Đức Chúa Trời muốn tất cả các Cơ Đốc Nhân phải có. Đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh không phải chỉ dành riêng cho một số người nào mà là cho tất cả các Cơ Đốc Nhân, tức là các thánh đồ của Đức Chúa Trời: “Môise, tôi tớ Ta, đã chết; bây giờ ngươi và cả Dân Sự nầy hãy đứng dậy đi qua sông Giôđanh, đặng vào xứ mà Ta ban cho dân Ysơraên” (C. 3). Động từ sử dụng cho phần cuối của câu Kinh Thánh này ở thì quá khứ: Đã ban. “Xứ” đã được ban cho Ysơraên, giống như đời sống mới trong Đức Chúa Jêsus đã được dành sẵn cho những người tin theo Ngài mà không phụ thuộc vào sức riêng của mỗi người. “Phàm nơi nào bàn chân các ngươi đạp đến, thì Ta ban cho các ngươi, y như Ta đã phán cùng Môise…” (C. 4-6) Hàm ý của những lời phán hứa này là Cơ Đốc Nhân có thể có tất cả những gì họ biết nhận lấy trong và qua Đức Chúa Jêsus. Chúng ta có thể có được mọi chiều kích của sự sống đời đời trong Cứu Chúa của chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ nhận được nhiều hơn những gì vốn sẵn có trong Đức Chúa Jêsus rồi. Như vậy, chúng ta có thể có tất cả những điều đáng mong ước nếu chúng ta biết nhận lãnh; và như vậy, nếu chúng ta còn ở trong một tình trạng chưa xứng hiệp, điều ấy có nghĩa rằng chúng ta không thực sự khát khao có đầy trọn những gì vốn đã được Đức Chúa Trời dành sẵn cho chúng ta. Ngày nay, trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời, không có lý do chính đáng cho các tín hữu phải phân vân, lo lắng nếu họ biết bước đi theo tiếng phán của Đức Chúa Trời bởi sự dắt dẫn của chính Ngài qua các nhà lãnh đạo thuộc linh trong Hội Thánh. Mệnh lệnh “Hãy vững lòng bền chí” dành cho tất cả chúng ta, cả những thuộc viên lẫn các lãnh đạo Hội Thánh. Một em bé đến tham quan tượng đài Tổng Thống Washington, thấy có người lính gác đứng cạnh, em tiến đến nói với người ấy: - Thưa ông, em muốn mua tượng đài này! - “Em có được bao nhiêu tiền”, người lính gác hỏi em bé. - “Ba mươi lăm xu”, em bé trả lời. Nghe nói thế, người lính gác này giải thích: - Em cần phải hiểu ba điều sau đây: (1) Thứ nhất, ba mươi lăm xu không đủ để mua tượng đài này; thật ra, đến ba mươi lăm triệu đôla cũng không đủ để mua. (2) Thứ hai, tượng đài của Tổng Thống Washington cũng không phải dành để bán. Và, (3) thứ ba, nếu em thực sự là một công dân Hoa Kỳ, tượng đài này vốn đã là của em rồi, không cần phải mua! Trong cương vị Cơ Đốc Nhân, đôi khi chúng ta cũng không nhận thức được một cách đúng đắn mối quan hệ giữa chúng ta với Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Chúng ta chưa biết tin và nhận lấy bằng sự vâng lời Đức Chúa Trời mà vẫn cứ còn xin những điều vốn đã sẵn dành cho chúng ta. Hãy chú ý lời của Sứ Đồ Phaolô trong Kinh Thánh: “Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời” (Êph. 1:3). Bí quyết để bước đi trong phước hạnh của Đức Thánh Linh chỉ đơn giản là vâng theo lời phán thành văn của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh. Những tấm lòng vâng lời một cách vững lòng bền chí có tác dụng đem lại sự ban cho quyền năng Đức Thánh Linh, và đó chính là đời sống trong miền Đất Hứa dưới Định Kỳ Ân Điển hiện nay. III. “ĐỨC CHÚA TRỜI NGƯƠI VẪN Ở CÙNG NGƯƠI” (C. 8-9) Bí quyết để được ở trong miền Đất Hứa thuộc linh của Đức Chúa Trời là vừa đứng vững trên lời hứa, vừa ở trong sự hiện diện của Ngài. Trong phân đoạn Kinh Thánh này, có đến ba lần Đức Chúa Trời phán truyền Giôsuê “Hãy vững lòng bền chí” (C. 6, 7, 9). Tại sao? Đức Chúa Trời phán “Hãy vững lòng” có nghĩa là Ngài thấy Giôsuê và Dân Sự cảm biết mình yếu đuối, sợ hãi. Đức Chúa Trời phán “Hãy bền chí” có nghĩa là Ngài thấy ở Giôsuê và Dân Sự chưa có được một sự nhìn nhận nghiêm túc và chưa có được một quyết tâm kiên định để hoàn thành sự kêu gọi Thiên Thượng. “Hãy vững lòng bền chí” vẫn còn là một sự khích lệ dành cho tất cả chúng ta ngày nay. Thử hỏi ai trong chúng ta là người không cảm thấy yếu đuối, sợ hãi, thiếu kiên định khi hầu việc Đức Chúa Trời? Đã biết bao lần chúng ta do dự, khước từ đối với tiếng phán của Ngài? Chúng ta thoái thác Đức Chúa Trời mà không hề nhớ những lẽ thật Kinh Thánh qua lời của Sứ Đồ Phaolô: “Chúng tôi đựng của quí nầy trong chậu bằng đất, hầu cho tỏ quyền phép lớn dường ấy là bởi Đức Chúa Trời mà ra, chớ chẳng phải bởi chúng tôi” (2Cô. 4:7). “Của quí” là Đức Thánh Linh và Tin Lành của Đức Chúa Jêsus. “Chậu bằng đất” là chúng ta. Đức Chúa Trời đã đẹp ý chọn sử dụng cái yếu, cái tầm thường như chúng ta để trao cho chúng ta quyền phép Đức Thánh Linh của Ngài. Đức Chúa Trời hiện diện trong chúng ta bởi Đức Thánh Linh của Ngài để chúng ta tôn qui vinh hiển cho Ngài. Đức Chúa Trời phán với Giôsuê và Dân Sự rằng “Hãy vững lòng bền chí” vì Ngài ở cùng họ. Đối với chúng ta cũng vậy, Đức Chúa Trời không bao giờ đòi hỏi chúng ta phải một mình làm bất cứ việc gì cả. Có chăng chỉ là chúng ta xao lãng Ngài, không biết ở trong sự hiện diện của Ngài để vâng lời Ngài mà thôi. Về phần Đức Chúa Trời, Ngài không bao giờ thay đổi về lời hứa ở cùng chúng ta; Đức Chúa Jêsus phán: “19Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báptêm cho họ, 20và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà Ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Ma. 28:19-20). Có một bộ tộc thổ dân Châu Mỹ có một phong tục thực tập lòng can đảm cho các thiếu niên thật độc đáo. Ngay đêm đầu tiên một nam thiếu niên bước vào tuổi mười ba, người ấy sẽ được đem bỏ vào rừng già một mình để sống ở đó suốt một đêm. Cho đến đêm thử thách ấy, các thiếu niên luôn được ở dưới sự bảo bọc của gia đình, chưa bao giờ phải một mình qua đêm ở đâu cả. Thế nhưng vào đêm thử thách, họ được gia đình bịt kín mắt, đem đến một khu rừng già xa lạ rồi thả ra. Khi người nhà bỏ đi rồi, lột khăn bịt mắt ra, người thiếu niên chỉ thấy đêm đen dày đặc, đưa tay lên tận mắt cũng chẳng thấy gì. Lang thang trong rừng, người thiếu niên được thử thách phải sống những giờ phút hết sức căng thẳng: Chỉ cần tiếng nhánh cây khô gãy “rắc” dưới chân cũng khiến họ hình dung ra hình ảnh một con thú dữ nào đó đang rình rập, sẵn sàng lao ra tấn công bất cứ lúc nào. Nghe tiếng thú dữ gầm, rống xa xa, họ tưởng chừng như mình sẽ là con mồi tiếp theo của chúng trong giây lát, và cái chết sẽ đến không sao tránh thoát. Mỗi lần tiếng gió lao xao trong cành lá, họ sợ dựng tóc gáy hoang mang không biết hiểm họa nào sẽ xảy đến… Cứ thế suốt một đêm dài là một cực hình tưởng chừng không sao chịu nổi. Chỉ một đêm mà tưởng chừng như vô tận; thế nhưng cái đêm kinh hoàng ấy rồi cũng trôi qua. Và, ngay khi những tia sáng đầu tiên xuất hiện - còn nhạt mờ cho đến nỗi chưa giúp phân biệt được màu của lá, của hoa - người thiếu niên được thử thách đã phải ngạc nhiên hết sức khi thấy thấp thoáng trong ánh sáng lờ mờ, yếu ớt ấy một bóng người với đầy đủ cung tên, gươm giáo đang bám theo mình trong một khoảng cách không xa. Đó chính là cha của người được thử thách, ông đã bám sát theo đứa con để sẵn sàng bảo vệ trong suốt đêm qua… Đức Chúa Trời là Đấng kêu gọi chúng ta bước ra khỏi hoang mạc thuộc linh trong thế gian này cũng luôn luôn ở bên cạnh chúng ta như thế. Ngài là Đức Chúa Trời đã truyền phán cho chúng ta, nhưng đồng thời Ngài cũng là Đức Chúa Trời kết ước với chúng ta: “Hãy vững lòng bên chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng; vì Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi” (C. 9). Đức Chúa Trời của Môise, Đức Chúa Trời của Giôsuê cũng chính là Đức Chúa Trời của chúng ta ngày nay! Kinh Thánh luôn luôn so sánh sự bước đi của Cơ Đốc Nhân với chiến trận thuộc linh. Để làm một chiến sĩ khôn ngoan, chúng ta phải biết tự vũ trang cho mình một cách thỏa đáng. Tuy nhiên, vũ khí của chúng ta sẽ trở nên vô dụng nếu kênh thông tin_liên lạc giữa chúng ta với Tổng Tư Lệnh của chúng ta là Đức Chúa Trời bị nhiễu. Điều bắt buộc là chúng ta phải nghe cho được tiếng phán của Đức Chúa Trời. Thế nhưng, để nghe cho được tiếng phán của Đức Chúa Trời, chúng ta phải biết phân biệt: (1) Tiếng của Satan là kẻ thù của chúng ta gầm rống như sư tử (1Phi. 5:8). Tiếng của Satan đầy dọa dẫm, dễ làm cho chúng ta khiếp nhược. Nếu chúng ta bị cuốn theo tiếng Satan, chúng ta sẽ bị tê điếng, không sao tiến lên phía trước được. (2) Tiếng của dân bản địa trong “xứ” là dân mà chúng ta phải chiến đấu để chiến thắng và chinh phục. “Xứ” là thế gian này, là nơi không muốn ánh sáng của Tin Lành soi rọi vào vì nó sẽ làm phơi bày tội lỗi của họ ra. Vì thế, nếu chúng ta nghe theo tiếng của người thế gian, chúng ta sẽ đánh mất phương hướng, bỏ rơi sự kêu gọi và chức vụ đã được trao ban cho chúng ta. (3) Cũng còn có tiếng huyên náo trong chính trại quân của chúng ta là Hội Thánh nữa! Tiếng này có nhiều giọng khác nhau: Giọng ganh tị, giọng mạ lị, giọng chia rẽ, và cả giọng kiêu ngạo của chính xúc cảm của bản thân… Nếu nghe theo các giọng này, chúng ta dễ bị tụt hậu, thối lui, hoặc bỏ cuộc. Chỉ có duy nhất một loại tiếng có thẩm quyền tối hậu đối với chúng ta là tiếng phán của Đức Chúa Trời qua Lời Ngài trong Kinh Thánh. Tiếng phán của Đức Chúa Trời mạnh nhưng mang tính yên ủi. Tiếng phán của Đức Chúa Trời đanh thép nhưng đầy yêu thương. Đức Chúa Trời truyền cho chúng ta phải có dũng khí, phải biết nương cậy Ngài không thôi vì Ngài luôn ở với chúng ta. Với sự ở cùng của Đức Chúa Trời trong chúng ta, chúng ta sẽ vô địch, chúng ta sẽ không bao giờ thất bại nếu chúng ta biết kiên trung vâng theo tiếng phán của Ngài: “Quyển sách Luật Pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước” (C. 8). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |