“HỢP THỂ LUẬN VỀ CẤU HÌNH NHỊ NGUYÊN CỦA CON NGƯỜI” (Sáng. 1:27; 2:7) “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ… Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.” (Sáng. 1:27; 2:7) “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ… Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.”(Sáng. 1:27; 2:7) Kinh Thánh phán tỏ tường rằng “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:27) nhưng không phải ai cũng tin như vậy và có cùng một cách hiểu giống nhau về cấu hình của con người… Kinh Thánh phán tỏ tường rằng “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:27) nhưng không phải ai cũng tin như vậy và có cùng một cách hiểu giống nhau về cấu hình của con người… I. THUYẾT HỢP THỂ CÓ ĐIỀU KIỆN I.1 Thuyết Hợp Thể Có Điều Kiện: Mô Tả Tính Đơn Nhất Có Điều Kiện Quan niệm này khẳng định cả về tính đơn nhất theo bản chất của phần vật chất và phần phi vật chất của con người, lẫn sự tồn tại của một trạng thái trung gian của sự sống. Một người không có một thân thể và một linh hồn, mà con người là một linh hồn và một thân thể, không riêng phần nào trong hai phần này có thể làm thành một con người hoàn chỉnh được. Những Người Ủng Hộ Millard Erickson, Anthony Hoekema, Charles Sherlock. I.2 Thuyết Hợp Thể Có Điều Kiện: Người Chưa Được Cứu I.3 Thuyết Hợp Thể Có Điều Kiện: Người Đã Được Cứu II. SỰ BIỆN HỘ CHO THUYẾT HỢP THỂ CÓ ĐIỀU KIỆN II.1Các lý lẽ ủng hộ cho Thuyết Nhị Tố có sức thuyết phục vì thuyết này cho rằng có một trạng thái trung gian của sự sống. Điều này xảy ra khi phần phi vật chất của con người vẫn sẽ cứ tồn tại mà không có thân thể. Do đó, Thuyết Hợp Thể Có Điều Kiện phù hợp được với các quan điểm của Thuyết Nhị Tố. Tuy nhiên, sự phân rẽ giữa các phần vật chất và phi vật chất tạo ra bởi sự chết là một sự phân rẽ không tự nhiên mà ở đó người ta mong mỏi được hiệp lại với thân thể của họ vì thân là một phần chủ chốt của nhân loại. 2Cô. 5:4 “Bởi chưng chúng ta ở trong nhà tạm nầy, than thở dưới gánh nặng, vì chúng ta không cầu cho bị lột trần, song cầu cho được mặc lại, để sự gì hay chết trong chúng ta bị sự sống nuốt đi.” 1Cô. 15:53-54 “53Vả, thể hay hư nát nầy phải mặc lấy sự không hay hư nát, và thể hay chết nầy phải mặc lấy sự không hay chết. 54Khi nào thể hay hư nát nầy mặc lấy sự không hay hư nát, thể hay chết nầy mặc lấy sự không hay chết, thì được ứng nghiệm lời Kinh Thánh rằng: Sự chết đã bị nuốt mất trong sự thắng.” II.2 Những người chưa được cứu sẽ chịu phán xét cả con người (cả phần vật chất lẫn phần phi vật chất), vì họ cũng sẽ được sống lại. Điều này cho thấy rằng “thân” là cần thiết cho tính vẹn toàn của nhân loại, trong chừng mực ấy, sự phán xét không thể tiến hành mà lại thiếu sự hiện diện của “thân”. Đa. 12:2 “Nhiều kẻ ngủ trong bụi đất sẽ thức dậy, kẻ thì để được sự sống đời đời, kẻ thì để chịu sự xấu hổ nhơ nhuốc đời đời.” Gi. 5:28–29 “28Chớ lấy điều đó làm lạ; vì giờ đến, khi mọi người ở trong mồ mả nghe tiếng Ngài mà ra khỏi; 29ai đã làm lành thì sống lại để được sống, ai đã làm dữ thì sống lại để bị xét đoán.” II.3 Các lý lẽ của Thuyết Nhất Nguyên đặt sự nhấn mạnh vào niềm hy vọng của chúng ta đối với sự phục sinh là có sức thuyết phục vì cả Tân Ước lẫn Cựu Ước đếu nhấn mạnh nhiều vào sự phục sinh và vào Vương Quốc hầu đến, chứ không phải váo bất cứ trạng thái trung gian nào của đời sống trên Thiên Đàng. 1Tê. 4:13-17 “13Hỡi anh em, chúng tôi chẳng muốn anh em không biết về phần người đã ngủ, hầu cho anh em chớ buồn rầu như người khác không có sự trông cậy. 14Vì nếu chúng ta tin Đức Chúa Jêsus đã chết và sống lại, thì cũng vậy, Đức Chúa Trời sẽ đem những kẻ ngủ trong Đức Chúa Jêsus cùng đến với Ngài. 15Vả, nầy là điều mà chúng tôi nhờ lời Chúa mà rao bảo cho anh em: Chúng ta là kẻ sống, còn ở lại cho đến kỳ Chúa đến, thì sẽ không lên trước những người đã ngủ rồi. 16Vì sẽ có tiến kêu lớn và tiếng của Thiên Sứ lớn cùng tiếng kèn của Đức Chúa Trời, thì chính mình Chúa ở trên trời giáng xuống; bấy giờ những kẻ chết trong Đấng Christ, sẽ sống lại trước hết. 17Kế đến chúng ta là kẻ sống, mà còn ở lại, sẽ cùng nhau đều được cất lên với những người ấy ở giữa đám mây, tại nơi không trung mà gặp Chúa, như vậy chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn. 18Thế thì, anh em hãy dùng lời đó mà yên ủi nhau.” Ma. 6:9-10 “9Vậy, các ngươi hãy cầu như vầy:_Lạy Cha chúng tôi ở trên trời;_Danh Cha được thánh;10Nước Cha được đến;_Ý Cha được nên, ở đất như trời!” III. Ý NGHĨA TÍCH CỰC CỦA THUYẾT HỢP THỂ CÓ ĐIỀU KIỆN III.1Kinh Thánh bày tỏ cho thấy về một bản ngã được hợp nhất để chịu phán xét cũng như để được cứu chuộc. Thân thể của các tín hữu lẫn của những người không tin đều sẽ được phục sinh, tín hữu được phục sinh cho sự vinh hiển và những người không tin được phục sinh để chịu phán xét (Gi. 5:28-29, Khải. 20:5, 11-15). III.2Khi loài người sa bại, Cuộc Sa Ngã diễn ra đối với cả con người chứ không phải chỉ trên một phần nào của con người mà thôi. III.3Khi con người được cứu chuộc, toàn bộ con người của người ấy được cứu chuộc. “Thân” của một người phải được cứu chuộc và làm cho vinh hiển vì “thân” hiện nay của con người phải chịu sự hư nát, không phù hợp để cho con người được sống đời đời. Rốt cuộc, “thân” của các tín hữu sẽ được làm cho vinh hiển và trở nên giống với thân thể vinh hiển của Đức Chúa Jêsus (Phil. 3:20-21, Rô. 8:22, 23). III.4Điều kiện vật lý của chúng ta được gắn liền một cách phức tạp với “hồn”/“thần” của chúng ta. Một khi “hồn”/“thần” của chúng ta gặp trục trặc, phải có hậu quả tức thì và trực tiếp trên “thân” của chúng ta. III.5Điều kiện của “hồn” chúng ta được gắn liền một cách phức tạp với điều kiện vật lý của chúng ta. Một khi chúng ta không được khỏe mạnh, không có được sự sinh hoạt thỏa đáng, hoặc bị suy giảm trong cơ chế hóa học của cơ thể, tất nhiên “thần”/“hồn” của chúng ta phải chịu khổ theo. IV. THUYẾT NHỊ NGUYÊN TRÍ HUỆ Thuyết Nhị Nguyên Trí Huệ (Gnostic Dualism) Cấu hình của con người là vật lý và thuộc linh. Thân thể vật lý của con người là nặng nề, phiền phức, tạm bợ, và tù túng mà con người vẫn hằng mong mỏi được thoát khỏi những điều ấy Những Người Ủng Hộ Nhiều Cơ Đốc Nhân thiếu hiểu biết là những người không chịu nghiên cứu một cách thận trọng giáo lý Kinh Thánh về “Tội Luận” (Hamartiology). V. THUYẾT NHỊ NGUYÊN TRÍ HUỆ: CÁC HỆ QUẢ TIÊU CỰC V.1 Trong một số trường hợp đã tạo ra một quan niệm thiếu quân bình về ý nghĩa đích thực của con người. V.2 Tạo ra một cách nhìn nhận tiêu cực về các vui thú vật chất như thể là các quà tặng được Đức Chúa Trời ban cho (nhục dục, sự ăn uống,…). V.3 Khiến cho người ta nghĩ rằng đời này không có ý nghĩa gì. V.4 Làm giảm mất giá trị của phần vật chất bằng cách xem phần ấy là thứ yếu so với phần thuộc linh. V.5Làm cho người ta thất vọng về bản chất của sự tồn tại đời đời của họ. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“CÁC YẾU TỐ TRONG CẤU HÌNH NHỊ NGUYÊN CỦA CON NGƯỜI” (Sáng. 1: 27; 2: 7) “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ… Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.” (Sáng. 1:27; 2:7) “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ… Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.”(Sáng. 1:27; 2:7) Kinh Thánh phán tỏ tường rằng “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:27) nhưng không phải ai cũng tin như vậy và có cùng một cách hiểu giống nhau về cấu hình của con người… I. TAM TỐ: THÂN, HỒN, THẦN Thuyết Tam Tố (Trichotomy) Gk. trikha, “ba phần”, và temno, “cắt”. Đây là quan niệm cho rằng con người được cấu hình dựa trên ba phần: Thân, hồn, và thần. “Thân” Là phần vật chất “Hồn” Khả năng luận lý, Các xúc cảm, Ý chí, Trí nhớ, Cá tính, Năng lực bố trí. “Thần” “Cái nôi” của con người, phần liên hệ với Đức Chúa Trời. Những Người Ủng Hộ Clement of Alexandria, Origen, Gregory of Nyssa, Watchman Nee, Bill Gothard, C.I. Scofield. II. SỰ BIỆN HỘ CHO THUYẾT TAM TỐ II.1Thuyết Tam Tố được Kinh Thánh hậu thuẫn. 1Tê. 5:23 “Nguyền xin chính Đức Chúa Trời ban bình an khiến anh em nên thánh trọn vẹn, và nguyền xin tâm thần, linh hồn và thân thể của anh em đều được giữ vẹn, không chỗ trách được, khi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta đến!” Hê. 4:12 “Vì lời của Đức Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm, sắc hơn gươm hai lưỡi, thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tủy, xem xét ý định và tư tưởng trong lòng.” II.2 Chúng ta đã được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Hiểu một cách thích hợp nhất hình ảnh ấy phải được xem là có ba nhân tố. II.3 “Thần” được trình bày trong Kinh Thánh như là phần mà con người liên hệ với Đức Chúa Trời, chứ không phải như là hồn hay thân. Sáng. 2:17 “Nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết.” Êph. 2:1 “Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình.” Rô. 8:10 “Vậy nếu Đấng Christ ở trong anh em, thì thân thể chết nhân cớ tội lỗi, mà thần linh sống nhân cớ sự công bình.” III. SỰ ĐÁP TRẢ ĐỐI VỚI THUYẾT TAM TỐ III.1 Kinh Thánh vẫn thường dùng các từ liệu mang tính mô tả để đề cập về các phương diện khác nhau của bản chất con người. Điều này không nhất thiết đòi hỏi phải có một sự phân chia thể tạng (constitutional division). Chẳng hạn, liệu có thể căn cứ trên Mác 12:30 để nói rằng cấu hình con người gồm có 4 phương diện hay không? Có lẽ là không. Ở đây Đức Chúa Jêsus chỉ sử dụng các từ liệu đồng nghĩa với nhau để nói về một tình yêu toàn diện mà con người phải có đối với Đức Chúa Trời. Đó là một loại tình yêu bao gồm toàn thể con người chúng ta. Các phương diện vật chất và phi vật chất của một con người phải được hợp thành một thể thống nhất để tôn hiến lên Đức Chúa Trời trong sự sùng bái và yêu thương Ngài. Mác 12:30 “Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức mà kính mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.” III.2 Nếu quả thật là cấu hình của con người thể hiện được tính đa vị của Ba Ngôi thì mỗi yếu tố cấu thành ấy - “thân”, “hồn”, “thần” - phải là một con người riêng. Sự so sánh với Ba Ngôi là không hợp và thiếu ý nghĩa. III.3Từ liệu “chết” được sử dụng theo nghĩa đen một cách quá mức. Chết chỉ có nghĩa là chúng ta bị tách khỏi. Toàn bộ con người của chúng vốn ta đã bị cách biệt với Đức Chúa Trời vì hậu quả của Cuộc Sa Ngã. Vì vậy, toàn bộ con người của chúng ta chết chứ không phải chỉ có “thần” là chết. III. NHỊ TỐ: THÂN, HỒN/THẦN Thuyết Nhị Tố (Dichotomy) Gk. dicha, “hai phần”, và temno, “cắt”. Đây là quan niệm cho rằng con người được cấu hình dựa trên hai phần thiết yếu: Phần vật chất (“thân”), và phần phi vật chất (“hồn”/“thần”). “Thân” Là phần vật chất. “Hồn”/“Thần” “Thần” và “hồn” là hai từ liệu đồng nghĩa và được sử dụng thay thế lẫn nhau một cách rộng rãi. Các từ liệu này chỉ về các phần còn lại của con người sau khi chết. Các phần ấy thuộc về năng lực liên hệ với Đức Chúa Trời. Những Người Ủng Hộ Augustine, John Calvin, Hodge, và phần lớn các hệ phái Cơ Đốc chính thống. IV. SỰ BIỆN HỘ CHO THUYẾT NHỊ TỐ IV.1 Trừ phi Kinh Thánh dạy một cách dứt khoát về tính đa vị của phần phi vật chất của con người, phần này của con người phải được hiểu chỉ là đơn vị mà thôi. IV.2 Khi có một sự bày tỏ có vẻ tách biệt giữa “hồn” và “thần”, thì đó không thể là một sự phân biệt mang tính triết lý mà phải là một sự tách biệt thực thụ. Sự tách biệt ấy phải đạt được một sự rõ ràng như là ngày nay chúng ta nhận biết “tấm lòng” khác với “tâm trí”. Chẳng hạn, người ta vẫn bảo rằng họ có thể chấp nhận một điều nào đó bằng tâm trí, nhưng tấm lòng của họ vẫn không thể chấp nhận được. Khi nói như thế người ta không nhằm nói rằng “tấm lòng” họ có một chức năng nhận thức khác với “tâm trí” của họ, mà là nói rằng một phương diện nhất định nào đó (Vd. xúc cảm) của “tâm trí” họ không thể chấp nhận được. IV.3 Sự thống nhất diễn đạt trong quan niệm của Thuyết Nhị Tố duy trì được một sự quân bình thích hợp về giá trị và tầm quan trọng của cả hai phương diện vật chất và phi vật chất của con người. Không hề có phương diện nào trong cả hai phương diện ấy là kém giá trị hơn nhưng mỗi phương diện đều giữ một vai trò thiết yếu đối với sự tồn tại của con người: Một thực thể hợp nhất, đơn giản có một sự tương tác liên tục giữa hai phương diện. Kinh Thánh có bày tỏ một quan niệm về sự thánh khiết và sự tăng trưởng cho hai phần ấy của con người (Châm. 17:22, 2Cô. 7:1). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“NHỊ NGUYÊN LUẬN VỀ CẤU HÌNH CỦA CON NGƯỜI” (Sáng. 1: 27; 2: 7) Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ… Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.” (Sáng. 1:27; 2:7) “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ… Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.”(Sáng. 1:27; 2:7) Kinh Thánh phán tỏ tường rằng “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:27) nhưng không phải ai cũng tin như vậy và có cùng một cách hiểu giống nhau về cấu hình của con người… I. NHỊ NGUYÊN LUẬN (DUALISM): TRÌNH BÀY I.1. Nhị Nguyên Luận: Đặt Vấn Đề - “Người” nghĩa là gì? - Khi người chết, việc gì xảy ra cho người? - Liệu có một thực thể gọi là “hồn” hay không? - Điểm phân biệt, nếu có, giữa “hồn” với “thần” là gì? - Mối quan hệ giữa “thân” với “hồn” ra sao? I.2. Nhị Nguyên Luận: Nội Dung Thuyết Nhị Nguyên là quan niệm cho rằng, về bản chất, cấu hình của con người mang tính số nhiều, vì có một trạng thái trung gian của đời sống khi các phần bất tử của một người cứ tồn tại cho đến khi người ấy phục sinh. Các phương diện vật chất và phi vật chất của con người chịu tác động qua lại với nhau, vì thế có một mối tương liên giữa hai phần chính ấy. Những người ủng hộ tư tưởng nhị nguyên về con người: Phần đông các phái Tin Lành Chính Thống. I.3. Nhị Nguyên Luận: Phương Diện Vật Chất Của Con Người Phương diện vật chất nói về thân thể của con người. Các tham chiếu Kinh Thánh nói về thân thể bằng những từ liệu trung dung và tiêu cực. Các phân đoạn Kinh Thánh như 2Cô. 4:7 hoặc Gi. 1:14 nói về thân thể một cách trung dung. Các phân đoạn Kinh Thánh như 1Cô. 15:40-54 đề cập đến thân thể một cách tiêu cực chiếu theo hậu quả của tội lỗi khiến phải hư nát và chết. Điều quan trọng là phải chú ý rằng từ liệu “thịt” có thể được dùng để chỉ về bản chất hay trạng thái tội lỗi như trong Rô. 8:4-6. Phương diện vật chất của con người - “thịt” - là cái nôi của phương diện phi vật chất của con người gọi là “hồn” và “thần”. I.4. Nhị Nguyên Luận: Phương Diện Phi Vật Chất Của Con Người Các sự mô tả về phương diện phi vật chất của con người cũng giống với các mặt khác nhau của một viên kim cương. Mỗi sự việc góp thêm một ý nghĩa nào đó giúp chúng ta nắm bắt được bản chất tổng quát của phương diện này của con người. Dữ kiện Kinh Thánh có vẻ như khiến có một sự trùng lặp quan trọng về ý nghĩa của các từ liệu “hồn” và “thần” khiến lắm khi tạo ra sự khó khăn trong việc phân biệt chúng như hai phương diện khác nhau. Sau đây là một số các từ liệu Kinh Thánh mô tả về phương diện phi vật chất của con người: 4.1 Nhị Nguyên Luận: “Hồn” Được dùng trong các cách khác nhau sau đây: a. Toàn thể phần phi vật chất của con người (1Phi. 2:11) b. Toàn thể con người (Rô. 13:1; 1Tê. 5:23) 4.2 Nhị Nguyên Luận: “Thần” Được dùng theo 3 cách khác nhau sau đây: a. Gió (Sáng. 8:1; 2Tê. 2:8) b. Toàn thể phần phi vật chất của con người (1Cô. 5:5) c. Sự biểu lộ của đời sống thuộc linh (Ma. 5:3; 1Cô. 2:11) “Thần’ thường được đề cập trong Kinh Thánh như là bộ phận có năng lực suy gẫm về Đức Chúa Trời của con người, và ‘hồn’ như là bộ phận có liên quan đến bản ngã cùng với các chức năng khác nhau của trí năng, giác năng và ý chí” (Chafer). 4.3 Nhị Nguyên Luận: “Lòng” Được dùng trong sự mô tả về một cơ quan thực thụ của cơ thể, thế nhưng trong sự sử dụng mang tính phi vật chất thì lại chỉ về toàn thể con người, về trung tâm của xúc cảm, và về các năng lực ý chí. a. Đời sống trí tuệ (Ma. 15:19-20) b. Đời sống xúc cảm (Thi. 37:4; Rô. 9:2) c. Đời sống ý chí (Xuất. 7:23, Hê. 4:7) d. Đời sống thuộc linh (Rô. 10:9-10; Êph. 3:17) 4.4 Nhị Nguyên Luận: “Lương Tâm” Sự cảm giác bẩm sinh của nội tâm về những sự thuộc về đạo lý và về điều phải. a. Lương tâm của người chưa được cứu… a.1 Có thể giữ vai trò hướng dẫn (Rô. 2:15) a.2 Có thể chân thực (Công. 23:1) b. Lương tâm của một người đã được cứu được đánh thức bởi sự tái sinh và trở nên hoạt động và nhạy cảm hơn khi tâm trí được đổi mới. Đức Thánh Linh soi sáng cho tâm trí của người tín hữu trong việc hiểu biết và áp dụng lẽ thật của Đức Chúa Trời. Trong khi làm như thế, tâm trí của người tín hữu có được một sự cân nhắc được tăng trưởng về lẽ thật trong lương tâm của mình là điều sẽ dắt dẫn người ấy có được các quan hệ đúng đắn đối với: b.1 Nhà cầm quyền (Rô. 13:5) b.2 Người làm công (1Phi. 2:19) b.3 Anh chị em đồng đạo (1Cô. 8:7-12) b.4 Đời sống thuộc linh (Rô. 9:1-3; 2Cô. 1:12) 4.5 Nhị Nguyên Luận: “Tâm Trí” Một cơ năng gắn liền với sự suy nghĩ, phân biệt, phân tích, và hiểu biết của con người. a. Tâm trí của người chưa được cứu… a.1 Rô. 1:28 ¾ Đầy tội lỗi, ngang ngạnh, suy đồi, “không nhìn biết Đức Chúa Trời” a.2 Êph. 4:17 ¾ trống rỗng, vô ích, không có lẽ thật a.3 Tít 1:15 ¾ Dơ bẩn, bị ô nhiễm, bị làm hư hỏng a.4 2Cô. 4:4 ¾ Mù tối về lẽ thật Kinh Thánh, nhất là, sự khôn ngoan của Thập Tự Giá bị sự khôn ngoan riêng che lấp. a.5 Êph. 4:18 ¾ Bị làm cho tối tăm bởi hậu quả của tội lỗi, có khuynh hướng xa lánh khỏi những sự thánh khiết. a.6 1Cô. 2:14 ¾ Về khuynh hướng, không có khả năng nhận thức được những gì có giá trị thuộc linh. Về thái độ, những gì thực sự thuộc linh đều có vẻ ngớ ngẩn. b. Tâm trí của người đã được cứu… b.1 Về mục đích sử dụng… b.1.1 Dùng cho việc hiểu biết Lời Kinh Thánh (Lu. 24:25; 1Cô. 2:15,16) b.1.2 Dùng trong việc kính yêu Đức Chúa Trời (Ma. 22:37) b.1.3 Dùng trong việc hiểu biết ý chỉ của Đức Chúa Trời (Êph. 5:17) b.2 Các ưu tiên trong việc sử dụng tâm trí Cơ Đốc b.2.1 1Phi. 1:13 >> Sẵn sàng hành động (“bền chí như thể thắt lưng”) b.2.2 2Cô. 10:5 >> “Bắt hết các ý tưởng làm tôi vâng phục Đấng Christ” b.2.3 Phil. 4:8-9 >> Suy gẫm về những sự thánh sạch, có tiếng tốt theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời. b.2.4 Rô. 12:2 >> Đổi mới trong lẽ thật. 4.6 Nhị Nguyên Luận: Sự Hư Hỏng Của “Thịt” Rô. 7:1 (Sv. Rô. 7) “Vả, chúng ta biết luật pháp là thiêng liêng; nhưng tôi là tánh xác thịt đã bị bán cho tội lỗi.” >> Nhân tính đã bị suy đồi, hư hỏng 4.7 Nhị Nguyên Luận: Biến Thể (Biến Tướng) II. NHỊ NGUYÊN LUẬN: BIỆN HỘ II.1 Trạng thái trung gian giữa lúc chết và phục sinh là một điều được dạy cách tỏ tường trong Kinh Thánh. Lu. 23:42- 43 “42Đoạn lại nói rằng: Hỡi Jêsus, khi Ngài đến trong nước mình rồi, xin nhớ lấy tôi! 43Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, Ta nói cùng ngươi, hôm nay ngươi sẽ được ở với Ta trong nơi Barađi.” 2Cô. 5:6-8 “6Vậy, chúng ta hằng đầy lòng tin cậy, và biết rằng khi chúng ta đang ở trong thân thể nầy thì xa cách Chúa - 7vì chúng ta bước đi bởi đức tin, chớ chẳng phải bởi mắt thấy - 8Vậy tôi nói, chúng ta đầy lòng tin cậy, muốn lìa bỏ thân thể nầy đặng ở cùng Chúa thì hơn.” Ma. 10:28 “Đừng sợ kẻ giết thân thể mà không giết được linh hồn; nhưng thà sợ Đấng làm cho mất được linh hồn và thân thể trong Địa Ngục.” Gia. 2:26 “Vả, xác chẳng có hồn thì chết, đức tin không có việc làm cũng chết như vậy.” Php. 1:23–24 “23Tôi bị ép giữa hai bề, muốn đi ở với Đấng Christ, là điều rất tốt hơn; 24nhưng tôi cứ ở trong xác thịt, ấy là sự cần hơn cho anh em.” Lu. 16:19–31 (Câu chuyện về “Người Giàu Xấu Nết Và Laxarơ”) Khải. 6:9-10 “9Khi Chiên Con mở Ấn Thứ Năm, tôi thấy dưới bàn thờ có những linh hồn của kẻ đã chịu giết vì Đạo Đức Chúa Trời và vì lời chứng họ đã làm. 10Chúng nó đều kêu lên lớn tiếng rằng:Lạy Chúa là Đấng Thánh và Chân Thật, Chúa trì hoãn xét đoán và chẳng vì huyết chúng tôi báo thù những kẻ ở trên đất cho đến chừng nào?” 1Sa. 28:11–15 (Nói về việc Samuên trở về dưới dạng của một người đã chết để nói chuyện cùng Saulơ) II.2 Kiến thức về đời sống sau sự chết là một tiên đề nhân chủng học (anthropological axiom) vốn quen thuộc với mọi người qua mọi thời. Người ta vốn nhận thức được rằng bản ngã, “cái tôi”, là một cái gì đó cao vượt hơn não bộ hoặc thân thể. Đó không thể là một điều có thể loại trừ một cách dễ dàng được. II.3 Thôi không còn tồn tại lúc chết và rồi bắt đầu hiện hữu trở lại vào kỳ phục sinh chung qui là việc Đức Chúa Trời tái tạo lại chúng ta. Vì thế cho nên lúc được phục sinh chúng ta sẽ chẳng phải thực sự là “chúng ta” nữa. Chúng ta sẽ không thực sự có bất cứ điều gì để theo đuổi ở đời sống sau sự chết vì “chúng ta” sẽ không chịu ràng buộc trong đó. Sự sống ấy của chúng ta thực ra chỉ là một bản sao của chính chúng ta ngày nay mà thôi. II.4 Có nhiều người đã từng có các kinh nghiệm của một tình trạng “gần như chết”. Có một sự nhất trí chung giữa vòng các loại kinh nghiệm này đến đỗi khó có thể dễ dàng xem nhẹ giá trị của các kinh nghiệm này (Chẳng hạn, được ở trong sự “sáng lòa”, có cảm giác trôi bồng bềnh, nghe được những điều diễn ra chung quanh xác của họ dầu rằng không còn có sự hoạt động của não bộ nữa). III. NHỊ NGUYÊN LUẬN: ĐÁP TRẢ III.1 Kinh Thánh không đề cập đến niềm hy vọng ở trạng thái trung gian của sự sống, mà là hy vọng ở sự phục sinh. Chúng ta sẽ được “trình diện” Chúa khi chúng ta phục sinh. Các linh hồn kêu khóc với Đức Chúa Trời không nhất thiết phải được hiểu theo nghĩa đen ở một mức độ cao hơn trường hợp Đức Chúa Trời phán rằng “Tiếng của máu em ngươi từ dưới đất kêu thấu đến Ta.” (Sáng. 4:10). III.2 Một sự nhận thức hay tin tưởng phổ biến không nhất thiết có nghĩa là sự ấy là chân thật. III.3 Mặc dầu thật khó mà hình dung ra và hiểu được rằng Đức Chúa Trời sẽ tái tạo lại chúng ta vào lúc phục sinh, nhưng không phải vì thế mà sự phục sinh là không có. Cũng thật khó để biết Đức Chúa Trời sẽ tái tạo lại thân thể của chúng ta như thế nào trong lúc phục sinh. Tuy vậy, những người bác bỏ Thuyết Nhất Nguyên tin rằng họ sẽ có được trở lại cùng loại thân thể như xưa. III.4 Thật khó để làm sáng tỏ các kinh nghiệm của một tình trạng “gần như chết” là điều thật mơ hồ. Nhiều sự làm chứng về loại kinh nghiệm này là phi Kinh Thánh vì cả các tín hữu lẫn những người không tin đều làm chứng là họ được ở trong một trạng thái “sáng lòa”. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“CHÂN NGUYÊN VÀ CẤU HÌNH CỦA CON NGƯỜI” (Sáng. 1:27; 2:7) “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ… Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.” (Sáng. 1:27; 2:7) Kinh Thánh phán tỏ tường rằng “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:27) nhưng không phải ai cũng tin như vậy và có cùng một cách hiểu giống nhau về chân nguyên và cấu hình của con người… I. CĂN NGUYÊN CỦA CON NGƯỜI DƯỚI ÁNH SÁNG KINH THÁNH “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:27) “Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.” (Sáng. 2:7) 1. Con người là kết quả tức thì của sự tạo dựng của Đức Chúa Trời. 2. Con người đã được tạo dựng từ bụi đất. 3. Bằng một sự tác tạo độc nhất vô nhị, Đức Chúa Trời đã hà hơi vào lỗ mũi con người, làm cho con người trở nên phân biệt hẳn với tất cả các công việc khác của Cuộc Sáng Tạo của Đức Chúa Trời. 4. Không giống với mọi loài thọ tạo khác, con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời (Sáng. 1:27). “Được tạo dựng theo hình ảnh Đức Chúa Trời bao hàm việc con người được ban cho quyền cai quản khắp mặt đất và có năng lực về hành vi đạo đức. Cả hai điều ấy đã bị làm nhiễu loạn bởi sự thâm nhập của tội lỗi đến nỗi con người đã đánh mất quyền cai quản của mình và năng lực đạo đức của họ cũng bị suy thoái. Tuy nhiên, con người có tính độc đáo hơn mọi loài thọ tạo nhở ở việc họ đã được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời” (Ryrie). 5. Con người đã được tạo dựng để làm Thống Sứ Trung Gian của Đức Chúa Trời với các tạo vật khác của Ngài. Trong tình trạng uyên nguyên (chưa bị sa bại), con người là một sự phản ánh trong nhân trạng cho sự cai quản tối cao của Đức Chúa Trời. 6. Con người đã được tạo dựng để thờ phượng Đức Chúa Trời và vui hưởng sự hiện diện của Ngài, luôn thấy thỏa vui hồn nhiên về Thân Vị vinh hiển của Đức Chúa Trời (Thi.16:11; 27:4). 7. Con người đã được tạo dựng cho sự vinh hiển, niềm vui, và mục đích đời đời của Đức Chúa Trời (Ês. 43:7; Êph. 1:11-12; 1Cô. 10:31). 8. Được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời là điều chỉ cho thấy rằng con người chia sẻ năng lực trí tuệ, luân lý, thuộc linh, đạo đức, sáng tạo, và tính đời đời của Đức Chúa Trời. Các năng lực ấy tương đồng về thể loại chứ không phải về cấp độ. Không hề có bất cứ loài thọ tạo nào khác chia sẻ các năng lực này của Đức Chúa Trời. 9. Giáo lý về Tính Tự Hữu (The Doctrine of Aseity) khẳng định rằng Đức Chúa Trời không bao giờ cần bất cứ sự gì. Đức Chúa Trời đã không tạo dựng con người vì cớ Ngài có cần bất cứ sự gì, vì - theo giáo lý về tính tự hữu - Ngài vốn tự có mọi sự (Sáng. 1:1-2, 26-31; 2:7-9, 15-25). Thi. 8:3-6 “3Khi tôi nhìn xem các từng trời là công việc của ngón tay Chúa,_Mặt trăng và các ngôi sao mà Chúa đã đặt,_4Loài người là gì mà Chúa nhớ đến?_Con loài người là chi mà Chúa thăm viếng nó?_5Chúa làm người kém Đức Chúa Trời một chút,_Đội cho người sự vinh hiển và sang trọng._6Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm,_Khiến muôn vật phục dưới chân người” Gióp 7:17-18 “17Loài người là gì mà Chúa kể là cao trọng?_Nhân sao Chúa lưu ý đến người,_18Viếng thăm người mỗi buổi sớm,_Và thử thách người mỗi lúc mỗi khi?” 1Cô. 10:31 “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm” 1Phi. 4:11 “Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen” Rô. 8:17, 30 “17Lại nếu chúng ta là con cái, thì cũng là kẻ kế tự: Kẻ kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Đấng Christ, miễn là chúng ta đều chịu đau đớn với Ngài, hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài… 30Còn những kẻ Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã gọi, những kẻ Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã xưng là công bình, và những kẻ Ngài đã xưng là công bình, thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển” Đa. 12:3 “Những kẻ khôn sáng sẽ được rực rỡ như sự sáng trên vòng khung; và những kẻ dắt đem nhiều người về sự công bình sẽ sáng láng như các ngôi sao đời đời mãi mãi” Êph. 1:11 “Ấy cũng là trong Ngài mà chúng ta đã nên kẻ dự phần kế nghiệp, như đã định trước cho chúng ta được điều đó, theo mạng của Đấng làm mọi sự hiệp với ý quyết đoán” Nếu có một cái gì đó như là “động cơ thúc đẩy” để Đức Chúa Trời tạo dựng nên nhân loại thì “động cơ” ấy là … 1. Vì Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời Sáng Tạo. 2. Để con người có thể tôn vinh hiển cho Đức Chúa Trời. 3. Để Đức Chúa Trời chia sẻ vinh hiển của Ngài. 4. Để hoàn thành bất cứ sự gì Đức Chúa Trời đã định. II. CẤU HÌNH CỦA CON NGƯỜI Đức Chúa Trời đã tạo dựng con người nhưng cấu trúc đã được tạo dựng là như thế nào? - “Người” nghĩa là gì? - Khi người chết, việc gì xảy ra cho người? - Liệu có một thực thể gọi là “hồn” hay không? - Điểm phân biệt, nếu có, giữa “hồn” với “thần” là gì? - Mối quan hệ giữa “thân” với “hồn” ra sao? Có các sự trả lời khác nhau cho câu hỏi căn bản ấy: 1. Thuyết Nhất Nguyên (Monism) 2. Thuyết Nhị Nguyên (Dualism) 3. Việc Tạo Dựng Hồn (Creation of the Soul) 4. Hình Ảnh Thiên Thượng Trong Con Người (Imago Dei) Kinh Thánh cũng sử dụng một số từ liệu chỉ về các yếu tố trong cấu trúc của con người… (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“TỘI LUẬN” (Giáo Lý Kinh Thánh Về Nhân Loại Và Tội Lỗi) “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:27) “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:27) I. VỀ TÀI LIỆU Nguyên thủy, tài liệu này được dành cho Sinh Viên và Giáo Sư Chương Trình Thần Học thuộc Mục Vụ “Reclaiming The Mind”. Tài liệu này nên được sử dụng cho việc nghiên cứu cá nhân, cũng như cho việc chuẩn bị bài dạy, bài giảng, hoặc để trao đổi, thảo luận. Tài liệu có thể được trích ở bất cứ độ dài nào miễn là không làm thay đổi nội dung và phải thừa nhận tác quyền. Mọi việc in lại dầu vì mục đích nào cũng phải được sự thỏa thuận trên văn bản với Mục Vụ “Reclaiming The Mind”. Theo chính sách của Chương Trình Thần Học thuộc Mục Vụ “Reclaiming The Mind”, Các Mục Sư và Giáo Sư được phép soạn thêm vào tài liệu theo những chừng mực có thỏa thuận của các Soạn Giả. Các Mục Sư và Giáo Sư được khuyến khích sử dụng tài liệu này vào việc giảng dạy của họ nhưng phải giữ không được thay đổi nội dung. Ngoại trừ những trường hợp được kể rõ, Kinh Thánh được trích từ NEW AMERICAN STANDARD BIBLE, tác quyền thuộc The Lockman Foundation theo các ấn bản 1960, 1962, 1963, 1968, 1971, 1972, 1973, 1975, 1977, 1995 màtac1 giả đã được phép sử dụng. Kinh Thánh cũng được sử dụng từ NET BIBLE, tác quyền thuộc Biblical Studies Press, L.L.C. và các Soạn Giả, các ấn bản 1997-2003. Bản dịch Kinh Thánh New International Version, các ấn bản 1973, 178, 1984 của International Bible Society cũng đã được sử dụng theo sự cho phép của Zondervan Publishing House. II. VỀ PHẠM VI ĐỀ CẬP “Loài người là gì mà Chúa nhớ đến? Con loài người là chi mà Chúa thăm viếng nó?” (Thi. 8:4) Các vấn đề được đề cập trong giáo trình này như sau: - Tại sao Đức Chúa Trời tạo dựng nên chúng ta? - Bản thể của chúng ta là gì? - Thân và hồn chúng ta có giống nhau không? - Có phải chúng ta vừa có phần vật chất, vừa có phần phi vật chất hay không? - Chúng ta có thân, hồn, và thần phải không? - Thế nào là Hợp Thể Có Điều Kiện? (Conditional Unity) - Thế nào là Nhị Nguyên Trí Huệ? (Gnostic Dualism) - Hồn của chúng ta đã được tạo nên từ lúc nào và như thế nào? - Tái sinh có nghĩa là gì? - Được tạo dựng theo hình ảnh Đức Chúa Trời có nghĩa là gì? - Cuộc Sa Ngã (The Fall) đã ảnh hưởng trên Hình Ảnh Thiên Thượng (Imago Dei) trong con người như thế nào? - Nguyên Tội là gì? - Cuộc Sa Ngã đã ảnh hưởng trên ý chí của chúng ta như thế nào? - Quan điểm Pelagian là gì? - Quan điểm Augustinian là gì? - Quan điểm Arminian là gì? - Liệu chúng ta thực sự có ý chí tự do hay không? - Tại sao chúng ta lại bị kết tội bởi sự phạm tội của người khác? - Người nam và người nữ: Chúng ta khác nhau như thế nào? - Quan Điểm Quân Bình là gì? (Egalitarianism) - Quan Điểm Bổ Sung là gì? (Complementarianism) Tất cả các vấn đề sẽ được đề cập như trên sẽ giúp cho người nghiên cứu có được một sự nhìn nhận căn bản và hợp Kinh Thánh về vấn đề tội lỗi trong nhân loại, góp phần xây dựng quan hệ cá nhân đúng đắn giữa người tin với Đức Chúa Trời. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“CÁC QUAN ĐIỂM VỀ NGUỒN GỐC NHÂN LOẠI” (Sáng. 1:27; 2:7) “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:27) Kinh Thánh phán tỏ tường rằng “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:27) nhưng không phải ai cũng tin như vậy… I. CÁC QUAN ĐIỂM SAI CẦN PHẢI ĐƯỢC BÁC BỎ 1. Không phải Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên con người (Naturalism, Tự Nhiên Thuyết). 2. Con người là phần nối dài bất diệt của những gì vốn có trong Đức Chúa Trời (Pantheism / Panentheism, Phiếm Thần Thuyết). 3. Loài người cũng bất diệt như Đức Chúa Trời là bất diệt (Pantheism / Polytheism, Phiếm Thần Thuyết / Đa Thần Thuyết). 4. Đức Chúa Trời đã cần được sự trợ giúp từ tạo vật mới của Ngài. 5. Đức Chúa Trời cần phải có bạn đồng hành. II. CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ NGUỒN GỐC NHÂN LOẠI 1. Thuyết Sáng Tạo Bằng Lời Phán (Fiat Creation) Đây là quan điểm cho rằng con người đã được Đức Chúa Trời tạo dựng chỉ bằng lời phán của Ngài. Đức Chúa Trời đã phán, và con người đã hiện hữu, và Ngài đã không cần phải sử dụng bới bất cứ loại chất liệu nào. Quan điểm này được nhiều người gọi là lập trường “nihilo”, một từ liệu Latinh có nghĩa là “không từ vật gì cả” (Sv. Hê. 11:3). 2. Thuyết Tiến Hóa Tự Nhiên/Vô Thần (Naturalistic or Atheistic Evolution) Theo thuyết này, nguồn gốc của con người chỉ là kết quả của một tiến trình tự nhiên và vĩnh viễn. Không hề có sự hiện hữu của Đấng Sáng Tạo là Đấng làm cho con người hiện hữu bằng các phương tiện siêu nhiên. Sự hiện hữu của con người là bởi một số dạng tự sinh trong giới tự nhiên (spontaneous generation). Trạng thái hiện thời của con người là kết quả của hàng triệu năm tiến hóa và của một tiến trình tự nhiên vốn có thể tạo ra chủng loại mới. 3. Thuyết Tiến Hóa Hữu Thần (Theistic Evolution) Đức Chúa Trời đã khởi sự tiến trình tiến hóa bằng việc tạo dựng nên con người. Những người theo Thuyết Tiến Hóa Hữu Thần tin rằng tất cả mọi sinh vật đều có cùng một thỉ tổ. Theo dòng của tiến trình tiến hóa, Đức Chúa Trời từng hồi từng lúc can thiệp để giải quyết các trở ngại đối với sự tiến hóa. 4. Thuyết Tạo Dựng Lũy Tiến (Progressive Creation) Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên con người và các chủng loại khác theo thời gian. Những người theo Thuyết này không tin rằng Đức Chúa Trời đã tạo dựng thế gian trong 6 ngày (theo nghĩa đen), thay vào đó họ cho rằng Đức Chúa Trời đã mất hàng triệu năm trong việc tạo nên các loài sinh vật mới và đa dạng. 5. Thuyết Tạo Dựng Có Lịch Sử (Historic Creationism) Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên vườn Êđen trong 6 ngày theo nghĩa đen. Phần còn lại của cuộc tạo dựng theo cách lũy tiến. Theo thuyết này, vườn Êđen chẳng qua chỉ là một sự tạo dựng nhỏ nhoi giữa một biển mênh mông các sự tiến hóa. 6. Thuyết Sáng Tạo Đủ Tuổi (Young-earth Creationism) Theo thuyết này, trong 6 ngày Đức Chúa Trời đã tạo dựng các chủng loại phân biệt nhau. Ađam chỉ là một tạo vật độc đáo của Đức Chúa Trời cũng như các loài thọ tạo hữu thể khác mà thôi. Không hề có việc mọi loài có cùng chung thỉ tổ. Tuổi thấy được của địa cầu là tuổi đủ tức thì của nó (apparent age) - cũng như Đức Chúa Trời đã tạo dựng tuổi đủ (with age) cho các phần tạo dựng khác của Ngài - đã từng chịu ảnh hưởng của các biến động thảm khốc của Đại Hồng Thủy. Chẳng hạn, khi Đức Chúa Trời tạo dựng Ađam, Ngài tạo dựng một Ađam đủ tuổi ngay chứ không phải là một bào thai Ađam. III. SAI TRẬT CỦA QUAN ĐIỂM TIẾN HÓA 1. Bản Thiết Kế nói lên rằng phải có Nhà Thiết Kế. Quan niệm rằng sự vật tự sinh là tin vào sự ngẫu nhiên chứ không tôn trọng sự thiết kế. 2. Không hề có bằng chứng được thẩm tra về sự bộc phát loài (macro-evolution), sự tạo ra chủng loại mới giữa vòng các chủng loại có trước. 3. Các sự đột biến (Mutations) không bộc phát ra ngoài chủng loại hiện có của nó, và một khi sự đột biến xuất hiện, nó sẽ tác hại trên chủng loại. Không hề có những sự đột biến được quan sát nào cho thấy là hữu ích cả. 4. Thuyết tiến hóa không giải đáp được cho vấn đề khác biệt về gen. Không hề có những sự đột biến tạo ra các chủng loại mới, hoặc ngay cả một cơ quan mới cho chủng loại hiện hữu cả. 5. Không hề có bằng chứng nào cho thấy được rằng Sự Tuyển Trạch Tự Nhiên (natural selection) sẽ sàng lọc để giữ lại các đột biến tốt nhất và loại bỏ đi các sự đột biến có hại. Lý Thuyết Tuyển Trạch Tự Nhiên không hề đưa ra được một sự bảo đảm nào cho sự cải thiện theo thời gian cả. 6. Có một sự thiếu thốn trầm trọng về dữ kiện, bằng chứng từ vật hóa thạch để làm sáng tỏ rằng có các giai đoạn quá độ từ một loài này sang một loài khác (transitional phases and forms). 7. Thuyết tiến hóa là một học thuyết đòi hỏi niềm tin. Thuyết này đòi hỏi phải có một sự tin quyết rằng nhờ các cơ hội ngẫu nhiên mà thể vật chất vô cơ hằng hữu (inorganic eternal matter) đã trở nên thể vật chất hữu cơ hằng hữu (inorganic eternal matter) bởi sự bộc phát tự động ngẫu nhiên (chance spontaneous combustion). Thế rồi qua thời gian, bằng đột biến và tuyển trạch tự nhiên mà sự hiện hữu phức hợp của con người xuất hiện. IV. CƠ SỞ CỦA THUYẾT SÁNG TẠO ĐỦ TUỔI 1. Mỗi từ liệu được sử dụng trong Kinh Thánh phải được hiểu theo nghĩa đen nếu chưa tìm thấy dấu hiệu rằng cần phải được hiểu theo cách khác. Không hề có bằng chứng nào cho thấy rằng thể loại văn chương Kinh Thánh ở đây là cách nói biểu tượng về sự việc. 2. Từ liệu “ngày” bằng Tiếng Hêbơrơ là “yom”. Từ liệu này được sử dụng khoảng 1.480 lần trong Kinh Thánh Cựu Ước theo nhiều cách khác nhau. Do đó, không ai có thể chứng minh được một cách đầy thuyết phục ý nghĩa của “yom”. Từ liệu này cần phải được thông giải trong văn mạch của nó. 3. Phần lớn các Tự Điển Thuật Ngữ Hêbơrơ không đồng ý “yom” có thể được dịch như một khoảng thời gian dài, từ liệu này được dùng theo nghĩa ngày 24 giờ. Trong Kinh Thánh, hễ khi nào “yom” với một tính từ xác định chỉ số thì ở đó phải được hiểu là ngày 24 giờ. 4. Đức Chúa Trời phán và việc sẽ được thực hiện tức thì. Không hề có một điều gì đó cho thấy phải có một tiến trình triển khai cặp theo. Cuộc sáng tạo buổi sáng thế là cuộc sáng tạo “ex nihilo”: Sự sáng tạo theo đó Đức Chúa Trời phán thì lập tức các phương diện tất yếu của vật thọ tạo bèn hiện hữu. 5. Cả 6 ngày trong Cuộc Sáng Tạo đều được nói đến với “buổi chiều và buổi mai”, đó là cách quen thuộc mà Ngũ Kinh sử dụng để nói về ngày 24 giờ. 6. Sự giảng giải về sau trong Kinh Thánh (Xuất. 20: 9-11) hỗ trợ mạnh mẽ cho cách hiểu “yom” là ngày 24 giờ. 7. Mọi vật thọ tạo được nói đến trong Sáng. 1&2 đều ở trong trạng thái trưởng thành: Cây cối, chim chóc, gia súc, và con người,… Tất cả đều được mô tả trong trạng thái trưởng thành của mỗi loài. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“VỀ SỰ THUẬN PHỤC THEO ĐỨC THÁNH LINH” (Êph. 3:16) “Tôi cầu xin Ngài tùy sự giàu có vinh hiển Ngài khiến anh em được quyền phép bởi Thánh Linh mà nên mạnh mẽ trong lòng…” (Êph. 3:16) Vấn đề thuận phục theo Thánh Linh là vấn đề có đời sống ngày càng vâng lời Đức Chúa Trời nhiều hơn. Sự thuận phục theo Đức Thánh Linh là biểu hiện tập trung của đời sống viên thục trong đầy dẫy thuộc linh. Từng mặt đơn lập của sự đầy dẫy trong viên thục thuộc linh không làm nên tư thế thuận phục theo Đức Thánh Linh được mà tư thế viên thục thuộc linh là kết quả quân bình của sự tác động giữa các mặt trên đời sống một cá nhân thể hiện qua việc một cá nhân giữ được sự vâng lời đối với mọi sự dạy dỗ của Kinh Thánh để ngày càng được sát gần với Đức Chúa Trời, thoát xa mọi sự ràng buộc ngoài Đức Chúa Trời: “[31]Bấy giờ Ngài phán cùng những người Giuđa đã tin Ngài, rằng: Nếu các ngươi hằng ở trong đạo Ta, thì thật là môn đồ Ta; [32]các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi” (Gi. 8:31-32) Theo bản chất của đời sống Cơ Đốc, hễ khi nào kiến thức Kinh Thánh trong đời sống cá nhân không giúp sản sinh được các tính cách Cơ Đốc phải có và không đem lại được các hành vi tích cực mang dấu ấn của ân tứ thuộc linh thì đời sống ấy bị méo mó (Sv. 2Phi. 1:5-7). Đời sống viên thục trong đầy dẫy thuộc linh phải là một đời sống có sự cân bằng giữa lời Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh với các ân tứ thuộc linh hợp Kinh Thánh. Khi một đời sống chỉ biết chăm đào sâu về giáo lý Kinh Thánh đến mức xao lãng các phương diện (phải tấn tới) khác của đời sống Cơ Đốc thì đó chỉ là một đời sống túy giáo chứ không phải là một đời sống viên thục trong đầy dẫy thuộc linh, và như vậy sẽ không phải là thực sự thiên về Kinh Thánh. Ngược lại, khi một đời sống chỉ biết chăm theo đuổi các ân tứ thuộc linh đến mức làm ngơ các phương diện (phải tấn tới) khác của đời sống Cơ Đốc thì đó chỉ là một đời sống túy ân chứ không phải là một đời sống viên thục trong đầy dẫy thuộc linh, và như vậy sẽ không phải là thực sự thiên về Đức Thánh Linh. Một đời sống thuận phục theo Đức Thánh Linh là một đời sống vâng lời Đức Chúa Trời theo sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh để sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh được áp dụng trên đời sống ấy. Một đời sống viên thục trong đầy dẫy thuộc linh phải là một đời sống mà sự hiểu biết (giáo lý) về Đức Thánh Linh sẽ kết quả ở việc thông biết Thân Vị, thuộc tính, và chương trình của Đức Chúa Trời; sự đáp ứng đối với Đức Thánh Linh (qua ân tứ thuộc linh) phải kết quả ở việc kinh nghiệm được quyền năng Đức Chúa Trời; và sự thuận phục (theo sự dạy dỗ của) Đức Thánh Linh sẽ kết quả ở việc sống vâng lời Đức Chúa Trời theo sự dạy dỗ của Ngài trong Kinh Thánh. Một đời sống viên thục trong đầy dẫy thuộc linh là một đời sống mà hình ảnh Đấng Christ phải ngày càng được đậm nét hơn chứ không phải là bất cứ gì khác: “Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh Ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi” (Gi. 16:14) Ân tứ thuộc linh là một trong những cách ban quyền năng cho Cơ Đốc Nhân của Đức Thánh Linh để họ góp phần gây dựng Hội Thánh tiến lên trên con đường viên thục theo hình ảnh của Đức Chúa Jêsus Christ. Tất cả các sự dạy dỗ của Kinh Thánh Tân Ước đều không hề có bất cứ sự chỉ định nào về tính chất phô diễn trong việc thực hành ân tứ thuộc linh. Các sự dạy dỗ Tân Ước cho thấy quyền năng Đức Thánh Linh (qua các ân tứ thuộc linh được ban) phải góp phần cho việc thông biết Chúa và Ân Điển của Ngài, hình thành các thuộc tính của Ngài, trưởng thành theo Ngài: “[16]Tôi cầu xin Ngài tùy sự giàu có vinh hiển Ngài khiến anh em được quyền phép bởi Thánh Linh mà nên mạnh mẽ trong lòng; [17]đến nỗi Đấng Christ nhân đức tin mà ngự trong lòng anh em; [18]để anh em khi đã đâm rễ vững nền trong sự yêu thương, được hiệp cùng các thánh đồ mà hiểu thấu bề rộng, bề dài, bề cao, bề sâu của nó là thể nào, [19]và được biết sự yêu thương của Đấng Christ, là sự trổi hơn mọi sự thông biết, hầu cho anh em được đầy dẫy mọi sự dư dật của Đức Chúa Trời” (Êph. 3:16-19) Quyền năng Đức Thánh Linh vốn là trung tâm điểm của đời sống của Đức Chúa Jêsus Christ trong nhân trạng trên thế gian. Ngài đã được thai dựng bởi quyền năng Đức Thánh Linh; được Đức Thánh Linh giáng ngự khi Ngài chịu Phép Báptêm; được Đức Thánh Linh đem vào đồng vắng; được trở về Galilê trong quyền năng Đức Thánh Linh; được xức dầu bởi Đức Thánh Linh để giảng Tin Lành, để chữa lành, để giải thoát cho những người ở dưới sự cầm buộc của Ma Quỉ; Ngài giảng dạy về nhu cần phải được sanh lại bởi Đức Thánh Linh; Ngài hứa ban Đức Thánh Linh cho các môn đồ của Ngài; chính Ngài đã “hà hơi trên môn đồ mà rằng: Hãy nhận lãnh Đức Thánh Linh” (Gi. 20:22)… Nói chung, đời sống của Đức Chúa Jêsus là một đời sống hoàn toàn dầm thấm trong quyền năng Đức Thánh Linh, Ngài có năng lực thực hiện mọi sự trong quyền năng Đức Thánh Linh. Chính cùng một loại năng lực ấy đang ở cùng các Cơ Đốc Nhân (Sv. 1Cô. 4:20). Khác với Đức Chúa Jêsus Christ, Cơ Đốc Nhân chúng ta được viên thục trong đầy dẫy thuộc linh nhờ sự “tấn tới trong Ân Điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta” (2Phi. 3:18) bằng một đời sống tích hợp ngày càng chặt chẽ hơn giữa sự hiểu biết về Đức Thánh Linh, sự hưởng ứng đối với Đức Thánh Linh, và sự thuận phục theo Đức Thánh Linh. Sự tích hợp giữa các yếu tố vừa kể, và tiến trình tích hợp ấy chỉ bắt đầu và phát triển được nếu chúng ta thường xuyên biết… 1. Thừa nhận nhược điểm của chúng ta. Phải biết sự yếu đuối của chính bản thân mình mới mong có thể được trở nên hoàn thiện nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời (Sv. 2Cô. 12:9-10). 2. Đầu phục ý muốn của Đức Chúa Trời. Biết rõ hơn về sự yếu đuối của bản thân (Sv. Rô. 7:14) là để đầu phục theo ý muốn của Đức Chúa Trời (Sv. Gia. 4:7). 3. Xưng nhận sự thiếu vâng phục của chúng ta. Phải biết rõ những phạm vi nào mà bản thân chưa thực sự vâng phục Đức Chúa Trời hầu có thể đến với Ngài trong sự xưng nhận và sẽ được ơn nâng đỡ (Sv. Gia. 4:10). 4. Thánh hóa các khát vọng trong chúng ta. Chúng ta chỉ có thể trở nên giống với Đức Chúa Jêsus Christ nếu mọi khát vọng của chúng ta đều được thánh hóa và biến đổi (Sv. 1Gi. 2:15-17; 1Phi. 3:15; Rô. 12:2) 5. Kỳ vọng vào lời hứa của Đức Chúa Trời Cơ Đốc Nhân phải có một tâm thế kỳ vọng vào các lời hứa của Đức Chúa Trời mới có thể trở nên viên thục trong đầy dẫy thuộc linh được (Php. 2:13). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“VÀI ĐIỀU VỀ VIỆC GIỮ LỄ PHỤ THÂN” (Êph. 6:1-3) “Hỡi kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ mình trong Chúa, vì điều đó là phải lắm. Hãy tôn kính cha mẹ ngươi (ấy là điều răn thứ nhứt, có một lời hứa nối theo), hầu cho ngươi được phước và sống lâu trên đất.” (Êph. 6:1-3) Các Hội Thánh Tin Lành có truyền thống giữ Lễ Phụ Thân và sự thật là qua Lễ Phụ Thân trong các Hội Thánh luôn có được những ơn ích rõ ràng cho Dân Chúa. Dầu vậy, vẫn có người đặt vấn đề có nên giữ Lễ Phụ Thân trong Hội Thánh hay không. Giải đáp cho nghi vấn này sẽ tùy vào việc lễ này có hợp Kinh Thánh hay không. Ngày Lễ Phụ Thân là một ngày được dành riêng để tôn cao phụ quyền qua việc ghi nhận vai trò và thẩm quyền của người cha trong gia đình và xã hội đồng thời qua đó mà làm cho bền chặt hơn mối liên hệ cha con trong gia đình. Trên thực tế, Lễ Phụ Thân cũng còn là dịp để tưởng nhớ các bậc cha ông đã khuất. Ở Hoa Kỳ, Lễ Phụ Thân được thực hiện vào ngày Chúa Nhật tuần thứ ba của tháng Sáu hàng năm. Thế nhưng ở các nước khác Lễ Phụ Thân được giữ theo những ngày khác nhau. Người ta cho rằng ngày Lễ Phụ Thân đầu tiên đã được thực hiện vào Chúa Nhật ngày 19. 06. 1910 ở Spokane, Washington sau nổ lực vận động của Sonora Smart Dodd (1882 - 1978) là một nữ Cơ Đốc Nhân và là con gái của một cựu chiến binh thời nội chiến tên là William Jackson Smart (1842 - 1919). Mẹ của Sonora đã qua đời khi Sonora mới lên năm tuổi. Khi lớn lên bà muốn cả nước phải có một ngày để tưởng nhớ đến công ơn của những người làm cha như cha của mình. Khi Sonora mới bắt đầu vận động sự ủng hộ cho ý tưởng của mình bà đã gặp phải nhiều sự chống đối nhưng bà đã bền chí theo đuổi cho đến cùng. Một đạo luật về vấn đề này đã được đệ trình Quốc Hội năm 1913 và đến năm 1916 Tổng Thống Woodrow Wilson (1856 - 1924, The 28th US President) đã đọc diễn văn tại Lễ Phụ Thân ở Spokane, Washington để bày tỏ ý muốn ngày lễ này phải được chính thức thông qua nhưng sau đó Quốc Hội vẫn không tán thành. Đến năm 1924 Tổng Thống Calvin Coolidge (1872 - 1933, The 30th US President) bắt đầu tham gia cuộc vận động cho Lễ Phụ Thân và đến năm 1930 một ủy ban quốc gia đã được một số hội đoàn hiệp lại lập ra để tiếp tục đấu tranh cho việc hợp pháp hóa ngày lễ. Cuộc vận động cứ tiếp diễn mãi cho đến năm 1966 Tổng Thống Lyndon B. Johnson (1908 - 1973, The 36th US President) đã chính thức tuyên bố ngày Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu hàng năm là ngày Lễ Phụ Thân. Cuối cùng, Lễ Phụ Thân đã chính thức được kể là quốc lễ sau khi Tổng Thống Richard Nixon (1913 - 1994, The 37th US President) ký một tuyên bố về ngày lễ này năm 1972. Mặc dầu Kinh Thánh không hề chỉ định bất cứ ngày nào là ngày để tưởng nhớ công ơn của người làm cha cả nhưng đồng thời Kinh Thánh cũng cho thấy việc đề cao chức phận cha, nhất là đối với người giữ vai trò tiên phong trên một lĩnh vực nào đó; chẳng hạn như nghề chăn nuôi du mục mà người đứng đầu là Giabanh, hay nghề chế tác và sử dụng nhạc khí là Giubanh, hoặc nghề rèn là TubanhCain: “17Đoạn, Cain ăn ở cùng vợ mình, nàng thọ thai và sanh được Hênóc; Cain xây một cái thành đặt tên là Hênóc, tùy theo tên con trai mình. 18Rồi, Hênóc sanh Yrát; Yrát sanh Mêhudaên; Mêhudaên sanh Mêtusaên; Mêtusaên sanh Lêméc. 19Lêméc cưới hai vợ; một người tên là Ađa, một người tên là Sila. 20Ađa sanh Giabanh; Giabanh là tổ phụ của các dân ở trại và nuôi bầy súc vật. 21Em người là Giubanh, tổ phụ của những kẻ đánh đàn và thổi sáo. 22Còn Sila cũng sanh TubanhCain, là người rèn đủ thứ khí giới bén bằng đồng và bằng sắt. Em gái của TubanhCain là Naama” (Sáng. 4:17-21) Việc Đức Chúa Trời xem trọng chức phận cha còn được nhận thấy rõ hơn qua việc Ngài phán với Ápraham: “Thiên hạ chẳng còn gọi ngươi là Ápram nữa, nhưng tên ngươi sẽ là Ápraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ của nhiều dân tộc” (Sáng. 17:5) Như vậy vai trò quan trọng của cha (“tổ phụ”, Hb. בא [‘ab] - “cha”) được Kinh Thánh nêu ra khá rõ. Tính quan trọng của chức phận cha được hoàn toàn rõ nét khi Đức Chúa Trời tự nhận chức phận Cha của Ngài: “43Các ngươi có nghe lời phán rằng: Hãy yêu người lân cận, 44Song Ta nói cùng các ngươi rằng: Hãy yêu kẻ thù nghịch, và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi, 45hầu cho các ngươi được làm con của Cha các ngươi ở trên trời; bởi vì Ngài khiến mặt trời mọc lên soi kẻ dữ cùng kẻ lành, làm mưa cho kẻ công bình cùng kẻ độc ác” (Ma. 5:43-45) “…Lạy Cha chúng tôi ở trên trời…” (Ma. 6:9) “30Hỡi kẻ ít đức tin, loài cỏ ngoài đồng, là giống nay còn sống, mai bỏ vào lò, mà Đức Chúa Trời còn cho nó mặc đẹp thể ấy thay, huống chi là các ngươi! 31Ấy vậy, các ngươi chớ lo lắng mà nói rằng: Chúng ta sẽ ăn gì? Uống gì? Mặc gì? 32Vì mọi điều đó, các dân ngoại vẫn thường tìm, và Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi. 33Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (Ma. 6:30-33) Sứ Đồ PhaoLô dạy cho biết rằng tôn trọng cha không chỉ là huấn thị mà còn là điều răn, mà đã là điều răn thì tất phải có giá trị đời đời: “1Hỡi kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ mình trong Chúa, vì điều đó là phải lắm. 2Hãy tôn kính cha mẹ ngươi (ấy là điều răn thứ nhứt, có một lời hứa nối theo), 3hầu cho ngươi được phước và sống lâu trên đất” (Êph. 6:1-3) Như vậy việc giữ Lễ Phụ Thân là một ngày được dành riêng để tôn cao phụ quyền qua việc ghi nhận vai trò và thẩm quyền của người cha trong gia đình và xã hội đồng thời qua đó mà làm cho bền chặt hơn mối liên hệ cha con trong gia đình là một việc làm phản ánh được ý thức vâng lời Đức Chúa Trời về vấn đề tôn trọng chức phận cha. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHONG TRÀO TÚY ÂN SO VỚI QUAN ĐIỂM HỢP KINH THÁNH VỀ ĐỨC THÁNH LINH” (1Cô. 2:12-13) “Về phần chúng ta, chúng ta chẳng nhận lấy thần thế gian, nhưng đã nhận lấy Thánh Linh từ Đức Chúa Trời đến, hầu được hiểu biết những ơn mà chúng ta nhận lãnh bởi Đức Chúa Trời; chúng ta nói về ơn đó, không cậy lời nói mà sự khôn ngoan của loài người đã dạy đâu, song cậy sự khôn ngoan mà Đức Thánh Linh đã dạy, dùng tiếng thiêng liêng để giãi bày sự thiêng liêng.” (1Cô. 2:12-13) GIỚI THIỆU: Tôi nhớ có vài lần được nghe Tiến Sĩ Singleton nói rằng điều cần thiết hiện nay là phải có một sự nhận thức đúng về Đức Thánh Linh trong Hội Thánh Địa Phương. Có nhiều người giữa vòng chúng ta ngại đề cập đến Đức Thánh Linh và Mục Vụ của Ngài. Người ta thường hay nói rằng chỉ tập trung vào Lời Kinh Thánh mà không chú ý gì đến Đức Thánh Linh sẽ khiến cho Hội Thánh khô hạn, còn chỉ tập trung vào Đức Thánh Linh mà không chú ý gì đến Lời Kinh Thánh sẽ làm cho Hội Thánh nổ tung, nhưng một sự gắn bó chặt chẽ và cân bằng giữa Lời Kinh Thánh và Đức Thánh Linh sẽ giúp cho Hội Thánh tăng trưởng vững chắc. Điều rõ ràng là ngày nay một trong những chủ đề thần học gây nhiều tranh luận nhất là về Đức Thánh Linh. Giáo lý Kinh Thánh về Đức Thánh Linh được trình bày đầy đủ hơn trong Kinh Thánh Tân Ước. Thế nhưng cũng cần nên biết rằng có đến hai mươi ba Sách Cựu Ước đề cập Đức Thánh Linh. Chỉ riêng trong các Sách Cựu Ước đã có đến tám mươi tám lần Đức Thánh Linh được nhắc đến. Hãy Suy Nghĩ Về Điều Này… Sự thật là cả trong thời kỳ “Cơ Đốc Giáo Côrinhtô” mà Sứ Đồ PhaoLô sống lẫn trong thời kỳ “Cơ Đốc Giáo Túy Ân” mà chúng ta sống ngày nay đề có một sự bóp méo về vai trò của Đức Thánh Linh. Khái Quát Về Giáo Lý Đã Bị Ngộ Độc… Rõ ràng là đã có những tín hữu thật bị đánh lừa và đã trở thành người trong Phong Trào Túy Ân. Tuy nhiên, cũng cần phải ghi nhận là ngay từ trong gốc gác của Phong Trào Túy Ân đã có nhiều loại sự tin tưởng khác nhau do các loại thần học ngộ độc tạo ra. Sau đây là một số điểm chính mà Phong Trào Túy Ân tin: 1. “Nếu Chưa Biết Nói Tiếng Lạ Tức Là Chưa Được Cứu” Lẽ Thật Kinh Thánh là “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời” (Êph. 2:8). Đặc trưng của đức tin thật theo Kinh Thánh sống trong Ân Điển theo tình yêu thương, tách ly với thế gian tội lỗi. 2. “Nếu Chưa Biết Nói Tiếng Lạ Tức Là Chưa Đầy Dẫy Đức Thánh Linh” Lẽ Thật Kinh Thánh là nếu ai chưa có Đức Thánh Linh thì người ấy chưa được cứu: “Về phần anh em, nếu thật quả Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong mình, thì không sống theo xác thịt đâu, nhưng theo Thánh Linh; song nếu ai không có Thánh Linh của Đấng Christ, thì người ấy chẳng thuộc về Ngài” (Rô. 8:9) 3. “Nếu Người Ta Hiệp Ý Với Nhau Tất Đức Chúa Trời Sẽ Thuận Theo Ý Của Họ” Lẽ Thật Kinh Thánh cho thấy rằng Chúa sẽ nhậm lời cầu nguyện nhưng lời cầu nguyện phải phục theo ý chỉ của Đức Chúa Trời: “Anh em phải nói trái lại: Ví bằng Chúa muốn, và ta còn sống, thì ta sẽ làm việc nọ việc kia” (Gia. 4:15) 4. “Nếu Cầu Nguyện Đúng Cách Đức Chúa Trời Sẽ Chữa Lành Cho Người Bệnh” Có một sự hiểu sai đối với Ês. 53:5, “Nhưng người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương, Bởi sự sửa phạt người chịu chúng ta được bình an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bịnh”. Lẽ Thật Kinh Thánh này cho biết Sự Đền Tội Thay có giải quyết vấn đề hậu quả của tội lỗi. Lẽ Thật Kinh Thánh cũng cho biết rằng Sự Đền Tội Thay cũng có tác dụng đảo ngược hậu quả của rội lỗi. Tuy nhiên, Lời Kinh Thánh này không hề dạy rằng các tín hữu có “quyền” đối với sự chữa lành thể theo Sự Đền Tội Thay. 5. “Có Những Tín Hữu Được Xức Dầu Khiến Họ Trở Nên Ưu Đẳng Hơn” Mặc dầu dưới thời Cựu Ước đã từng có những người được chọn để thi hành những công vụ đặc biệt và rất có thể họ đã được xức dầu bởi Thiên Thượng nhưng dưới Định Kỳ Ân Điển (Định Kỳ Hội Thánh) Kinh Thánh cho biết rằng mọi tín hữu thật đều đã được xức dầu chứ chẳng có ai là tín hữu cao cấp hơn ai: “Vả, Đấng làm cho bền vững chúng tôi với anh em trong Đấng Christ, và đã xức dầu cho chúng tôi, ấy là Đức Chúa Trời” (2Cô. 1:21). 6. “Đức Chúa Trời Vẫn Còn Đang Ban Cho Các Sứ Điệp Tiên Tri Và Có Thẩm Quyền Ngoài Kinh Thánh” 7. “Làm Cho Tất Cả Con Cái Ngài Trở Nên Giàu Có, Thịnh Vượng Là Chương Trình Của Đức Chúa Trời” Đức Chúa Trời Dành Cho Dân Ngài. 8. “Chiêm Bao, Khải Tượng Là Bộ Phận Của Sự Khải Thị Mới” 9. “Cường Điệu Về Vấn Đề Quyền Lực Của Satan” 10. “Không Quan Tâm Đến Các Nguyên Tắc Kinh Thánh Về Vấn Đề Vai Trò Của Nam Giới Và Nữ Giới Trong Hội Thánh” 11. “Hiểu Sai Về Bản Chất Và Mục Đích Của Phép Lạ” 12. “Hiểu Sai Về Phép Báptêm Thánh Linh Và Sự Đầy Dẫy Đức Thánh Linh” 13. “Sự Nhấn Mạnh Đối Với Kinh Nghiệm Là Yếu Tố Chính Cho Xu Hướng Truyền Giảng Quyền Năng Giữa Vòng Phong Trào Túy Ân” Chúng ta sẽ nhận thấy rằng ở đây Sứ Đồ PhaoLô tiếp tục tập trung giải quyết một vấn để giúp cho các tín hữu ở Côrinhtô hiệp nhất, đó là một quan điểm thống nhất và cố kết về Tin Lành. Sứ Đồ PhaoLô giải thích về vai trò của Đức Thánh Linh trong đời sống của người tín hữu. Ở đây cũng như ở các phần sau chúng ta sẽ nhận ra rằng đã từng có một sự ngộ nhận đáng kể về Đức Thánh Linh. Những sự ngộ nhận như thế vẫn cứ còn cho đến ngày nay. Bốn chức năng của Đức Thánh Linh mà chúng ta cần phải học biết là… I. Đức Thánh Linh Dò Xét (C. 10-11) A. Sự hiểu biết thuộc linh đến từ Đức Thánh Linh. Điều này thuộc về Mục Vụ Soi Sáng của Đức Thánh Linh (C. 10-11). B. Sự hiểu biết thuộc linh chỉ đến từ Đức Thánh Linh khi người tín hữu biết tìm kiếm sự “sâu nhiệm” của Đức Chúa Trời trong Lời Ngài (C. 10b) II. Đức Thánh Linh Ở Cùng Tín Hữu (C. 12) A. Tất cả mọi tín hữu đều được Đức Thánh Linh ở cùng. Sự ở cùng này chẳng phải chỉ vì sự cứu rỗi mà còn là để cho họ “được hiểu biết những ơn mà chúng ta nhận lãnh bởi Đức Chúa Trời” (C. 12). “Sự Ở Cùng” của Đức Thánh Linh là sự ở cùng vĩnh viễn vốn đã được khởi xuất từ sự tái sinh cho mỗi tín hữu. 1. “Sự Ở Cùng” của Đức Thánh Linh là phổ quát cho mọi tín hữu (Rô. 8:9; 1Cô. 12:13). 2. Đức Thánh Linh ở trong thân thể của tín hữu (Gi. 7:37-39; 1Cô. 3:16; 6:19). 3. Sự Ở Cùng của Đức Thánh Linh là một “sự ban cho” (Công.2:38; 10:45; 11:17). 4. Sự Ở Cùng của Đức Thánh Linh xảy ra tức thì và tồn tại vĩnh viễn (Gi. 14:16). B. Sự Ở Cùng này của Đức Thánh Linh là kết quả của việc được báptêm trong Đức Thánh Linh. hãy chú ý vài đặc điểm sự báptêm trong Đức Thánh Linh. 1. Sự báptêm trong Đức Thánh Linh chỉ có trong Định Kỳ Hội Thánh. Khi đề cập đến sự báptêm trong Đức Thánh Linh các Sách Tin Lành đã đề cập như một sự kiện tương lai vậy (Ma. 3:11; Mác 1:8; Lu. 3:16; Gi. 1:33). Điều này không có nghĩa là các thánh đồ Cựu Ước đã không hề được tái sinh hay đầy dẫy Đức Thánh Linh. Điều này chỉ có nghĩa là các thánh đồ Cựu Ước đã không hề được báptêm vào Thân Thể của Đấng Christ tức là Hội Thánh. 2. Ngày Lễ Ngũ Tuần (mười ngày sau khi Đức Chúa Jêsus thăng thiên về Thiên Đàng) đánh dấu sự bắt đầu của sự báptêm trong Đức Thánh Linh (Công. 1:5; Công. 11:15-16). 3. Trong tương lai, Cuộc Đón Nhận của Đức Chúa Jêsus sẽ kết thúc Sự báptêm trong Đức Thánh Linh (1Tê. 4:16-17). 4. Sự báptêm trong Đức Thánh Linh là phổ quát cho mọi tín hữu thật trong Định Kỳ Hội Thánh (1Cô. 12:13; Êph. 4:5). 5. Sự báptêm trong Đức Thánh Linh đã diễn ra tại lúc một người được tái sinh và sẽ không bao giờ tái diễn cả. 6. Sự báptêm trong Đức Thánh Linh không đến từ kinh nghiệm mà cũng không được đặt nền tảng trên sự kinh nghiệm. Sự báptêm trong Đức Thánh Linh là một sự qui định và minh thị Thiên Thượng gắn liền với sự quyết nghị xưng công bình Thiên Thượng. Điều này có nghĩa là sự báptêm trong Đức Thánh Linh, từ góc độ của tín hữu, là một sự kiện mang tính thụ nhận chứ không phải tác tạo. Sự báptêm trong Đức Thánh Linh không hề tạo ra bất cứ sự cảm nhận nào của lương tâm hay xúc cảm của thân thể cả. (Xúc cảm có thể vẫn thường gắn liền theo sự kiện được cứu rỗi nhưng chẳng phải vì thế mà xúc cảm là điều kiện ắt có và đủ đối với sự báptêm trong Đức Thánh Linh). 7. Các kết quả của sự báptêm trong Đức Thánh Linh: a. Có được chức phận thành viên trong Thân Thể Đấng Christ tức là Hội Thánh Phổ Quát (1Cô. 12:13). b. Sự hiệp nhất với Chúa (Gal. 3:27; Công. 9:4). c. Sự hiệp nhất với các tín hữu khác trong Hội Thánh (Gi. 17:21-23; Rô. 12:4-5; 1Cô. 12:12). Chú Ý: Sự báptêm trong Đức Thánh Linh không phải là một kinh nghiệm mang tính bước ngoặt theo sau việc nhận được sự cứu rỗi. C. Có nhiều Cơ Đốc Nhân thuần thành vẫn còn lẫn lộn giữa sự báptêm trong Đức Thánh Linh với sự đầy dẫy Đức Thánh Linh. Sau đây là một số đặc điểm của sự đầy dẫy Đức Thánh Linh: 1. Được đầy dẫy Đức Thánh Linh có nghĩa là được Đức Thánh Linh điều khiển. 2. Sự đầy dẫy Đức Thánh Linh không phải là một vấn đề có tính số lượng. Ngay tại lúc một người được cứu, người ấy có được ngay lập tức 100% Đức Thánh Linh chứ không thể là 25%, 50%, hay 75% vì Đức Thánh Linh là một Thân Vị. Thế nhưng chẳng phải Đức Thánh Linh luôn luôn có được 100% sự đầu phục của người tín hữu. Thể theo mức độ người tín hữu đầu phục Đức Thánh Linh, tức kể mình như đã chết về tội lỗi để sống cho Đức Chúa Jêsus, họ sẽ có được mức độ đầy dẫy Đức Thánh Linh tương ứng. Tôi tin rằng có hậu thuẫn Kinh Thánh cho việc hiểu về “mức độ” đầy dẫy Đức Thánh Linh của người tín hữu. 3. Sự đầy dẫy Đức Thánh Linh là một sự kinh nghiệm liên tục. Khác với Mục Vụ của Đức Thánh Linh trong sự báptêm trong Đức Thánh Linh, tái sinh, ở cùng, ấn chứng là những sự kiện chỉ xảy ra có một lần duy nhất còn sự đầy dẫy Đức Thánh Linh là một tiến trình tái diễn liên tục (Sv. Êph. 5:18, động từ ở thì hiện tại). Sự khởi đầu của tiến trình đầy dẫy Đức Thánh Linh xảy ra tại thời điểm một người được cứu chứ không phải xảy ra sau đó hoặc là một sự kinh nghiệm mang tính bước ngoặt gì cả. 4. Kết quả của sự đầy dẫy Đức Thánh Linh: a. Có sức để chống lại sự cám dỗ (Lu. 4:1-2) b. Có năng lực để rao Tin Lành (Công. 4:5-6) c. Có sự dạn dĩ để làm chứng (Công. 4:23, 31) d. Có sự trang bị cho Hội Thánh Địa Phương (Công. 6:1-3) e. Có sự dũng cảm đối với sự chết (Êtiên trong Công. 7:54-58) f. Có quyền năng để cao rao Danh của Đức Chúa Jêsus (Công. 9:17-20) g. Có bông trái của Đức Thánh Linh (Gal. 5:22-23) h. Có sự cảm tạ và chúc tụng trong lòng (Êph. 5:18-21) 5. Điều kiện để được đầy dẫy Đức Thánh Linh: a. Sự đầu phục (Rô. 6:13) b. Sự xưng tội (Êph. 4:30) c. Sự nương cậy Đức Thánh Linh (Gal. 5:16) d. Đức tin được đổi mới bằng việc kể như chết về tội lỗi và sống cho Đức Chúa Jêsus (Rô. 6:11) e. Việc đáp ứng đối với các sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời. Chẳng có một mệnh lệnh Kinh Thánh nào về việc phải cầu xin cho được đầy dẫy Đức Thánh Linh cả. Chính Đức Chúa Trời sẽ làm cho người tín hữu được đầy dẫy Đức Thánh Linh, tức là Đức Thánh Linh sẽ điều khiển người tín hữu, ngay khi các điều kiện về sự đầy dẫy Đức Thánh Linh được người tín hữu đáp ứng. Đức Chúa Trời có đòi hỏi người tín hữu phải đầy dẫy Đức Thánh Linh (Hê. 5:18) nhưng Ngài không đòi hỏi người tín hữu xin Ngài làm cho họ được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Tuy nhiên, có một sự liên quan giữa việc đầy dẫy Đức Thánh Linh với sự cầu nguyện. Chú Ý: Theo Công. 4:24-31 thì “Khi đã cầu nguyện, thì nơi nhóm lại rúng động; ai nấy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, giảng đạo Đức Chúa Trời cách dạn dĩ” (C. 31). Đoạn văn Kinh Thánh này nhằm mô tả sự việc chứ không hề có ý nói rằng vì có sự cầu nguyện mà việc đầy dẫy Đức Thánh Linh đã xảy ra; dẫu vậy sự cầu nguyện cũng đã được đề cập đến trong đoạn văn Kinh Thánh này. Theo Êph. 3:14-19, Sứ Đồ PhaoLô đã cầu nguyện để xin Đức Chúa Trời, bởi Đức Thánh Linh, thêm sức cho các tín hữu Êphêsô chứ không phải là để đầy dẫy họ. f. Việc đầy dẫy Đức Thánh Linh thường diễn ra trong bối cảnh của các sự kinh nghiệm quan trọng trong đời sống Cơ Đốc nhưng việc đầy dẫy này không đòi hỏi sự kinh nghiệm làm điều kiện. Những kinh nghiệm loại này chỉ đáng nên xem như “những phút vui thần” chứ không nên xem là “những kinh nghiệm đỉnh cao”. III. Đức Thánh Linh Dạy Bảo (C. 13) A. Đức Thánh Linh sẽ dạy cho chúng ta qua Lời Kinh Thánh. Cần ghi nhận là Sứ Đồ PhaoLô viết rằng “chúng ta nói về ơn đó, không cậy lời nói mà sự khôn ngoan của loài người đã dạy đâu, song cậy sự khôn ngoan mà Đức Thánh Linh đã dạy, dùng tiếng thiêng liêng để giãi bày sự thiêng liêng” (C. 13) cho thấy rằng Đức Thánh Linh dạy cho tín hữu “sự khôn ngoan mà Đức Thánh Linh đã dạy”, tức đã được khải thị qua Kinh Thánh. B. Theo Rô. 8:14 thì “con của Đức Chúa Trời” phải được “được Thánh Linh của Đức Chúa Trời dắt dẫn” mà sự dắt dẫn qui chuẩn và phổ quát cả Ngài là qua Lời Ngài trong Kinh Thánh. IV. Đức Thánh Linh Giáo Dưỡng (C. 14-16) A. Đặc trưng của người chưa tin (“người thiên nhiên”) là họ không thể nào hiểu được những gì cần phải có sự phân biệt thuộc linh, “Vả, người có tánh xác thịt không nhận được những sự thuộc về Thánh Linh của Đức Chúa Trời; bởi chưng người đó coi sự ấy như là sự rồ dại, và không có thể hiểu được, vì phải xem xét cách thiêng liêng” (C. 14) B. Đặc trưng của người tín hữu là họ rất quan tâm đến sự phâ biệt thuộc linh, “Nhưng người có tánh thiêng liêng xử đoán mọi sự, và chính mình không bị ai xử đoán” (C. 15). C. Một đặc trưng khác của người tín hữu là họ có ý Chúa, “Vì ai đã biết ý Chúa, đặng dạy dỗ Ngài? Nhưng phần chúng ta, thì có ý của Đấng Christ” (C. 16) KẾT LUẬN: Là những tín hữu của Đức Chúa Jêsus chúng ta phải luôn nhớ rằng Đức Thánh Linh là Ngôi Ba trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời, Ngài là một Thân Vị Thiên Thượng (2Sa. 23:2-3; Công. 5:1-4; 1Cô. 3:16). Chúng ta phải sẵn lòng chịu theo sự điều khiển của Ngài. Chúng ta không được phép sống theo kiểu “thử Thánh Linh của Chúa” (như Anania và Saphira trong Công. 5:9), “nghịch với Đức Thánh Linh” như Êtiên đã quở trách người Ysơraên (Công. 7:51), “khinh lờn Đức Thánh Linh” (Hê. 10:29), hoặc “nói dối cùng Đức Thánh Linh” (Công. 5:3). Nếu ngay giờ này chúng ta chịu đầu phục Ngài thì Ngài sẽ đầy dẫy chúng ta, Ngài sẽ khuyên bảo chúng ta, Ngài sẽ giải thoát chúng ta cũng ngay giờ này! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHẬN SỰ PHỤ HUYNH CƠ ĐỐC” (Châm. 22:6) “Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; Dầu khi nó trở về già, cũng không hề lìa khỏi đó.” (Châm. 22:6) Đối với tất cả mọi người, mệnh lệnh hệ trọng nhất của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh phải là mệnh lệnh này: “Ngươi phải hết lòng, hết ý, hết sức kính mến Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi” (Phục. 6:5). Thế nhưng trước đó, ở câu 2, Lời Chúa phán rằng “hầu cho ngươi kính sợ Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, trọn đời, ngươi và con cháu ngươi vâng giữ các luật lệ và điều răn của Ngài mà ta truyền cho ngươi, để ngươi được sống lâu ngày” (Phục. 6:2). Và, sau câu 5, Lời Chúa lại phán rằng “6Các lời mà ta truyền cho ngươi ngày nay sẽ ở tại trong lòng ngươi; 7khá ân cần dạy dỗ điều đó cho con cái ngươi, và phải nói đến, hoặc khi ngươi ngồi trong nhà, hoặc khi đi ngoài đường, hoặc lúc ngươi nằm, hay là khi chỗi dậy” (Phục. 6:6-7). Lời của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh luôn bao trùm mọi lĩnh vực sống Cơ Đốc, trong đó có phận sự phụ huynh Cơ Đốc. Suốt chiều dài lịch sử của dân Ysơraên các bậc phụ huynh luôn được chỉ dạy là phải chỉ dạy cho con cái họ Lời Chúa và đường lối của Chúa cho sự phát triển thuộc linh và cho cuộc an sinh suốt đời của chúng. Tất cả những gì mà mỗi bậc phụ huynh trung tín nhất thiết phải làm cho được là họ phải “Dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo;_Dầu khi nó trở về già, cũng không hề lìa khỏi đó” (Châm. 22:6). “Dạy” là phận sự đầu tiên mà các bậc phụ huynh được Đức Chúa Trời đòi hỏi phải hoàn thành và đó chính là phận sự trang bị cho con cái một nền giáo dục gia đình cơ bản theo đường lối của Đức Chúa Trời. Chính từ việc dạy dỗ này mà con cái được chỉ cho biết một cách đại cương là chúng phải sống như thế nào cho đẹp ý Ngài. Nền giáo dục căn bản này cho con cái có một tầm quan trọng hết sức đặc biệt. Êph. 6:4 là một sự tóm tắt Tân Ước về các sự hướng dẫn thực hành cho các bậc phụ huynh: “Hỡi các người làm cha, chớ chọc cho con cái mình giận dữ, hãy dùng sự sửa phạt khuyên bảo của Chúa mà nuôi nấng chúng nó” (Êph. 6:4). Phần cấm chỉ đối với các bậc phụ huynh theo câu Kinh Thánh này là đừng tạo ra cho con cái các xúc cảm tiêu cực đối với sự hà khắc, bất công, thiên vị, vô lý trong khi thi hành phụ quyền. Trong quan hệ với con trẻ sự hà khắc, bất công, thiên vị, vô lý chỉ khiến tạo ra trên đời sống chúng những thương tật trên tấm lòng mà thôi. Trong Êph. 6:4, “chọc” (παροργίζω [parorgizo]) có nghĩa là khiến dấy lên và “giận dữ” (παροργίζω [parorgizo]) nói về các phản ứng tiêu cực được tạo ra do bị ức chế bởi sự hà khắc, bất công, thiên vị, vô lý,… Dưới ánh sáng Kinh Thánh, phụ quyền là một phạm trù được Thiên Thượng công nhận nhưng việc sử dụng phụ quyền phải sao cho không hình thành trong con trẻ các thương tật tâm lý, thần kinh có hại cho sự trưởng thành của chúng theo Kinh Thánh. Phần huấn thị đối với các bậc phụ huynh theo câu Kinh Thánh này đi theo hướng ngược lại là họ phải dùng các sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh mà dạy dỗ cho con cái của mình. Ý chỉ của Đức Chúa Trời đối với việc trưởng dưỡng con cái thật rõ ràng, đó là vừa “sửa phạt” (παιδεία [paideia] - “giáo hóa”), vừa “khuyên bảo” (νουθεσία [nouthesia] - “trưởng dưỡng”) nhằm hoàn thành trọn vẹn qui trình giáo dưỡng để giúp trẻ trưởng thành về nhân cách theo thánh ý của Đức Chúa Trời. Mỗi bậc phụ huynh Cơ Đốc là một khí cụ trong tay Đức Chúa Trời cho ý chỉ đời đời của Ngài. Chính vì vậy mà toàn bộ qui trình giáo dưỡng phải được diễn ra đúng theo các mệnh lệnh của Ngài, ở dưới sự dắt dẫn của Ngài, tôn trọng đầy đủ thẩm quyền của Ngài hầu cho lý trí, ý chí, và tình cảm của con cái được thấm nhuần mọi điều dạy dỗ của Ngài. Với một bức tranh toàn cảnh như vậy quyền của các bậc phụ huynh sẽ không khi nào là một thứ quyền theo ý riêng của họ được. Phụ quyền chỉ đúng nghĩa khi phụ huynh biết đặt mình dưới sự dắt dẫn của Đức Chúa Trời. Hễ khi nào phụ huynh vi phạm mệnh lệnh của Đức Chúa Trời về phụ quyền thì phụ quyền của họ bị xâm hại bởi chính họ. Sự giáo hóa và trưởng dưỡng con cái của các bậc phụ huynh phải được thực hành trong sự cầu nguyện cách tỉnh thức. Các bậc phụ huynh có phận sự giáo hóa (“sửa phạt”) nhưng sự giáo hóa của họ phải theo khuôn khổ của Đức Chúa Trời. Các bậc phụ huynh có phận sự trưởng dưỡng (“khuyên bảo”) nhưng sự trưởng dưỡng của họ cũng phải theo khuôn khổ của Đức Chúa Trời. Bất kể là phụ huynh đã sống như thế nào và đã làm gì đối với con cái của họ nhưng nếu họ thiếu một ý thức thường xuyên về việc giáo dưỡng cho con cái của họ biết kính sợ Đức Chúa Trời và thuận phục phụ quyền để sống tự chủ theo các phẩm hạnh Cơ Đốc thì họ vẫn chưa hoàn thành phận sự phụ huynh của mình. “16Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, 17hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (2Ti. 3:16-17). Phụ huynh phải là phụ huynh theo Kinh Thánh và con cái cũng phải là con cái theo Kinh Thánh. Các bậc phụ huynh trước hết phải giữ mình theo Lời Kinh Thánh để có thể trưởng dưỡng con cái của họ theo Lời Kinh Thánh. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
|
Author“Side-By-Side Support Archives
December 2022
Categories |