“A HEALTHY DISCUSSION”
“Bấy giờ những kẻ kính sợ Đức Giêhôva nói cùng nhau, thì Đức Giêhôva để ý mà nghe; và một sách để ghi nhớ được chép trước mặt Ngài cho những kẻ kính sợ Đức Giêhôva và tưởng đến danh Ngài.” (Mal. 3:16) .
“PHẢI BIẾT SỈ HỔ!”
Muốn lập đại nghiệp, trước phải chịu lập thân; muốn lập thân, trước phải biết sỉ hổ. Sống mà không biết sỉ hổ thì dễ trở thành loài chó phản chủ, ăn tạp, sủa bừa… Hãy tỉnh ngộ, đừng trân tráo nữa! Lời Kinh Thánh phán: “Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng; vì trái của sự sáng láng ở tại mọi điều nhân từ, công bình và thành thật. Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa, và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm, thà quở trách chúng nó thì hơn; vì dầu nói đến điều mà những người đó làm cách kín giấu, cũng đã là hổ thẹn rồi.” (Êph. 5:8-12) . “ĐỪNG QUÊN!” Đừng bao giờ quên rằng một khi vẫn còn chưa nắm vững được đại ý của bản văn Kinh Thánh thì bản văn Kinh Thánh vẫn chưa có thể được thông giải hợp nguyên tắc và phương pháp thông kinh! .
“ĐỪNG QUÊN!”
Đừng bao giờ quên rằng một khi vẫn còn chưa nắm vững được đại ý của bản văn Kinh Thánh thì bản văn Kinh Thánh vẫn chưa có thể được thông giải hợp nguyên tắc và phương pháp thông kinh! .
“SỐNG…”
Hãy sống đời sống tin kính, trung tín cho đến chết. Đừng cạn nghĩ, manh động mà cứ tưởng là mình yên hùng. Đừng để về sau có cớ cho người ta mắng con cháu mình rằng “Cha mày chỉ là một con chó ghẻ phản chủ, mày chỉ là con của một con chó ghẻ phản chủ!”. Lời Chúa phán: “Vả, sự tin kính cùng sự thỏa lòng, ấy là một lợi lớn. Vì chúng ta ra đời chẳng hề đem gì theo, chúng ta qua đời cũng chẳng đem gì đi được. Như vậy, miễn là đủ ăn đủ mặc thì phải thỏa lòng; còn như kẻ muốn nên giàu có, ắt sa vào sự cám dỗ, mắc bẫy dò, ngã trong nhiều sự tham muốn vô lý thiệt hại kia, là sự làm đắm người ta vào sự hủy diệt hư mất. Bởi chưng sự tham tiền bạc là cội rễ mọi điều ác, có kẻ vì đeo đuổi nó mà bội đạo, chuốc lấy nhiều điều đau đớn. Nhưng, hỡi con, là người của Đức Chúa Trời, hãy tránh những sự đó đi, mà tìm điều công bình, tin kính, đức tin, yêu thương, nhịn nhục, mềm mại. Hãy vì đức tin mà đánh trận tốt lành, bắt lấy sự sống đời đời, là sự mà con đã được gọi đến, và vì đó mà con đã làm chứng tốt lành trước mặt nhiều người chứng kiến. Trước mặt Đức Chúa Trời là Đấng ban sự sống cho mọi vật, và trước mặt Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng làm chứng tốt nơi Bônxơ Philát, ta khuyên con phải giữ điều răn, ở cho không vết tích và không chỗ trách được, cho đến kỳ sự hiện ra của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, là sự mà Đấng Chủ Tể hạnh phước và có một đến kỳ sẽ tỏ ra, là Vua của mọi vua, Chúa của mọi chúa, một mình Ngài có sự không hề chết, ở nơi sự sáng không thể đến gần được, chẳng người nào từng thấy Ngài và cũng không thấy được, danh vọng quyền năng thuộc về Ngài đời đời! Amen.” (1Ti. 6:6-16) . “MỘT SỰ THÀNH CÔNG LỊCH SỬ!” (Khải. 3:1-6) Mọi sự dở dang không được cố gắng để hoàn thành đều đáng được nhắc nhở, quở trách: “Ngươi cũng hãy viết cho thiên sứ của Hội Thánh Sạtđe rằng: Nầy là lời phán của Đấng có bảy vị thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao: Ta biết công việc ngươi; ngươi có tiếng là sống, nhưng mà là chết. Hãy tỉnh thức, và làm cho vững sự còn lại, là sự hầu chết; vì ta không thấy công việc của ngươi là trọn vẹn trước mặt Đức Chúa Trời ta. Vậy hãy nhớ lại mình đã nhận và nghe đạo thể nào, thì giữ lấy, và ăn năn đi. Nếu ngươi chẳng tỉnh thức, ta sẽ đến như kẻ trộm, và ngươi không biết giờ nào ta đến bắt ngươi thình lình. Nhưng, ở Sạtđe, ngươi còn có mấy người chưa làm ô uế áo xống mình: Những kẻ đó sẽ mặc áo trắng mà đi cùng ta, vì họ xứng đáng như vậy. Kẻ nào thắng, sẽ được mặc áo trắng như vậy. Ta sẽ không xóa tên người khỏi sách sự sống và sẽ nhận danh người trước mặt Cha ta, cùng trước mặt các thiên sứ Ngài. Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng các Hội Thánh!” (Khải. 3:1-6) Sự thành công này của Mục Vụ BLV là một sự thành công lịch sử khi giúp tự chứng được rằng dầu chúng ta bị bỏ mặc nhưng vẫn không bỏ cuộc và Đức Chúa Trời đã vùa giúp chúng ta cách diệu kỳ!
“CÁC QUAN ĐIỂM VỀ GIỚI TÍNH CỦA NHÂN LOẠI” (Sáng. 1:27; 2:7) “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ… Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.” (Sáng. 1:27; 2:7) “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ… Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.”(Sáng. 1:27; 2:7) Kinh Thánh phán tỏ tường rằng “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:27) nhưng không phải ai cũng tin như vậy và có cùng một cách hiểu giống nhau về cấu hình của con người… I. MỞ ĐẦU… I.1 Một Vài Câu Hỏi… 1. Trong vai trò người nam trong gia đình, Hội Thánh, và xã hội… (1) Điều gì làm cho bạn thích nhất? (2) Điều gì khiến cho bạn không thích nhất? 2. Trong vai trò người nữ trong gia đình, Hội Thánh, và xã hội… (1) Điều gì làm cho bạn thích nhất? (2) Điều gì khiến cho bạn không thích nhất? 3. Người nam… Bạn sẽ làm gì để yêu thương vợ nhiều hơn trước đây? 3. Người nữ… Bạn sẽ làm gì để kính trọng chồng nhiều hơn trước đây? II.2 Phải Theo Kinh Thánh! I. NAM VÀ NỮ: SỰ KHÁC BIỆT I.1 Hãy Đọc Sáng. 2:18-25 “18 Giêhôva Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó. 19 Giêhôva Đức Chúa Trời lấy đất nắn nên các loài thú đồng, các loài chim trời, rồi dẫn đến trước mặt Ađam đặng thử xem người đặt tên chúng nó làm sao, hầu cho tên nào Ađam đặt cho mỗi vật sống, đều thành tên riêng cho nó. 20 Ađam đặt tên các loài súc vật, các loài chim trời cùng các loài thú đồng; nhưng về phần Ađam, thì chẳng tìm được một ai giúp đỡ giống như mình hết. 21 Giêhôva Đức Chúa Trời làm cho Ađam ngủ mê, bèn lấy một xương sườn, rồi lấp thịt thế vào. 22 Giêhôva Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi Ađam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Ađam. 23 Ađam nói rằng: Người nầy là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi mà ra. Người nầy sẽ được gọi là người nữ, vì nó do nơi người nam mà có. 24 Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ nên một thịt. 25 Vả, Ađam và vợ, cả hai đều trần truồng, mà chẳng hổ thẹn.” I.2 Hai Quan Điểm… 1. Quan Điểm Quân Bình (Egalitarianism) 2. Quan Điểm Bổ Sung (Complimentarianism) II. “QUAN ĐIỂM QUÂN BÌNH” II.1 Chủ Trương Kinh Thánh không dạy rằng trong mọi trường hợp người nữ phải quị lụy trước người nam vì vốn được tạo ra để như thế. Người nữ và người nam giữ các vị trí mục vụ tùy theo ân tứ của họ chứ không phải theo giới tính. Nguyên tắc Kinh Thánh về thuận phụ hỗ tương dạy rằng cả chồng lẫn vợ đều phải vâng phục lẫn nhau một cách tương đương. Những Người Ủng Hộ: N.T. Wight, Gregory Boyd, Stanley Grenz, Richard Foster, Gorden Fee, Craig Keener. II.2 Bênh Vực a. Chế độ gia trưởng (người nam thống trị) là một hiện tượng văn hóa mà Đức Chúa Trời đã chọn không phải để giải quyết, mà chỉ là để điều chỉnh cũng như Ngài đã làm như thế đối với hiện tượng chiếm hữu nô lệ. Côl. 3:18-22 “18Hỡi người làm vợ, hãy vâng phục chồng mình, y như điều đó theo Chúa đáng phải nên vậy. 19Hỡi kẻ làm chồng, hãy yêu vợ mình, chớ hề ở cay nghiệt với người. 20Hỡi kẻ làm con, mọi sự hãy vâng phục cha mẹ mình, vì điều đó đẹp lòng Chúa. 21Hỡi kẻ làm cha, chớ hề chọc giận con cái mình, e chúng nó ngã lòng chăng. 22Hỡi kẻ làm tôi tớ, trong mọi sự phải vâng phục kẻ làm chủ mình về phần xác, không những hầu việc trước mặt họ, như mình tìm cách cho đẹp lòng người ta, nhưng vì kính sợ Chúa, hãy lấy lòng thật thà mà hầu việc.” b. Chế độ người nam điều hành và thống trị là hậu quả của Cuộc Sa Ngã, là điều sẽ được thay đổi khi người ta được phục hồi trở lại trong Đức Chúa Jêsus Sáng. 3:16 “Ngài phán cùng người nữ rằng: Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi” Gal. 3:28 “Tại đây không còn chia ra người Giuđa hay người Gờréc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ; không còn đàn ông hoặc đàn bà; vì trong nhà Đức Chúa Jêsus Christ, anh em thảy đều làm một.” c. Kinh Thánh có rất nhiều điển hình về việc người nữ giữ vai trò nhà lãnh đạo, giáo sư, và nữ tiên tri hành quyền ngay cả đối với người nam. - Miriam được biết là một nhà lãnh đạo trong cuộc Xuất Aicập cùng với Môise và Arôn (Mi. 6:4). - Đêbôra đã từng phục vụ Đức Chúa Trời trong vai trò Quan Thẩm Phán của Ysơraên (Quan. 4-5). - Hunđa là một Nữ Tiên Tri mà cả người nữ lẫn người nam đều đến để cầu hỏi (2Vua. 22:14). - Đến thời Tân Ước vẫn còn có các Nữ Tiên Tri là những người hành sử thẩm quyền dạy dỗ của họ trên người (Lu. 2:36-38; Công. 2:16-18; 21:8-9; 1Cô. 11:4-5). - Lịch sử đã từng có những mẫu điển hình đầy sức thuyết phục về các nhà nữ lãnh đạo thuộc linh hoặc nữ Mục Sư rất hiệu quả + Amy Carmichael + Corrie Ten Boon + Elisabeth Elliott d. Bất chấp các tuyên bố ngang ngược, khó mà tưởng tượng được rằng người nữ phải bị truất bỏ khỏi các cơ hội hành sử thẩm quyền lãnh đạo thuộc linh đối với người nam, phải bị làm giảm giá trị so với người nam. III. PHẢN BÁC IV.1 Mặc dầu đôi khi Đức Chúa Trời không cải thiện các vấn đề văn hóa ngay lập tức, quyền lãnh đạo của người làm chồng không phải chỉ là một vấn đề thuần túy văn hóa cũng như việc con cái phải vâng lời cha mẹ không phải chỉ thuộc phạm trù văn hóa mà thôi (Sv. Êph. 6:1). IV.2Có khá nhiều bằng chứng cho thấy quyền lãnh đạo của người nam không phải chỉ thuần túy là hậu quả của Cuộc Sa Ngã: - Ađam đã được dựng nên đầu tiên. - Êva đã được dựng nên như một người để bổ khuyết cho hoàn hảo. - Ađam đã đặt tên cho Êva. - Sau Cuộc Sa Ngã, Đức Chúa Trời đã phán với Ađam trước. - Ađam chứ không phải Êva là người đại diện cho nhân loại sau Cuộc Sa Ngã. (Rô. 5:12-19). - Sự rủa sả của Đức Chúa Trời đã làm méo mó các vai trò vốn có trước đó chứ không phải khai sinh ra các vai trò mới. IV.3 Có nhiều điển hình, ví dụ như Đêbôra, là ngoại lệ của tình trạng thiếu người nam lãnh đạo. Tuy nhiên, đã từng có nhiều người nữ hoàn thành một cách đầy hiệu quả vai trò Nhà Tiên Tri, Lãnh Đạo thuộc linh của mình trong Hội Thánh sơ kỳ cũng như trong thời hiện nay. Vấn đề được bàn cãi không phải là người nữ có đủ tài năng, hiệu quả trong việc làm Giáo Sư, Lãnh Đạo hay không mà là liệu họ có thẩm quyền trên người nam hay không. IV.4 Một lần nữa, hoàn toàn đồng ý rằng đã có, hiện có, và sẽ còn có những người nữ hiệu quả trong vai trò Nhà Lãnh Đạo. Tuy nhiên, lập luận theo sự thành công của những người nữ sử dụng vai trò lãnh đạo thuộc linh của người nam là nhấn mạnh cái thực dụng mà làm ngơ cái thực chất. Đức Chúa Trời có thể ban phước cho các mục vụ của Ngài bất chấp sự tiếu sót của người thi hành các mục vụ ấy, và Ngài ban phước như thế thì không có nghĩa là vì người thi hành mục vụ mà Ngài ban phước. IV.5 Cho rằng người ta vốn được định sẵn trên phương diện di truyền để thi hành các sự hầu việc nhất định nào đó không có nghĩa là làm mất giá của ai hay chủ trương một chế độ giai trật. Trên phương diện di truyền học, ai cũng biết rằng người nam đã không được chuẩn bị để mang thai, sinh con. Tuy vậy, một sự nhận thức như thế không phải là làm mất giá của người nam. Một sự nhận thức như thế chỉ là một sự khẳng định rằng Đức Chúa Trời đã không giao vai trò mang thai, sinh con cho người nam mà thôi. V. QUAN ĐIỂM BỔ SUNG V.1 Chủ Trương Kinh Thánh dạy cho biết rằng người nam và người nữ tương đương với nhau về tính hữu ích, chân giá trị, và trách nhiệm trước mặt Đức Chúa Trời (cả hai đều đã được tạo dựng tương đương). Kinh Thánh cũng dạy rằng người nam và người nữ có các vai trò khác nhau trong xã hội, gia đình và Hội Thánh. Các vai trò ấy không thể được nhìn nhận theo cách ganh đua mà là trong tinh thần bổ trợ lẫn nhau. Những Người Ủng Hộ: Wayne Grudem, John Piper, Douglas Moo, Charles Swindoll, John MacArthur. V.2 Bênh Vực a. Kinh Thánh minh thị chức phận lãnh đạo của người nam ngay từ buổi ban đầu của cuộc sáng tạo - Ađam đã đặt tên cho các loài thú vật (Sáng. 2:20). - Ađam đã đặt tên cho Êva (Sáng. 2:23). - Sau Cuộc Sa Ngã, Đức Chúa Trời đã đến với Ađam trước nhất (Sáng. 2:9). - Không hề có người nữ nào làm Thầy Tế Lễ cả. - Các Quan Thẩm Phán được Đức Chúa Trời lập đều là người nam cả. - Các Sứ Đồ của Đức Chúa Jêsus đều toàn là người nam. - Các chức danh Giám Mục/Trưởng Lão/Mục Sư đều là những chức danh giống đực, và được nhắm đến người nam (1Ti. 3:2; Tít1:6). b. Êva đã được tạo dựng như một người để bổ khuyết cho hoàn hảo. Chưa hoàn hảo có nghĩa là còn khiếm khuyết ở đâu đó. Ađam có khiếm khuyết ở những điểm nhất định nào đó cho nên Đức Chúa Trời đã phải phán: “Loài người ở một mình thì không tốt” (Sáng. 2:18). Êva đã được tạo dựng để bổ khuyết những gì còn khiếm khuyết cho hoàn hảo. Cần nên nhận thức rõ rằng Êva không phải chỉ đơn thuần là một nổ lực thứ hai để làm cho hoàn hảo. Êva đã được tạo dựng với những nét tính cách mà Ađam không có. Tương tự, Ađam đã được tạo dựng với những nét tính cách mà Êva không có. Họ đã được tạo dựng để phụ bổ lẫn nhau. Vì vậy, sự khác biệt trong vai trò là điều thiết yếu để nhân loại có thể trở nên hoàn chỉnh. c. Sứ Đồ PhaoLô đã phải liên tục nói với những người nữ không hiểu nổi - hoặc với những người hoàn toàn có ý loạn nghịch - về tầm quan trọng của vai trò người nữ của họ. Những người như thế đã làm mờ mất các vai trò đã được Đức Chúa Trời lập và ra sức chiếm đoạt vai trò của người nam. Sự loạn nghịch ấy chính là một phần của sự rủa sả. Sáng. 3:16 “Ngài phán cùng người nữ rằng: Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi.” 1Ti. 2:12-15 “12Ta không cho phép đàn bà dạy dỗ, cũng không được cầm quyền trên đàn ông; nhưng phải ở yên lặng. 13Vì Ađam được dựng nên trước nhứt, rồi mới tới Êva. 14Lại không phải Ađam bị dỗ dành, bèn là người đàn bà bị dỗ dành mà sa vào tội lỗi. 15Dầu vậy, nếu đàn bà lấy đức hạnh mà bền đỗ trong đức tin, trong sự yêu thương, và trong sự nên thánh, thì sẽ nhân đẻ con mà được cứu rỗi.” 1Cô. 14:34-35 “34Đàn bà phải nín lặng trong đám hội của anh em: Họ không có phép nói tại nơi đó, nhưng phải phục tùng cũng như Luật Pháp dạy. 35Nhược bằng họ muốn học khôn điều gì, thì mỗi người trong đám hội phải hỏi chồng mình ở nhà; bởi vì đàn bà nói lên trong Hội Thánh là không hiệp lẽ.” 1Cô. 11:3 “Dầu vậy, tôi muốn anh em biết Đấng Christ là Đầu mọi người; người đàn ông là đầu người đàn bà; và Đức Chúa Trời là Đầu của Đấng Christ.” Côl. 3:18 “Hỡi người làm vợ, hãy vâng phục chồng mình, y như điều đó theo Chúa đáng phải nên vậy.” Tít 2:5 “[Phải dạy đàn bà] có nết na, trinh chánh, trông nom việc nhà, lại biết ở lành, vâng phục chồng mình, hầu cho Đạo của Đức Chúa Trời khỏi bị một lời chê bai nào.” d. Các Trước Giả Tân Ước đã phải thường xuyên đề cập đến những người nam nào lạm dụng vai trò lãnh đạo của mình. Đây cũng là một phần của sự rủa sả. tuy nhiên, sự hướng dẫn đối với người nam không phải là bảo họ thôi đừng lãnh đạo nữa mà là dạy họ phải lãnh đạo theo một cách thế nhạy bén, đầy khích lệ và tình yêu thương. Sáng. 3:16 “Ngài phán cùng người nữ rằng: Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi” Êph. 5:25a, 28, 33a “25Hỡi người làm chồng, hãy yêu vợ mình, như Đấng Christ đã yêu Hội Thánh, phó chính mình vì Hội Thánh… 28Cũng một thể ấy, chồng phải yêu vợ như chính thân mình. Ai yêu vợ mình thì yêu chính mình vậy… 33Thế thì mỗi người trong anh em phải yêu vợ mình như mình, còn vợ thì phải kính chồng” 1Phi. 3:7 “Hỡi người làm chồng, hãy tỏ điều khôn ngoan ra trong sự ăn ở với vợ mình, như là với giống yếu đuối hơn; vì họ sẽ cùng anh em hưởng phước sự sống, nên phải kính nể họ, hầu cho không điều gì làm rối loạn sự cầu nguyện của anh em” Côl. 3:19 “Hỡi kẻ làm chồng, hãy yêu vợ mình, chớ hề ở cay nghiệt với người” e. Phần lớn các Hội Thánh trong lịch sử đều tôn trọng Quan Điểm Bổ Sung. V.3 Phản Bác a. Các minh thị trong Kinh Thánh về chức phận lãnh đạo của người nam được trung dẫn có tính chất miêu tả (descriptive), thiếu tính chất minh định (prescriptive). Nói cách khác, chức phận người nam lãnh đạo - cũng giống với chế độ nô lệ - là một hiện tượng văn hóa mà Đức Chúa Trời chưa muốn phá bỏ đi vào thời điểm ấy. b. Mặc dầu phải công nhận rằng người nữ đã được tạo dựng để làm cho hoàn chỉnh nhân loại (chứ không phải chỉ riêng cho người nam) nhưng điều ấy không đòi hỏi Đức Chúa Trời phải thiết lập chế độ giai trật. Chế độ người nam lãnh đạo, chế độ thống trị, bất cứ tên gọi nào tương tự như thế, đều là sản phẩm của Cuộc Sa Ngã chứ không phải của Cuộc Sáng Tạo. c. Những điều Sứ Đồ PhaoLô viết là viết cho những tình huống văn hóa cụ thể không cần phải có một sự áp dụng phổ quát. Chẳng hạn, PhaoLô viết cho Timôthê ở Êphêsô là nơi mà trước đó có lắm người nữ vốn là gái hầu của tôn giáo (cult prostitutes), vốn thiếu học thức (điển hình là họ chỉ được học lóm các tri thức từ chồng mình mà thôi), mà lại muốn “nhảy” lên bục giảng (“fill the pulpit”). PhaoLô dùng hình ảnh Êva để chỉ cho thấy tính chất tai hại của các tri thức “học lóm” (secondhand information). PhaoLô không sử dụng sự kiện đã xảy ra ở Vườn Eđen làm một nguyên lý phổ quát. Vì thế, mệnh lệnh của Sứ Đồ PhaoLô ở đây chỉ thuần túy là một mệnh lệnh văn hóa. d. Các đoạn văn Kinh Thánh Tân Ước này không qui định người làm chồng phải cai quản như thế nào, mà chỉ là hướng dẫn họ phải quan hệ như thế nào mà thôi. Ý chính của sự dạy dỗ ở đây là người làm chồng phải yêu vợ mình chứ không được cai trị. e. Sự thật đáng buồn là theo dòng lịch sử, Hội Thánh đã đẻ ra các mối quan hệ lạm dụng từ khuynh hướng tội lỗi là muốn cai trị của người nam. Cơ Đốc Nhân nói xấu người Do Thái, họ phê phán chế độ nô lệ, và họ ép người ta phải biến cải niềm tin bằng Tòa Án Dị Giáo (Inquisitions). Bất cứ sự kháng nghị nào căn cứ vào lịch sử cũng đều đem lại rất ít lợi thế mà có khi còn nghịch lại với Quan Điểm Bổ Sung nữa. VI. CÁC DỊ BIỆT VỀ CƠ THỂ HỌC THEO GIỚI TÍNH VI.1 Người Nữ - Có nhiều mỡ dự trữ hơn, dự trữ được nhiều năng lượng hơn. - Có nhiều bạch cầu và hạch bạch huyết B và T hơn (giúp có thể chống lại viêm, nhiễm nhanh hơn). - Nhạy cảm hơn nhờ hệ thống cảm giác nhạy đáp ứng: Lông/tóc mảnh hơn; có tri giác sắc bén hơn cả về nghe, nếm, sờ, và ngửi. - Có thể phân biệt màu sắc giỏi hơn (đặc biệt là các màu ở hai đầu quan phổ). - Có ít testosterone hơn (nên có thể kiên nhẫn hơn, có thể ở với người trong gia đình lâu hơn). - Tiếng trẻ khóc có thể dấy lên trong họ một sự đáp ứng máy móc ngay. - Sản sinh ra nhiều cortisol hơn trong khi trải qua những tình huống căng thẳng lâu (Cortisol làm giảm chất serotonin là chất khiến cho người ta cảm thấy chán nản) VI.2 Người Nam - Tỷ lệ trao đổi chất cao hơn người nữ 10%. - Có khối lượng cơ nhiều hơn người nữ 50%. - Có nhiều tuyến mồ hôi hơn giúp làm giảm nhiệt nhanh hơn. - Có lượng hồng cầu nhiều hơn người nữ 10% (giúp vết thương được lành nhanh hơn). - Sau tuổi dậy thì, có lượng testosterone cao hơn ở người nữ 15 lần (xốc xáo hơn, tích cực trong dục tính, thích các môn thể thao mang tính ganh đua, sớm rời khỏi gia đình hơn, có khuynh hướng thích tranh cãi - Sản sinh ra nhiều testosterone khi trải qua những lúc căng thẳng giúp chịu đựng cao, nhưng cũng có nhiều khả năng tăng huyết áp hơn. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)“Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ… Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.”(Sáng. 1:27; 2:7) Kinh Thánh phán tỏ tường rằng “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:27) nhưng không phải ai cũng tin như vậy và có cùng một cách hiểu giống nhau về cấu hình của con người… I. MỞ ĐẦU… I.1 Một Vài Câu Hỏi… 1. Trong vai trò người nam trong gia đình, Hội Thánh, và xã hội… (1) Điều gì làm cho bạn thích nhất? (2) Điều gì khiến cho bạn không thích nhất? 2. Trong vai trò người nữ trong gia đình, Hội Thánh, và xã hội… (1) Điều gì làm cho bạn thích nhất? (2) Điều gì khiến cho bạn không thích nhất? 3. Người nam… Bạn sẽ làm gì để yêu thương vợ nhiều hơn trước đây? 3. Người nữ… Bạn sẽ làm gì để kính trọng chồng nhiều hơn trước đây? II.2 Phải Theo Kinh Thánh! I. NAM VÀ NỮ: SỰ KHÁC BIỆT I.1 Hãy Đọc Sáng. 2:18-25 “18 Giêhôva Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó. 19 Giêhôva Đức Chúa Trời lấy đất nắn nên các loài thú đồng, các loài chim trời, rồi dẫn đến trước mặt Ađam đặng thử xem người đặt tên chúng nó làm sao, hầu cho tên nào Ađam đặt cho mỗi vật sống, đều thành tên riêng cho nó. 20 Ađam đặt tên các loài súc vật, các loài chim trời cùng các loài thú đồng; nhưng về phần Ađam, thì chẳng tìm được một ai giúp đỡ giống như mình hết. 21 Giêhôva Đức Chúa Trời làm cho Ađam ngủ mê, bèn lấy một xương sườn, rồi lấp thịt thế vào. 22 Giêhôva Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi Ađam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Ađam. 23 Ađam nói rằng: Người nầy là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi mà ra. Người nầy sẽ được gọi là người nữ, vì nó do nơi người nam mà có. 24 Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ nên một thịt. 25 Vả, Ađam và vợ, cả hai đều trần truồng, mà chẳng hổ thẹn.” I.2 Hai Quan Điểm… 1. Quan Điểm Quân Bình (Egalitarianism) 2. Quan Điểm Bổ Sung (Complimentarianism) II. “QUAN ĐIỂM QUÂN BÌNH” II.1 Chủ Trương Kinh Thánh không dạy rằng trong mọi trường hợp người nữ phải quị lụy trước người nam vì vốn được tạo ra để như thế. Người nữ và người nam giữ các vị trí mục vụ tùy theo ân tứ của họ chứ không phải theo giới tính. Nguyên tắc Kinh Thánh về thuận phụ hỗ tương dạy rằng cả chồng lẫn vợ đều phải vâng phục lẫn nhau một cách tương đương. Những Người Ủng Hộ: N.T. Wight, Gregory Boyd, Stanley Grenz, Richard Foster, Gorden Fee, Craig Keener. II.2 Bênh Vực a. Chế độ gia trưởng (người nam thống trị) là một hiện tượng văn hóa mà Đức Chúa Trời đã chọn không phải để giải quyết, mà chỉ là để điều chỉnh cũng như Ngài đã làm như thế đối với hiện tượng chiếm hữu nô lệ. Côl. 3:18-22 “18Hỡi người làm vợ, hãy vâng phục chồng mình, y như điều đó theo Chúa đáng phải nên vậy. 19Hỡi kẻ làm chồng, hãy yêu vợ mình, chớ hề ở cay nghiệt với người. 20Hỡi kẻ làm con, mọi sự hãy vâng phục cha mẹ mình, vì điều đó đẹp lòng Chúa. 21Hỡi kẻ làm cha, chớ hề chọc giận con cái mình, e chúng nó ngã lòng chăng. 22Hỡi kẻ làm tôi tớ, trong mọi sự phải vâng phục kẻ làm chủ mình về phần xác, không những hầu việc trước mặt họ, như mình tìm cách cho đẹp lòng người ta, nhưng vì kính sợ Chúa, hãy lấy lòng thật thà mà hầu việc.” b. Chế độ người nam điều hành và thống trị là hậu quả của Cuộc Sa Ngã, là điều sẽ được thay đổi khi người ta được phục hồi trở lại trong Đức Chúa Jêsus Sáng. 3:16 “Ngài phán cùng người nữ rằng: Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi” Gal. 3:28 “Tại đây không còn chia ra người Giuđa hay người Gờréc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ; không còn đàn ông hoặc đàn bà; vì trong nhà Đức Chúa Jêsus Christ, anh em thảy đều làm một.” c. Kinh Thánh có rất nhiều điển hình về việc người nữ giữ vai trò nhà lãnh đạo, giáo sư, và nữ tiên tri hành quyền ngay cả đối với người nam. - Miriam được biết là một nhà lãnh đạo trong cuộc Xuất Aicập cùng với Môise và Arôn (Mi. 6:4). - Đêbôra đã từng phục vụ Đức Chúa Trời trong vai trò Quan Thẩm Phán của Ysơraên (Quan. 4-5). - Hunđa là một Nữ Tiên Tri mà cả người nữ lẫn người nam đều đến để cầu hỏi (2Vua. 22:14). - Đến thời Tân Ước vẫn còn có các Nữ Tiên Tri là những người hành sử thẩm quyền dạy dỗ của họ trên người (Lu. 2:36-38; Công. 2:16-18; 21:8-9; 1Cô. 11:4-5). - Lịch sử đã từng có những mẫu điển hình đầy sức thuyết phục về các nhà nữ lãnh đạo thuộc linh hoặc nữ Mục Sư rất hiệu quả + Amy Carmichael + Corrie Ten Boon + Elisabeth Elliott d. Bất chấp các tuyên bố ngang ngược, khó mà tưởng tượng được rằng người nữ phải bị truất bỏ khỏi các cơ hội hành sử thẩm quyền lãnh đạo thuộc linh đối với người nam, phải bị làm giảm giá trị so với người nam. III. PHẢN BÁC IV.1 Mặc dầu đôi khi Đức Chúa Trời không cải thiện các vấn đề văn hóa ngay lập tức, quyền lãnh đạo của người làm chồng không phải chỉ là một vấn đề thuần túy văn hóa cũng như việc con cái phải vâng lời cha mẹ không phải chỉ thuộc phạm trù văn hóa mà thôi (Sv. Êph. 6:1). IV.2Có khá nhiều bằng chứng cho thấy quyền lãnh đạo của người nam không phải chỉ thuần túy là hậu quả của Cuộc Sa Ngã: - Ađam đã được dựng nên đầu tiên. - Êva đã được dựng nên như một người để bổ khuyết cho hoàn hảo. - Ađam đã đặt tên cho Êva. - Sau Cuộc Sa Ngã, Đức Chúa Trời đã phán với Ađam trước. - Ađam chứ không phải Êva là người đại diện cho nhân loại sau Cuộc Sa Ngã. (Rô. 5:12-19). - Sự rủa sả của Đức Chúa Trời đã làm méo mó các vai trò vốn có trước đó chứ không phải khai sinh ra các vai trò mới. IV.3 Có nhiều điển hình, ví dụ như Đêbôra, là ngoại lệ của tình trạng thiếu người nam lãnh đạo. Tuy nhiên, đã từng có nhiều người nữ hoàn thành một cách đầy hiệu quả vai trò Nhà Tiên Tri, Lãnh Đạo thuộc linh của mình trong Hội Thánh sơ kỳ cũng như trong thời hiện nay. Vấn đề được bàn cãi không phải là người nữ có đủ tài năng, hiệu quả trong việc làm Giáo Sư, Lãnh Đạo hay không mà là liệu họ có thẩm quyền trên người nam hay không. IV.4 Một lần nữa, hoàn toàn đồng ý rằng đã có, hiện có, và sẽ còn có những người nữ hiệu quả trong vai trò Nhà Lãnh Đạo. Tuy nhiên, lập luận theo sự thành công của những người nữ sử dụng vai trò lãnh đạo thuộc linh của người nam là nhấn mạnh cái thực dụng mà làm ngơ cái thực chất. Đức Chúa Trời có thể ban phước cho các mục vụ của Ngài bất chấp sự tiếu sót của người thi hành các mục vụ ấy, và Ngài ban phước như thế thì không có nghĩa là vì người thi hành mục vụ mà Ngài ban phước. IV.5 Cho rằng người ta vốn được định sẵn trên phương diện di truyền để thi hành các sự hầu việc nhất định nào đó không có nghĩa là làm mất giá của ai hay chủ trương một chế độ giai trật. Trên phương diện di truyền học, ai cũng biết rằng người nam đã không được chuẩn bị để mang thai, sinh con. Tuy vậy, một sự nhận thức như thế không phải là làm mất giá của người nam. Một sự nhận thức như thế chỉ là một sự khẳng định rằng Đức Chúa Trời đã không giao vai trò mang thai, sinh con cho người nam mà thôi. V. QUAN ĐIỂM BỔ SUNG V.1 Chủ Trương Kinh Thánh dạy cho biết rằng người nam và người nữ tương đương với nhau về tính hữu ích, chân giá trị, và trách nhiệm trước mặt Đức Chúa Trời (cả hai đều đã được tạo dựng tương đương). Kinh Thánh cũng dạy rằng người nam và người nữ có các vai trò khác nhau trong xã hội, gia đình và Hội Thánh. Các vai trò ấy không thể được nhìn nhận theo cách ganh đua mà là trong tinh thần bổ trợ lẫn nhau. Những Người Ủng Hộ: Wayne Grudem, John Piper, Douglas Moo, Charles Swindoll, John MacArthur. V.2 Bênh Vực a. Kinh Thánh minh thị chức phận lãnh đạo của người nam ngay từ buổi ban đầu của cuộc sáng tạo - Ađam đã đặt tên cho các loài thú vật (Sáng. 2:20). - Ađam đã đặt tên cho Êva (Sáng. 2:23). - Sau Cuộc Sa Ngã, Đức Chúa Trời đã đến với Ađam trước nhất (Sáng. 2:9). - Không hề có người nữ nào làm Thầy Tế Lễ cả. - Các Quan Thẩm Phán được Đức Chúa Trời lập đều là người nam cả. - Các Sứ Đồ của Đức Chúa Jêsus đều toàn là người nam. - Các chức danh Giám Mục/Trưởng Lão/Mục Sư đều là những chức danh giống đực, và được nhắm đến người nam (1Ti. 3:2; Tít1:6). b. Êva đã được tạo dựng như một người để bổ khuyết cho hoàn hảo. Chưa hoàn hảo có nghĩa là còn khiếm khuyết ở đâu đó. Ađam có khiếm khuyết ở những điểm nhất định nào đó cho nên Đức Chúa Trời đã phải phán: “Loài người ở một mình thì không tốt” (Sáng. 2:18). Êva đã được tạo dựng để bổ khuyết những gì còn khiếm khuyết cho hoàn hảo. Cần nên nhận thức rõ rằng Êva không phải chỉ đơn thuần là một nổ lực thứ hai để làm cho hoàn hảo. Êva đã được tạo dựng với những nét tính cách mà Ađam không có. Tương tự, Ađam đã được tạo dựng với những nét tính cách mà Êva không có. Họ đã được tạo dựng để phụ bổ lẫn nhau. Vì vậy, sự khác biệt trong vai trò là điều thiết yếu để nhân loại có thể trở nên hoàn chỉnh. c. Sứ Đồ PhaoLô đã phải liên tục nói với những người nữ không hiểu nổi - hoặc với những người hoàn toàn có ý loạn nghịch - về tầm quan trọng của vai trò người nữ của họ. Những người như thế đã làm mờ mất các vai trò đã được Đức Chúa Trời lập và ra sức chiếm đoạt vai trò của người nam. Sự loạn nghịch ấy chính là một phần của sự rủa sả. Sáng. 3:16 “Ngài phán cùng người nữ rằng: Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi.” 1Ti. 2:12-15 “12Ta không cho phép đàn bà dạy dỗ, cũng không được cầm quyền trên đàn ông; nhưng phải ở yên lặng. 13Vì Ađam được dựng nên trước nhứt, rồi mới tới Êva. 14Lại không phải Ađam bị dỗ dành, bèn là người đàn bà bị dỗ dành mà sa vào tội lỗi. 15Dầu vậy, nếu đàn bà lấy đức hạnh mà bền đỗ trong đức tin, trong sự yêu thương, và trong sự nên thánh, thì sẽ nhân đẻ con mà được cứu rỗi.” 1Cô. 14:34-35 “34Đàn bà phải nín lặng trong đám hội của anh em: Họ không có phép nói tại nơi đó, nhưng phải phục tùng cũng như Luật Pháp dạy. 35Nhược bằng họ muốn học khôn điều gì, thì mỗi người trong đám hội phải hỏi chồng mình ở nhà; bởi vì đàn bà nói lên trong Hội Thánh là không hiệp lẽ.” 1Cô. 11:3 “Dầu vậy, tôi muốn anh em biết Đấng Christ là Đầu mọi người; người đàn ông là đầu người đàn bà; và Đức Chúa Trời là Đầu của Đấng Christ.” Côl. 3:18 “Hỡi người làm vợ, hãy vâng phục chồng mình, y như điều đó theo Chúa đáng phải nên vậy.” Tít 2:5 “[Phải dạy đàn bà] có nết na, trinh chánh, trông nom việc nhà, lại biết ở lành, vâng phục chồng mình, hầu cho Đạo của Đức Chúa Trời khỏi bị một lời chê bai nào.” d. Các Trước Giả Tân Ước đã phải thường xuyên đề cập đến những người nam nào lạm dụng vai trò lãnh đạo của mình. Đây cũng là một phần của sự rủa sả. tuy nhiên, sự hướng dẫn đối với người nam không phải là bảo họ thôi đừng lãnh đạo nữa mà là dạy họ phải lãnh đạo theo một cách thế nhạy bén, đầy khích lệ và tình yêu thương. Sáng. 3:16 “Ngài phán cùng người nữ rằng: Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi” Êph. 5:25a, 28, 33a “25Hỡi người làm chồng, hãy yêu vợ mình, như Đấng Christ đã yêu Hội Thánh, phó chính mình vì Hội Thánh… 28Cũng một thể ấy, chồng phải yêu vợ như chính thân mình. Ai yêu vợ mình thì yêu chính mình vậy… 33Thế thì mỗi người trong anh em phải yêu vợ mình như mình, còn vợ thì phải kính chồng” 1Phi. 3:7 “Hỡi người làm chồng, hãy tỏ điều khôn ngoan ra trong sự ăn ở với vợ mình, như là với giống yếu đuối hơn; vì họ sẽ cùng anh em hưởng phước sự sống, nên phải kính nể họ, hầu cho không điều gì làm rối loạn sự cầu nguyện của anh em” Côl. 3:19 “Hỡi kẻ làm chồng, hãy yêu vợ mình, chớ hề ở cay nghiệt với người” e. Phần lớn các Hội Thánh trong lịch sử đều tôn trọng Quan Điểm Bổ Sung. V.3 Phản Bác a. Các minh thị trong Kinh Thánh về chức phận lãnh đạo của người nam được trung dẫn có tính chất miêu tả (descriptive), thiếu tính chất minh định (prescriptive). Nói cách khác, chức phận người nam lãnh đạo - cũng giống với chế độ nô lệ - là một hiện tượng văn hóa mà Đức Chúa Trời chưa muốn phá bỏ đi vào thời điểm ấy. b. Mặc dầu phải công nhận rằng người nữ đã được tạo dựng để làm cho hoàn chỉnh nhân loại (chứ không phải chỉ riêng cho người nam) nhưng điều ấy không đòi hỏi Đức Chúa Trời phải thiết lập chế độ giai trật. Chế độ người nam lãnh đạo, chế độ thống trị, bất cứ tên gọi nào tương tự như thế, đều là sản phẩm của Cuộc Sa Ngã chứ không phải của Cuộc Sáng Tạo. c. Những điều Sứ Đồ PhaoLô viết là viết cho những tình huống văn hóa cụ thể không cần phải có một sự áp dụng phổ quát. Chẳng hạn, PhaoLô viết cho Timôthê ở Êphêsô là nơi mà trước đó có lắm người nữ vốn là gái hầu của tôn giáo (cult prostitutes), vốn thiếu học thức (điển hình là họ chỉ được học lóm các tri thức từ chồng mình mà thôi), mà lại muốn “nhảy” lên bục giảng (“fill the pulpit”). PhaoLô dùng hình ảnh Êva để chỉ cho thấy tính chất tai hại của các tri thức “học lóm” (secondhand information). PhaoLô không sử dụng sự kiện đã xảy ra ở Vườn Eđen làm một nguyên lý phổ quát. Vì thế, mệnh lệnh của Sứ Đồ PhaoLô ở đây chỉ thuần túy là một mệnh lệnh văn hóa. d. Các đoạn văn Kinh Thánh Tân Ước này không qui định người làm chồng phải cai quản như thế nào, mà chỉ là hướng dẫn họ phải quan hệ như thế nào mà thôi. Ý chính của sự dạy dỗ ở đây là người làm chồng phải yêu vợ mình chứ không được cai trị. e. Sự thật đáng buồn là theo dòng lịch sử, Hội Thánh đã đẻ ra các mối quan hệ lạm dụng từ khuynh hướng tội lỗi là muốn cai trị của người nam. Cơ Đốc Nhân nói xấu người Do Thái, họ phê phán chế độ nô lệ, và họ ép người ta phải biến cải niềm tin bằng Tòa Án Dị Giáo (Inquisitions). Bất cứ sự kháng nghị nào căn cứ vào lịch sử cũng đều đem lại rất ít lợi thế mà có khi còn nghịch lại với Quan Điểm Bổ Sung nữa. VI. CÁC DỊ BIỆT VỀ CƠ THỂ HỌC THEO GIỚI TÍNH VI.1 Người Nữ - Có nhiều mỡ dự trữ hơn, dự trữ được nhiều năng lượng hơn. - Có nhiều bạch cầu và hạch bạch huyết B và T hơn (giúp có thể chống lại viêm, nhiễm nhanh hơn). - Nhạy cảm hơn nhờ hệ thống cảm giác nhạy đáp ứng: Lông/tóc mảnh hơn; có tri giác sắc bén hơn cả về nghe, nếm, sờ, và ngửi. - Có thể phân biệt màu sắc giỏi hơn (đặc biệt là các màu ở hai đầu quan phổ). - Có ít testosterone hơn (nên có thể kiên nhẫn hơn, có thể ở với người trong gia đình lâu hơn). - Tiếng trẻ khóc có thể dấy lên trong họ một sự đáp ứng máy móc ngay. - Sản sinh ra nhiều cortisol hơn trong khi trải qua những tình huống căng thẳng lâu (Cortisol làm giảm chất serotonin là chất khiến cho người ta cảm thấy chán nản) VI.2 Người Nam - Tỷ lệ trao đổi chất cao hơn người nữ 10%. - Có khối lượng cơ nhiều hơn người nữ 50%. - Có nhiều tuyến mồ hôi hơn giúp làm giảm nhiệt nhanh hơn. - Có lượng hồng cầu nhiều hơn người nữ 10% (giúp vết thương được lành nhanh hơn). - Sau tuổi dậy thì, có lượng testosterone cao hơn ở người nữ 15 lần (xốc xáo hơn, tích cực trong dục tính, thích các môn thể thao mang tính ganh đua, sớm rời khỏi gia đình hơn, có khuynh hướng thích tranh cãi - Sản sinh ra nhiều testosterone khi trải qua những lúc căng thẳng giúp chịu đựng cao, nhưng cũng có nhiều khả năng tăng huyết áp hơn. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“CÁC LUẬN ĐIỂM VỀ CHÍ TỰ DO” (Sáng. 1:27; 2:7) “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ… Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.” (Sáng. 1:27; 2:7) “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ… Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.”(Sáng. 1:27; 2:7) Kinh Thánh phán tỏ tường rằng “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:27) nhưng không phải ai cũng tin như vậy và có cùng một cách hiểu giống nhau về cấu hình của con người… I. BA LẬP TRƯỜNG KHÁC NHAU Chúng ta phải hiểu như thế nào về vấn đề chí tự do? III.1 Thuyết Định Mệnh (Fatalism) Thuyết Định Mệnh tin rằng đời sống của một người cùng với tất cả mọi sự chọn lựa của người ấy hoàn toàn là kết quả không thể thay đổi được của một chuỗi tương tác vô tận của các nguyên nhân và kết quả. III.2 Thuyết Tương Hợp (Compatibilism) Thuyết Tương Hợp tin rằng hành vi của một người là tự do và được qui định bởi tính cách và nguyện vọng riêng của người ấy. III.3 Thuyết Phóng Túng (Libertarianism) Thuyết Phóng Túng tin rằng hành vi của một người không phải vì bất cứ sự cưỡng buộc nào cả (Thuyết này cũng còn được gọi là Thuyết Bất Định, Indeterminalism). Tác nhân của một hành vi là “nguyên nhân ban đầu” của kết quả của hành vi ấy. II. NHỮNG ĐIỀU KHÔNG ỔN TRONG THUYẾT TƯƠNG HỢP II.1 Khó có thể nghĩ rằng hành vi của một người có thể vừa tự do, vừa bị qui định. II.2 Tại sao Đức Chúa Trời vẫn còn có thể bắt lỗi người ta khi mà Ngài là nguyên nhân chung nhất đặt con người trong những hoàn cảnh qui định cho sự chọn lựa của họ? III. NHỮNG ĐIỀU KHÔNG ỔN TRONG THUYẾT PHÓNG TÚNG III.1 Nghe ra có vẻ hay nhưng Kinh Thánh chưa bao giờ bày tỏ - một cách dứt khoát hay một cách hoàn toàn - về Ân Điển Hỗ Trợ. III.2 Nếu ý chí của một người không chịu chi phối bởi thiên hướng bẩm sinh hoặc ảnh hưởng ngoại lai thì hóa ra ý chí người ấy được hoàn toàn tùy tiện. Chọn lựa tùy tiện có nghĩa là không được thực sự tự do. III.3 Kinh Thánh cho biết rằng sự chọn lựa của mỗi người đều bị ảnh hưởng bởi sự chọn lựa của những người khác. IV. CHÍ TỰ DO: MINH HỌA CHO CÁC THUYẾT IV.1 Chí Tự Do: Thuyết Phóng Túng IV.2 Chí Tự Do: Thuyết Pelagianism Phục. 5:9 “Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó, và cũng đừng hầu việc chúng nó; vì Ta là Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, tức là Đức Chúa Trời kỵ tà, hễ ai ghét Ta, Ta sẽ nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba, bốn đời.” Mác 9:42 “Nhưng hễ ai làm cho một trong những đứa nhỏ nầy đã tin, phải sa vào tội lỗi, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn.” IV.3 Chí Tự Do: Thuyết Arminianism IV.4 Chí Tự Do: Thuyết Augustianism V. CHÍ TỰ DO: CÓ HAY KHÔNG? “Có” và “Không” V.1 “Không”, nếu như quí vị quan niệm rằng chúng ta có một loại tự do phóng túng, tức sự tự do để chọn lựa ngược lại với bản chất của chúng ta (Augustine gọi đó là “sự tùy tiện”, liberty). V.2 “Có” nếu như quí vị quan niệm rằng chúng ta sẽ luôn luôn được tự do để lựa chọn thể theo nguyện vọng lớn hơn hết của chúng ta. Chúng ta bị cầm buộc trong các khuynh hướng của bản chất người của chúng ta đến mức chúng ta sẽ không bao giờ chọn ngược lại điều ấy được. VI. CHÍ TỰ DO: TÓM TẮT VI.1 Ý chí của con người là tự do theo nghĩa là con người được tự do làm theo những gì mình có thể làm. Nói cách khác, ý chí tự do của con người phụ thuộc bởi năng lực của con người VI.2 Con người có một năng lực tự nhiên để thực hiện các sự chọn lựa nhưng thiếu năng lực để thực hiện các sự chọn lựa hợp ý Đức Chúa Trời. VI.3 Con người không thể tự thân thực hiện bất cứ một sự đến gần Đức Chúa Trời nào cả vì ý chí của họ bị ở dưới sự câu thúc và sự hằn học nghịch lại Đức Chúa Trời. Gi.6:44 “Ví bằng Cha, là Đấng sai Ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng Ta, và Ta sẽ làm cho người đó được sống lại nơi ngày sau rốt.” Gi. 8:34-36 “34Đức Chú Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật Ta nói cùng các ngươi, ai phạm tội lỗi là tôi mọi của tội lỗi. 35Vả, tôi mọi không ở luôn trong nhà, mà Con thì ở đó luôn. 36Vậy nếu Con buông tha các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do.” Rô. 6:16-23 “16Anh em há chẳng biết rằng nếu anh em đã nộp mình làm tôi mọi đặng vâng phục kẻ nào, thì là tôi mọi của kẻ mình vâng phục, hoặc của tội lỗi đến sự chết, hoặc của sự vâng phục để được nên công bình hay sao? 17Nhưng, tạ ơn Đức Chúa Trời, vì sau khi anh em làm tôi mọi tội lỗi, thì đã từ lòng vâng phục đạo lý là sự đã ban làm mực thước cho mình! 18Vậy, anh em đã được buông tha khỏi tội lỗi, trở nên tôi mọi của sự công bình rồi. 19Tôi nói theo cách loài người, vì xác thịt của anh em là yếu đuối. Vậy, anh em từng đặt chi thể mình làm tôi sự ô uế gian ác đặng phạm tội ác thể nào, thì bây giờ, hãy đặt chi thể mình làm tôi sự công bình đặng làm nên thánh cũng thể ấy. 20Vả, khi anh em còn làm tôi mọi tội lỗi, thì đối với sự công bình anh em được tự do. 21Thế thì anh em đã được kết quả gì? Ấy là quả mà anh em hiện nay đương hổ thẹn; vì sự cuối cùng của những điều đó tức là sự chết. 22Nhưng bây giờ đã được buông tha khỏi tội lỗi và trở nên tôi mọi của Đức Chúa Trời rồi, thì anh em được lấy sự nên thánh làm kết quả, và sự sống đời đời làm cuối cùng. 23Vì tiền công của tội lỗi là sự chết; nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta.” Lu. 6:45 “Người lành bởi lòng chứa điều thiện mà phát ra điều thiện, kẻ dữ bởi lòng chứa điều ác mà phát ra điều ác; vì do sự đầy dẫy trong lòng mà miệng nói ra.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“LUẬN VỀ NGUYÊN TỘI” (Sáng. 1:27; 2:7) “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ… Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.” (Sáng. 1:27; 2:7) Kinh Thánh phán tỏ tường rằng “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:27) nhưng không phải ai cũng tin như vậy và có cùng một cách hiểu giống nhau về nguyên tội… I. NGUYÊN TỘI: THUYẾT PELAGIANISM I.1 Thuyết Pelagianism: Các Điểm Chính a. Vấn Đề Nguyên Tội b. Vấn Đề Ý Chí Tự Do I.2 Thuyết Pelagianism: Đặt Vấn Đề - Tấm lòng con người có tốt không? - Có thể nào người ta sống mà không phạm tội hay không? - Tội của Ađam đã ảnh hưởng trên dòng dõi nhân loại như thế nào? - Có phải Đức Chúa Trời kể tội của người này cho người kia hay không? I.3 Thuyết Pelagianism: Nguyên Tội Là Gì a. Sự Ngăn Cấm Của Đức Chúa Trời - Hãy đọc Sáng. 2:8-9, 15-16 Con người đã được tạo dựng với một khả năng theo ý chí để vâng lời và tôn kính Đấng Sáng Tạo của mình. Chính từ chỗ đó mà sự thờ phượng và tình yêu thương của con người đối với Đức Chúa Trời mới giàu ý nghĩa. Sự diễn đạt lòng tận hiến yêu thương và trung tín đối với Đức Chúa Trời phải là một hành vi của con người trong trạng thái đầy trọn của mình. b. Sự Vi Phạm Của Con Người - Hãy đọc Sáng. 3:1-6 Chỉ có duy nhất một sự giới hạn được đặt ra cho con người và đó là cơ hội để con người bảy tỏ sự tận hiến trung tín đối với Đức Chúa Trời. Con người đã được cảnh báo trước về các hậu quả của việc không vâng theo lời truyền bảo của Đức Chúa Trời khi con người được ban cho sự tự do hưởng các thứ cây trong vườn, ngoại trừ chỉ duy nhất một cây mà thôi. Tại đây, trạng thái thánh khiết tiềm ẩn (thụ động) của con người chịu thử thách bởi sự cám dỗ của Satan. Đây là một hình thái cám dỗ con người nghi vấn về tính chân thật của Lời Đức Chúa Trời, về tính trong sạch của động cơ thúc đẩy của Đức Chúa Trời, và về mục đích của việc tạo dựng con người (cho sự đẹp ý và vinh hiển của chỉ duy nhất Đức Chúa Trời). c. Án Phạt Của Đức Chúa Tời Dành Cho Con Người - Hãy đọc Sáng. 3:7-24 Hậu quả là con người đã rơi từ trạng thái vô tội xuống tình trạng mắc tội. Từ lúc ấy trở đi, con người đã thành ra mắc tội chứ không còn vô tội trong bản chất nữa. Động hướng (disposition) không còn hướng về Đức Chúa Trời nữa mà, cũng giống với Satan, trở thành con tin của một đời sống hướng ngã (self-centered) và kiêu ngạo. Bởi vậy, con người đã chuyển từ chỗ thờ phượng Đấng Sáng Tạo sang chỗ thờ phượng vật thọ tạo. Từ lúc ấy, Hình Ảnh Thiên Thượng trong con người đã bị làm cho xấu và méo mó đi. Con người đã bị mất mối liên thông với Đấng Sáng Tạo mà đã từng một thời họ được vui hưởng; họ phải kinh qua sự phân cách với Đức Chúa Trời và từng trải nỗi buồn trong sâu thẳm của sự suy đồi. Không những Hình Ảnh Thiên Thượng trong con người bị làm cho xấu đi mà, từ đó, mọi tạo vật đều phải chịu sự rủa sả như là hậu quả của tội lỗi. Sự hư xấu lan tỏa không phải chỉ trong mối quan hệ giữa con người với Đấng Sáng Tạo của mình mà còn đến cả trong mối quan hệ hôn nhân của họ nữa. Mối quan hệ giữa chồng với vợ của Ađam và Êva là một sự phản ánh mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo với tạo vật của Ngài. Ađam đã từng là người cai quản yêu thương đối với gia đình của mình và Êva đã đáp ứng Ađam trong tinh thần vâng phục, cũng giống như nhân loại phải đáp ứng Đấng Sáng Tạo của mình trong tinh thần vâng phục. Mối quan hệ hôn nhân ấy phản ánh các hậu quả của sự suy đồi và của dự hướng mới, sa ngã của con người đối với Đức Chúa Trời. Ađam đã bị xui khiến một cách tội lỗi để làm một người cai quản bất trung, thiếu tình yêu thưong, đầy tinh thần thống trị đối với gia đình trong khi Êva bị xui cho trở nên đề kháng đối với quyền lãnh đạo của chồng mình trong một tinh thần không chịu vâng phục. Sáng. 3:17-19 nói về các ảnh hưởng sâu rộng của Cuộc Sa Ngã và sự đoán phạt xảy ra sau đó. Sự rủa sả trên các loài thọ tạo có thể đem lại đau đớn, thống khổ cho nhân loại dưới các hình thức của thiên tai, suy tàn sinh thái, bệnh tật, và sự xói mòn ngày càng gia tăng mà vốn ban đầu đã được Đức Chúa Trời tạo dựng trong một trạng thái tốt đẹp hoàn toàn. Mọi loài thọ tạo, từ con người cho đến tất cả những gì ở chung quanh, vốn vẫn thở than trong thống khổ, mong đợi một sự cứu chuộc trong tương lai (Rô. 8:18-23, 2Ti. 3:1-9). Con người, trong bản chất, lúc bấy giờ đã là tội nhân. Năng lực phân biệt thuộc linh của con người đã mất, và ở trong một tâm trí tối tăm, và tâm thế của con người bị khắc họa bởi các xu hướng hoặc động cơ tà vạy (Giê. 17:9-10, Mác 7:20-23). II. KHÁI NIỆM VÀ NỘI HÀM - Nguyên Tội (Original Sin): Một từ liệu có nghĩa rộng chỉ về các hiệu lực mà tội lỗi đầu tiên gây ra trên nhân loại. - Tội Được Qui (Imputed Sin): Nói riêng về tình trạng có tội, tức sự định tội, của Nguyên Tội được qui kết cho nhân loại (cũng còn được gọi là “Original Guilt”, “nguyên tội”) - Tội Được Lưu Hậu (Inherited Sin): Nói riêng về sự lưu hậu của bản chất tội lỗi giữa vòng loài người (Cũng còn được gọi là “original corruption”, “original pollution”, “sinful nature”) - Kỷ Tội (Personal Sin): Nói riêng về các tội lỗi mà một cá nhân mắc phải trong đời sống mình. III. NGUYÊN TỘI III. Nguyên Tội: Các Quan Niệm Khác Nhau III.1 Thuyết Pelagianism III.2 Thuyết Augustinianism III.3 Thuyết Arminianism IV. Ý CHÍ CON NGƯỜI: ẢNH HƯỞNG CỦA CUỘC SA BẠI NGUYÊN THỦY TRÊN Ý CHÍ CON NGƯỜI IV.1 Thuyết Của Pelagius (Pelagianism) Con người vốn tốt. Cuộc Sa Ngã không khiến bất cứ ai bị định tội cả ngoài Ađam. Thiên hướng của ý chí của con người cũng không bị ảnh hưởng gì hết. Mỗi người đều được sinh ra giống như Ađam, có cùng một loại năng lực để chọn lựa giữa Thiện và Ác. Con người phạm tội chỉ vì cớ gương xấu bắt đầu từ của Ađam mà thôi. Người Khởi Xướng: Pelagius (Vk. 350-418), tu sĩ người Anh. Người ủng Hộ: Các nhà hoạt động Cơ Đốc và xã hội teo tư tưởng phóng túng. Bị Lên Án: Giáo Hội Nghị ở Orange. IV.1 Sự Biện Hộ Cho Thuyết Của Pelagius (Pelagianism) a. Đức Chúa Trời không bắt người ta phải chịu trách nhiệm về tội của người khác. Giê. 31:29-30 “29Trong những ngày đó, người ta sẽ không còn nói: Ông cha ăn trái nho chua mà con cháu phải ghê răng. 30Nhưng mỗi người sẽ chết vì sự gian ác mình; hễ ai ăn trái nho chua, thì nấy phải ghê răng vậy” Êx. 18:19-20 “19Các ngươi còn nói rằng: Làm sao đứa con không mang sự gian ác của cha nó? Ấy là đứa con đã làm theo Luật Pháp và hiệp với lẽ thật; ấy là nó đã giữ hết luật lệ Ta và làm theo; chắc thật nó sẽ sống. 20Linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết. Con sẽ không mang sự gian ác của cha, và cha không mang sự gian ác của con. Sự công bình của người công bình sẽ được kể cho mình, sự dữ của kẻ dữ sẽ chất trên mình” b. Nếu sự hư hoại do tội lỗi được lưu hậu cho mọi người kể từ thời Ađam, như vậy người ta phải có một thiên hướng vốn có là phản đối rằng họ thực sự được tự do. Vậy tại sao Đức Chúa Trời lại còn đòi hỏi và mong mỏi người ta phải làm những điều mà họ không sao làm được? Kinh Thánh bày tỏ cho thấy rất rõ là con người có một ý chí tự do để có thể chọn hoặc Thiện hoặc Ác mà không hề bị thiên hướng về điều nào hết. Hãy đọc Phục. 30:15-20 V. NGUYÊN TỘI: THUYẾT AUGUSTINIANISM & THUYẾT ARMINIANISM V.1 Thuyết Của Augustine (Augustinianism) Con người vốn đã suy đồi. Cuộc Sa Ngã đem lại sự định tội trên tất cả mọi người. Đồng thời, xu thế của ý chí con người cũng hoàn toàn bị suy đồi và xu hướng về sự Ác. Con người có ý chí tự do nhưng ý chí ấy bị cai trị bởi bản chất tội lỗi. Do đó, con người có tội vì họ là tội nhân. Người khởi xướng: Augustine (354-430), Giám Mục ở Hippo. Người ủng hộ: Gregory, Anselm, Luther, Calvin, Jonathan Edwards, R.C. Sproul, Charles Ryrie. V.2 Tuyên Xưng Wesminster Chương VI: Về Cuộc Sa Ngã Của Nhân Loại, Về Tội Lỗi, Và Về Sự Đoán Phạt Đối Với Tội Lỗi 1. Thỉ tổ của nhân loại, bị quyến dụ bởi sự ranh mãnh và cám dỗ của Satan, đã phạm tội trong việc ăn trái cấm. Tội lỗi của họ được Đức Chúa Trời để cho xảy ra theo ý định trước khôn ngoan và thánh khiết của Ngài, có mục đích phù hợp theo sự vinh hiển của Ngài. 2. Với tội lỗi này, thỉ tổ của loài người đã bị lạc khỏi sự công nghĩa ban đầu và mối thông công nguyên thủy với Đức Chúa Trời, trở nên chết trong tội lỗi và hoàn toàn bị ô nhiễm trong tất cả các bộ phận và cơ năng của “thân” và “hồn”. 3. Họ là thỉ tổ của cả nhân loại, lỗi của tội này đã được qui kết (cho hậu thế); và cùng một bản chất đã bị hư hoại, một sự chết trong tội lỗi đã được lưu hậu cho hậu thế xuất phát từ họ mà có. 4. Từ sự hư hoại nguyên thủy này chúng ta không còn sẵn lòng, không có năng lực, và bị làm cho đối nghịch với sự Thiện, và hoàn toàn xu hướng về sự Ác, cứ mãi trượt dài trong sự quá phạm của mình. 5. Sự hư hoại trong bản chất này, suốt trong đời này, cứ mãi duy trì trong tất cả những ai được sinh ra trên đời; và mặc dầu bản chất hư hoại ấy - qua Đức Chúa Jêsus - đã được tha thứ, đã bị làm cho chết, nhưng cả bản chất ấy lẫn động cơ xấu xuất phát từ bản chất ấy là tội lỗi một cách đúng nghĩa và thực tế. 6. Mọi tội - cả Nguyên Tội lẫn Kỷ Tội - đều là sự vi phạm đối với Luật Pháp công bình của Đức Chúa Trời; hơn thế nữa còn khiến cho tội nhân ở trong tình trạng mắc lỗi, do đó mà họ phải chịu sự thịnh nộ của Đức Chúa Trời, sự rủa sả của Luật Pháp, và phải chịu sự chết, cùng với mọi loại khốn đốn thuộc linh tạm thời cũng như đời đời. V.3 Sự Biện Hộ Cho Thuyết Của Augustine (Augustinianism) a. Kinh Thánh hậu thuẫn cho sự nhận thức rằng chúng ta thừa hưởng một bản chất đã bị hư hoại từ cha mẹ và tất cả mọi người đều phải chết trong bản chất ấy. Sáng. 2:17 “Nhưng về cây biết điều Thiện và điều Ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết” Hê. 9:27 “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét” b. Kinh Thánh hậu thuẫn cho sự nhận thức rằng chúng ta thừa hưởng một bản chất đã bị hư hoại từ cha mẹ và trong bản chất ấy tất cả mọi người đều là tội nhân từ khi mới sinh ra. Thi. 51:5 “Kìa, tôi sanh ra trong sự gian ác,_Mẹ tôi đã hoài thai tôi trong tội lỗi” Giê. 17:9 “Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và là rất xấu xa: Ai có thể biết được?” Gi. 3:3 “Đức Chúa Jêsus cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời” Êph. 2:1-3 “1Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình, 2đều là những sự anh em xưa đã học đòi, theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không trung, tức là thần hiện đang hành động trong các con bạn nghịch. 3Chúng ta hết thảy cũng đều ở trong số ấy, trước kia sống theo tư dục xác thịt mình, làm trọn các sự ham mê của xác thịt và ý tưởng chúng ta, tự nhiên làm con của sự thạnh nộ, cũng như mọi người khác” Rô. 5:19 “Vì, như bởi sự không vâng phục của một người mà mọi người khác đều thành ra kẻ có tội, thì cũng một lẽ ấy, bởi sự vâng phục của một người mà mọi người khác đều sẽ thành ra công bình” c. Nếu sự khuynh hướng của ý chí chưa bị ảnh hưởng, và nếu có một cơ hội ngang nhau để chọn lựa giữa Thiện và Ác, tại sao tất cả mọi người đều cứ phạm tội? Cơ hội chọn lựa có sẵn đó nhưng chưa hề có người thắng cuộc. Rô. 3:23 “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” Sáng. 6:5 “Đức Giêhôva thấy sự gian ác của loài người trên mặt đất rất nhiều, và các ý tưởng của lòng họ chỉ là xấu luôn” d. Kinh Thánh hậu thuẫn cho nhận thức rằng chúng ta đã thừa thọ sự ô tội từ Ađam và đã bị định tội ngay từ trước khi chưa mắc một Kỷ Tội nào cả. Hãy đọc Rô. 5:12-18 VI. THUYẾT CỦA ARMINIUS (ARMINIANISM) Con người vốn đã suy đồi. Tuy nhiên, Cuộc Sa Ngã đã không hề đem sự định tội đến trên bất cứ ai ngoại trừ Ađam. Tội của Ađam chỉ được qui kết trên chúng ta khi nào chúng ta mắc Kỷ Tội là điều khiến cho thấy chúng ta cũng ở trong tình trạng như Ađam. Sự khuynh hướng của ý chí của con người bị suy đồi khiến cho con người có một sự khuynh hướng về tội lỗi, nhưng Đức Chúa Trời ban cho con người Ân Điển Hỗ Trợ (prevenient grace) để chỉnh lý khuynh hướng tội lỗi. Con người ngày nay cũng giống với Ađam ngày xưa trong vườn Eđen, có khả năng lựa chọn giữa Thiện và Ác. Người khởi xướng: Arminius (Vk.1560-1609) Người ủng hộ: Giáo Hội Công Giáo Lamã, Erasmus, Hội Thánh Giám Lý, “Hội Thánh Đức Chúa Trời”, phần lớn những người Ngũ Tuần. Bị lên án: Giáo Hội Nghị ở Dort (1618-1619) VII. SỰ BIỆN HỘ CHO THUYẾT CỦA AMINIUS (ARMINIANISM) VII.1 Các lý lẽ của thuyết của Pelagius có sức thuyết phục ở chỗ chúng ta không thể bị qui kết vì tội của người khác, và rằng huấn mệnh của Đức Chúa Trời bao hàm năng lực, và năng lực bao hàm quyền tự do. VII.2 Các lý lẽ của Augustine có sức thuyết phục ở chỗ tất cả chúng ta đều mắc Kỷ Tội và sự suy đồi. Phải có lý do cho điều ấy. VII.3 Cách duy nhất để làm cho hai quan điểm trên hòa hợp nhau là nhìn nhận rằng Đức Chúa Trời phải ban đủ ơn cho tất cả mọi người để chống cự lại các tác hại của sự suy đồi, phục hồi ý chí của con người, và ban năng lực cho con người đáp ứng Đức Chúa Trời trong việc cải tạo họ. VII.4 Tội của Ađam chỉ được qui kết trên người ta khi họ phạm tội trong tình trạng tương đồng với Ađam. VIII. TÓM TẮT CÁC THUYẾT CỦA PELAGIUS, AUGUSTINE, VÀ ARMINIUS VIII.1 Thuyết Pelagianism: Con người vốn trung tính và có khả năng trong việc chọn lựa giữa Thiện và Ác. VIII.2 Thuyết Augustinianism: Con người vốn xấu và không có khả năng lựa chọn điều Thiện mà thiếu Ân Điển của Đức Chúa Trời. VIII.3 Thuyết Arminianism: Con người bị suy đồi đến mức Đức Chúa Trời phải can thiệp và cung ứng Ân Điển Hỗ Trợ hầu cho con người có thể chọn được điều Thiện trở lại. IX. VẤN ĐỀ TỘI LỖI VÀ NGƯỜI CHƯA TIN Chúng ta đã nhận ra tình trạng hoàn toàn hư mất của người chưa tin (Lu. 19:9-10) Nhưng vì sao mà người chưa tin rơi vào một tình trạng hư mất đến thế? Lời Kinh Thánh dạy cho chúng ta biết tất cả mọi người đều ở trong thân phận có tội vì ba điều sau đây: IX.1 Bản Chất Tội Lỗi Được Lưu Hậu (Inherited Sin Nature) Khi Ađam phạm tội, tất cả mọi người đều đã trở nên tội nhân trong bản chất, và bản chất tội lỗi ấy được lưu hậu bởi cha mẹ của mỗi người (Sv. Sáng. 5:1-3). Hình ảnh bị làm hư của Đức Chúa Trời trong con người đã trở thành bản chất của con người. Bản chất tội lỗi là yếu tố quyết định trước xu hướng của ý chí con người là một xu hướng xa rời Đức Chúa Trời, để chăm chú vào bản ngã và tội lỗi. Từ trong bản chất, con người có một khuynh hướng bẩm sinh đối với sự níu kéo của tội lỗi. Kết quả của bản chất tội lỗi vốn có trong con người là chúng ta được sinh ra trong tình trạng chết về thuộc linh đối với Đức Chúa Trời (Rô. 5:19; Êph. 2:3; và Thi. 51:5) Liệu pháp cho bản chất tội lỗi của nhân loại là sự chết để cứu chuộc trên Thập Tự Giá để bởi đó Ngài đoán phạt tội lỗi trong xác thịt. (Gal. 5:24; Rô. 8:3-5; Êph. 2:4-6, 19; Côl. 2:11) Tất cả mọi người đều được sinh ra với một bản chất tội lỗi. IX.2 Tội Được Qui (Imputed Sin) Khi Ađam phạm tội, Đức Chúa Trời qui kết tội của Ađam cho tất cả mọi người được sinh ra theo dòng dõi của Ađam khiến cho mọi người trở nên ô tội trên phương diện Luật Pháp (Rô. 5:12-14) Hệ quả của Tội Được Qui là sự chết thuộc thể (1Cô. 15:22). Tội lỗi khiến tất cả mọi người phải ở dưới sự rủa sả của sự chết thuộc thể. Liệu pháp cho tội được qui có hai mặt: (1) Sự xưng công bình - Là sự vận động mà qua đó sự công nghĩa của Đức Chúa Jêsus được qui kết cho người tin ( 2Cô. 5:21; Rô. 4:22-25). (2) Sự phục sinh trong thân thể của Đức Chúa Jêsus bảo đảm cho sự đắc thắng đối với sự chết thuộc thể (Rô. 6:4, 1Cô. 15:12-22, 54-58) Không có Đức Chúa Jêsus thì người ta vẫn cứ phải ở dưới án phạt của tội lỗi: Sự chết thuộc thể. IX.3 Kỷ Tội (Personal Sins) Kỷ Tội của con người chứng thực cho sự định tội và sự công bình của Đức Chúa Trời trong việc Ngài kể tất cả mọi người đều là tội nhân (Rô. 3:9-18, 23; Khải. 20:11-15) Hệ quả của Kỷ Tội là sự chết thuộc linh (Êx. 18:1-4, 19-20; Rô. 6:23; Rô. 8:13) Liệu pháp cho Kỷ Tội là sự tha thứ cung ứng bởi sự rải huyết của Đức Chúa Jêsus trên Thập Tự Giá (Êph. 1:7; Côl. 2:13-15). Chỉ duy nhất tại Thập Tự Giá của Đức Chúa Jêsus vấn đề tội lỗi của nhân loại mới được giải quyết trọn vẹn cho đến đời đời (1Phi. 2:24-25). Thế nhưng Thập Tự Giá của Đức Chúa Jêsus giúp ích cho người tín hữu đến đâu trong vấn đề tội lỗi? X. VẤN ĐỀ TỘI LỖI VÀ TÍN HỮU X.1 Kỷ Tội của người tín hữu (tội lỗi quá khứ, tội lỗi hiện tại, tội lỗi tương lai) đều được tha thứ hoàn toàn (Côl. 1:14) X.2 Tội được qui của người tín hữu vốn khiến phải chịu sự chết thuộc thể đã được xử lý xong bằng Sự Phục Sinh của Đức Chúa Jêsus (Gi. 11:25-26; 1Cô. 15:20-22). X.3 Thế còn bản chất tội lỗi được thừa thọ thì sao? Mặc dầu Bản Chất Tội Lỗi Thừa Thọ đã bị định tội và đoán phạt tại Thập Tự Giá (Rô. 8:1-4) bản chất ấy vẫn còn là một bộ phận trong “thân” của con người và rồi cuối cùng sẽ bị hủy diệt đi vào lúc “thân” của người tín hữu được phục sinh và vinh hiển. Sự rủa sả đối với tội lỗi sẽ chưa được cất bỏ đi cho đến kỳ bước vào Trạng Thái Đời Đời (Sv. Khải. 22:3). Tuy nhiên, Kinh Thánh bày tỏ một số lẽ thật quan trọng có liên quan đến mối tương tác giữa người tín hữu với Bản Chất Tội Lỗi Thừa Thọ của mình: 1. Người tín hữu đã chết đối với tội lỗi. 2. Phận sự của người tín hữu là đừng phạm tội nữa. 3. Người tín hữu đã được làm cho phân cách khỏi quyền lực của bản chất con người cũ của mình dầu rằng bản chất ấy vẫn chưa bị hủy diệt. 4. Quyền năng Đức Thánh Linh có sẵn trong đời sống của người tín hữu để ban năng lực cho họ khỏi phạm tội (Rô. 6:1-14; 8: 5-14). 5. Khi người tín hữu phạm tội, mối liên hệ của họ với Đức Chúa Trời (relationship) vẫn chưa bị cắt đứt nhưng mối tương giao của họ với Ngài (fellowship) phải bị tổn hại (1Gi. 1:3-6). 6. Người tín hữu thật chẳng bao giờ cứ chìm ngập trong tội lỗi như một lối sống thường xuyên, liên tục của mình (1Gi. 3:9-10). Và mặc dầu người tín hữu phải cứ tranh chiến chống lại “xác thịt” của mình (Bản Chất Tội Lỗi Thừa Thọ, bản chất con người cũ) nhưng với Bản Chất Mới của mình người tín hữu vẫn có thể đắc thắng khi… 1. Bằng đức tin nhận thức rằng mình đã chết đối với quyền lực của tội lỗi. 2. Nương cậy vào quyền năng của Đức Thánh Linh ở cùng để kháng cự lại tội lỗi. 3. Quyết lòng bước đi bởi Thánh Linh trong việc vâng theo Lời Kinh Thánh (1Phi. 1:13-16, 2:11-12; Rô. 7:14-25; Gal. 5:13-26; Côl. 3:5-1; 2Cô. 7:1; Hê. 12:4) Một khi người tín hữu bị sa vào sự phạm tội, điều mà họ phải làm để phục hồi mối thông công với Chúa là thực lòng xưng nhận tội lỗi của mình, nhận lấy sự tha thứ của Chúa vốn đã đựoc Đức Chúa Jêsus cung ứng rồi (1Gi. 1:7-9) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“LUẬN VỀ SỰ TẠO DỰNG LINH HỒN CỦA CON NGƯỜI” (Sáng. 1:27; 2:7) “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ… Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.” (Sáng. 1:27; 2:7) ức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ… Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.”(Sáng. 1:27; 2:7) Kinh Thánh phán tỏ tường rằng “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:27) nhưng không phải ai cũng tin như vậy và có cùng một cách hiểu giống nhau về cấu hình của con người… I. SỰ TẠO DỰNG LINH HỒN: ĐẶT VẤN ĐỀ - Linh hồn đã được tạo dựng vào lúc nào? - Cha mẹ giữ vai trò nào, nếu có, trong việc tạo dựng linh hồn? - Có phải là linh hồn đã được “cài” vào thân thể của chúng ta hay không? Nếu quả thật như thế thì lúc nào? Có phải tại lúc được thai dựng hay không? Hay là sau khi đã được thai dựng? Hay là vào lúc được sinh ra? Hay là vào một lúc nào đó sau khi đã được sinh ra? - Sự tạo dựng nên linh hồn có phải là một vấn đề quan trọng không? Thi. 139:1-17 “1Hỡi Đức Giêhôva, Ngài đã dò xét tôi, và biết tôi._2Chúa biết khi tôi ngồi, lúc tôi đứng dậy;_Từ xa Chúa biết ý tưởng tôi._3Chúa xét nét nẻo đàng và sự nằm ngủ tôi,_Quen biết các đường lối tôi._4Vì lời chưa ở trên lưỡi tôi,_Kìa, hỡi Đức Giêhôva, Ngài đã biết trọn hết rồi._5Chúa bao phủ tôi phía sau và phía trước,_Đặt tay Chúa trên mình tôi…_6Sự tri thức dường ấy, thật diệu kỳ quá cho tôi,_Cao đến nỗi tôi không với kịp!_7Tôi sẽ đi đâu xa Thần Chúa?_Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Chúa?_8Nếu tôi lên trời, Chúa ở tại đó,_Ví tôi nằm dưới Âm Phủ, kìa, Chúa cũng có ở đó._9Nhược bằng tôi lấy cánh hừng đông,_Bay qua ở tại cuối cùng biển,_10Tại đó tay Chúa cũng sẽ dẫn dắt tôi._Tay hữu Chúa sẽ nắm giữ tôi._11Nếu tôi nói: Sự tối tăm chắc sẽ che khuất tôi,_Ánh sáng chung quanh tôi trở nên đêm tối,_12Thì chính sự tối tăm không giấu chi khỏi Chúa,_Ban đêm soi sáng như ban ngày,_Và sự tối tăm cũng như ánh sáng cho Chúa._13Vì chính Chúa nắn nên tâm thần tôi,_Dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi._14Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng._Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm._15Khi tôi được dựng nên trong nơi kín,_Chịu nắn nên cách xảo tại nơi thấp của đất,_Thì các xương cốt tôi không dấu được Chúa._16Mắt Chúa đã thấy thể chất vô hình của tôi;_Số các ngày định cho tôi,_Đã biên vào sổ Chúa trước khi chưa có một ngày trong các ngày ấy,_17Hỡi Đức Chúa Trời, các tư tưởng Chúa quí báu cho tôi thay!_Số các tư tưởng ấy thật lớn thay!” II. SỰ TẠO DỰNG LINH HỒN: CÁC GIẢ THUYẾT II.1 Thuyết Tiền Tại (Pre-existence Theory) Thuyết này cho rằng “hồn”/“thần” của người ta là bất tử, và vì thế, “hồn”/“thần” tiền tại đối với việc tạo dựng nên “thân”. Đức Chúa Trời được cho biết là Ngài đã tạo dựng nên mọi linh hồn khi Ngài tạo dựng trời đất. Linh hồn bị trói buộc vào thân thể như một hình phạt. Bản chất tội lỗi có thể được qui cho trạng thái hiện hữu trước đó là lúc mà người ta phạm tội. Những Người Ủng Hộ: Origen, Delitzsch, thuyết này chưa bao giờ được các hệ phái Cơ Đốc Chính Thống hậu thuẫn. II.2 Thuyết Tạo Dựng (Creation Theory) Đây là thuyết cho rằng Đức Chúa Trời đích thân tạo dựng mỗi linh hồn vào lúc một cá thể được thai dựng, và rồi đặt “hồn” vào “thân”. “Hồn” nhiễm tội không phải vì sự bất toàn trong sự tạo dựng mà là vì sự tiếp xúc với tội lỗi đã được “thân” thừa hưởng.Những Người Ủng Hộ: Grudem, Hodge, Berkhof, Calvin, những người nặng truyền thống Cải Chánh, và Công Giáo Lamã. II.3 Thuyết Thừa Kế (Traducian Theory) Xuất phát từ một từ liệu La Tinh là tradux, nghĩa là “thừa kế”, “chuyển giao”. Thuyết này cho rằng “hồn” được tạo dựng trong và với “thân” bởi cha mẹ. Mặc dầu Đức Chúa Trời vẫn cứ là Đấng Sáng Tạo tối cao của muôn vật nhưng Ngài đã sử dụng con người làm phương tiện trung gian.Những Người Ủng Hộ: Tertullian, Luther, và Jonathan Edwards III. SỰ TẠO DỰNG LINH HỒN: CÁC SỰ BIỆN BÁC III.1 Các Lý Lẽ Biện Hộ Cho Thuyết Tiền Tại (Pre-existence Theory) a. Không có một lý lẽ Kinh Thánh hay triết học nào hỗ trợ cho quan điểm này cả. b. Là kết quả tác động của Thuyết Nhị Nguyên Trí Huệ (Gnostic Dualism). III.2 Các Lý Lẽ Biện Hộ Cho Thuyết Tạo Dựng (Creation Theory) a. Sự trước thuật về cuộc sáng tạo chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên “thân” từ bụi đất, còn “hồn” thì đã được tạo dựng trực tiếp từ nơi Đức Chúa Trời.Sáng. 2:7 “Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.” b. Kinh Thánh phán cho biết thật tỏ tường rằng chính Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên “hồn”.Xa. 12:1 “Gánh nặng Lời Đức Giêhôva phán về Ysơraên. Đức Giêhôva là Đấng giương các từng trời, lập nền của đất, và tạo thần trong mình người ta, có phán như vầy.”Hê. 12:9 “Cha về phần xác sửa phạt, mà chúng ta còn kính sợ thay, huống chi Cha về phần hồn, chúng ta há chẳng nên vâng phục lắm để được sự sống sao?” c. Đức Chúa Jêsus đã từng trông giống hoàn toàn với chúng ta, tuy nhiên Ngài không nhiễm tội. Nếu Đức Chúa Trời không tạo dựng “hồn” người ta một cách riêng biệt thì “hồn” của Đức Chúa Jêsus đã không được chính Đức Chúa Trời tạo dựng mà là Mary (vì Ngài trông giống chúng ta hoàn toàn). Nếu quả như thế, “hồn” của Đức Chúa Jêsus cũng phải nhiễm tội như hồn của Mary. III.3 Các Lý Lẽ Phản Bác Thuyết Tạo Dựng (Creation Theory) a. Lập luận của Thuyết Tạo Dựng chỉ cho thấy một chỗ dịch chưa tốt trong Bản KJV. Sự trước thuật về cuộc sáng tạo không nói về sự tạo dựng “hồn”, mà là về việc ban sự sống nói chung như phần lớn các bản dịch hiện nay đang có. Cũng tương tự như vậy khi Kinh Thánh bày tỏ về việc ban sự sống cho các loài vật.Sáng. 2:7 “Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.”Sáng. 1:30“Còn các loài thú ngoài đồng, các loài chim trên trời, và các động vật khác trên mặt đất, phàm giống nào có sự sống thì Ta ban cho mọi thứ cỏ xanh đặng dùng làm đồ ăn; thì có như vậy.” b. Cách lập luận của Thuyết Tạo Dựng đi quá trớn về vấn đề “hồn” được Đức Chúa Trời trực tiếp tạo dựng. Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo Tối Cao trên mọi sự, cả sự vật chất lẫn sự phi vật chất, nhưng như thế không có nghĩa là Ngài không thể sử dụng các phương tiện trung gian trong tiến trình tạo dựng. Nếu lập luận của Thuyết Tạo Dựng là đúng, thì sẽ cũng có nghĩa là Đức Chúa Trời trực tiếp tạo dựng “thân” mà không dùng cha mẹ như là phương tiện trung gian vì Thi. 139:13-15 nói rằng Đức Chúa Trời tạo dựng nên “thân” của chúng ta.Thi. 139:13-15“13Vì chính Chúa nắn nên tâm thần tôi,_Dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi._14Tôi cảm tạ Chúa vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng._Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm._15Khi tôi được dựng nên trong nơi kín,_Chịu nắn nên cách xảo tại nơi thấp của đất,_Thì các xương cốt tôi không dấu được Chúa.” c. Rất có thể là Đức Chúa Jêsus không nhiễm Nguyên Tội vì “hồn” của Ngài được thừa thọ trực tiếp từ nơi Đức Chúa Cha. Điều này giúp cho thấy rõ hơn về sự cần yếu của sự giáng sinh đồng trinh. III.4 Các Lý Lẽ Biện Hộ Cho Thuyết Thừa Kế (Traducian Theory) a. Thuyết Thừa Kế giải thích được rõ hơn về sự kế tục Nguyên Tội và về sự lưu truyền bản chất người, cả “thân” lẫn “hồn”, xuất phát từ Ađam. Không những thế, Thuyết Thừa Kế cũng đưa ra được một sự giải thích tường tận đối với sự qui tội, đồng thời đưa ra được một căn bản cho việc hiểu được tính phổ quát của tội lỗi.Mặt khác, nếu Đức Chúa Trời tạo dựng “hồn” một cách trực tiếp, và mỗi người đều được sinh ra trong tội lỗi, cả “thân” lẫn “hồn”, vậy làm thế nào mà “hồn” , vốn được Đức Chúa Trời tạo dựng trực tiếp, trở nên nhiễm tôi? Chẳng lẽ Đức Chúa Trời đã tạo dựng một “hồn” mắc tội rồi cho nhập với một “thân” mắc tội? Vậy hóa ra Đức Chúa Trời là “tác giả” của tội lỗi chứ đâu phải người ta? b. Nếu cho rằng người ta được ban cho năng lực để tạo ra “hồn” cũng như rõ ràng là họ tạo được “thân” thì cũng không gây ra rắc rối gì. Nếu bác bỏ điều ấy tất sẽ làm giảm mất bản chất kỳ diệu của việc tạo dựng “thân” của con người.Mặt khác, cho rằng Đức Chúa Trời phải trực tiếp tạo dựng “thân”, vì cớ con người đâu có đủ quyền năng lớn đến thế,là chứng tỏ rằng các sự giảng dạy của Thuyết Trí Huệ là đúng. Thuyết Trí Huệ cho rằng có một sự tách biệt giaữ “thân” và “hồn”, họ tin rằng “hồn” quan trọng, đoan chính, và kỳ diệu hơn “thân”. III.5 Các Ý Nghĩa Tích Cực Của Thuyết Thừa Kế (Traducian Theory) a. Thuyết Thừa Kế tỏ ra không quá đáng bằng việc cho rằng “hồn” là phần duy nhất của con người được Đức Chúa Trời trực tiếp tạo dựng. b. Thuyết Thừa Kế phù hợp được với Thuyết Hợp Thể Có Điều Kiện. c. Thuyết Thừa Kế phù hợp hơn với sự hiểu biết về Nguyên Tội trong đó bảo toàn được tính liên đới của toàn nhân loại. d. Rõ ràng là mỗi con người đều là con người hoàn toàn ngay tại thời điểm được thai dựng. Nếu Đức Chúa Trời không gián tiếp tạo dựng “hồn”/“thần” qua cha mẹ, mà Ngài trực tiếp tạo dựng chúng, làm sao chúng ta biết được Ngài đặt “hồn” vào “thân” cho một người vào lúc nào? Nói cách khác, làm sao chúng ta biết được khi nào thì một “bào thai” (“thân”) trở thành một con người (có đủ “thân”, “hồn”/“thần”). - Tại lúc được thai dựng? - Vào một lúc nào đó sau khi được thai dựng? - Vào lúc được sinh ra? - Vào độ tuổi có ý thức về trách nhiệm cá nhân? IV. VỀ VẤN ĐỀ HÌNH ẢNH THIÊN THƯỢNG TRONG CON NGƯỜI (IMAGO DEI) IV.1 Hình Ảnh Thiên Thượng: Đặt Vấn Đề - Con người có được chân giá trị như là người mang Hình Ảnh Thiên Thượng hay không? - Phải chăng chỉ có loài người được mang Hình Ảnh Thiên Thượng? Còn loài vật thì sao? Loài vật có Hình Ảnh Thiên Thượng hay không? - Cuộc Sa Ngã đã đem lại sự tác động nào trên Hình Ảnh Thiên Thượng? Có phải nhân loại đã bị mất Hình Ảnh Thiên Thượng sau Cuộc Sa Ngã hay không? - Sự thật về việc loài người được tạo dựng theo hình ảnh Đức Chúa Trời tác động trên cách ứng xử của chúng ta đối với nhau như thế nào? Sáng. 1:26-27 “26Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình Ta và theo tượng Ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. 27Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” Thi. 8:3-8 “3Khi tôi nhìn xem các từng trời là công việc của ngón tay Chúa,_Mặt trăng và các ngôi sao mà Chúa đã đặt,_4Loài người là gì, mà Chúa nhớ đến?_Con loài người là chi, mà Chúa thăm viếng nó?_5Chúa làm người kém Đức Chúa Trời một chút,_Đội cho người sự vinh hiển và sang trọng._6Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm,_Khiến muôn vật phục dưới chân người:_7Cả loài chiên, loài bò,_Đến đỗi các thú rừng,_8Chim trời và cá biển,_Cùng phàm vật gì lội đi các lối biển.” Những lời này của Kinh Thánh bày tỏ cho chúng ta biết được điều gì về ý nghĩa của việc được chính Đức Chúa Trời tạo dựng theo hình ảnh của Ngài? Nói một cách vắn tắt, trong trạng thái được tạo dựng nguyên thủy, loài người phản ánh được trong một chừng mực nhất định bản chất và thuộc tính của Đức Chúa Trời. Dầu rằng trong trạng thái này loài người có một “thân” vật lý, loài người vẫn có các thuộc tính phù hợp với nhân cách, đạo đức, và tính duy linh (đời sống thuộc linh). Loài người có khả năng giao tiếp và tương tác với Đức Chúa Trời và với tha nhân ngay từ trạng thái được tạo dựng nguyên thủy.Với trạng thái uyên nguyên này, loài người có vẻ như là một thực thể “thánh thiện tiềm ẩn” (“passive holiness”) hay là “thánh thiện chưa được tôi luyện” (“untested holiness”) trong đó loài người có khả năng chọn lựa hoặc Thiện hoặc Ác. Chính một năng lực như thế giúp phân biệt loài người với tất cả các bộ phận khác trong Cuộc Sáng Tạo của Đức Chúa Trời. Năng lực này cho phép loài người chọn để hoặc kính yêu Đấng Sáng Tạo trong sự vâng lời, hoặc không kính yêu Ngài bằng sự không vâng lời. Còn có điều gì khác được hàm ý trong việc được tạo dựng theo hình ảnh Đức Chúa Trời hay không? IV.2 Hình Ảnh Thiên Thượng: Các Phương Diện - Nhân Cách (Personality): Giống với Đức Chúa Trời, mỗi người là một thực thể riêng với sự tự thức về cá nhân mình. - Tính Đời Đời (Eternality): Giống với Đức Chúa Trời, con người sẽ tồn tại cho đến đời đời. - Tính Tương Quan (Relationality): Giống với Đức Chúa Trời, con người có năng lực và sự thôi thúc đối với các mối tương giao. - Tính Duy Ý Chí (Volitionality): Giống với Đức Chúa Trời, con người có sự tự do và năng lực để thực hiện Các Khả Năng Chọn Lựa thể theo ý chí, nguyện vọng của mình. - Tính Duy Lý (Rationality): Giống với Đức Chúa Trời, con người có năng lực suy nghĩ, thẩm định, và suy gẫm đối với các khái niệm trừu tượng, chương trình cho tương lai, và về các sự kiện quá khứ, đề ra được phương hướng sống thuận lợi hơn thông qua việc giải quyết các nan đề gặp phải. - Tính Duy Linh (Spirituality): Giống với Đức Chúa Trời, con người là một thực thể có phần thuộc linh, có phần phi vật chất trong cấu trúc của mình. - Tính Hữu Thể (Physicality): Không giống với Đức Chúa Trời, con người có phần vật lý hay vật chất trong cấu trúc của mình. Tuy nhiên, con người giống với Đức Chúa Trời ở chỗ có các giác quan (dầu rằng các giác quan đến trực tiếp từ các cơ quan vật lý của “thân”, ví dụ như giác quan thấy, nghe,…). - Tính Đạo Đức (Morality): Giống Đức Chúa Trời, con người là tạo vật vốn có đạo đức, hiểu được rằng phải có thiện, ác (dầu rằng điều ấy đã đến theo hậu quả của Cuộc Sa Ngã). - Năng Lực Cai Quản (Dominionality): Giống Đức Chúa Trời, con người đã được ban cho thẩm quyền trên mọi loài tạo vật, được sử dụng mọi nguồn lực trên thế gian cho phúc lợi, sự an hưởng, và sự sinh tồn của mình. IV.3 Hình Ảnh Thiên Thượng: Ảnh Hưởng Của Cuộc Sa Bại Nguyên Thủy Các Khả Năng Chọn Lựa: a. Con người vẫn còn thủ đắc hoàn toàn Hình Ảnh Thiên Thượng (imago Dei) và chỉ làm méo mó hình ảnh ấy bằng tội lỗi cá nhân mà thôi. b. Con người đã hoàn toàn đánh mất Hình Ảnh Thiên Thượng. Hình Ảnh Thiên Thượng chỉ được phục hồi trong duy nhất Đức Chúa Jêsus mà thôi. c. Hình Ảnh Thiên Thượng vẫn còn trong con người, nhưng đã bị phai nhạt bởi tội lỗi. Hình Ảnh Thiên Thượng chỉ có thể được phục hồi trong duy nhất Đức Chúa Jêsus mà thôi. Kinh Thánh phán cho thấy rất rõ rằng Hình Ảnh Thiên Thượng vẫn còn trong con người ở một chừng mực nào đó. Hình Ảnh Thiên Thượng trong con người đã bị méo mó nhưng không mất hẳn, đã bị làm hư xấu chứ không phải bị bôi xóa hoàn toàn. (Ryrie, Grudem). Sáng. 5:1-3 “1Đây là sách chép dòng dõi của Ađam. Ngày mà Đức Chúa Trời dựng nên loài người, thì Ngài làm nên loài người giống như Đức Chúa Trời; 2Ngài dựng nên người nam cùng người nữ, ban phước cho họ, và trong ngày đã dựng nên, đặt tên là người. 3Vả, Ađam được một trăm ba mươi tuổi, sanh một con trai giống như hình tượng mình, đặt tên là Sết.” Sáng. 9:6 “Hễ kẻ nào làm đổ máu người, thì sẽ bị kẻ khác làm đổ máu lại; vì Đức Chúa Trời làm nên người như hình của Ngài.” Gia. 3:8-9 “8Nhưng cái lưỡi, không ai trị phục được nó; ấy là một vật dữ người ta không thể hãm dẹp được: Đầy dẫy những chất độc giết chết. 9Bởi cái lưỡi chúng ta khen ngợi Chúa, Cha chúng ta, và cũng bởi nó chúng ta rủa sả loài người, là loài tạo theo hình ảnh Đức Chúa Trời.” IV.4 Hình Ảnh Thiên Thượng: Một Bài Tập Quan Trọng (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
|
Author“Side-By-Side Support Archives
December 2022
Categories |