“HÃY NGHIÊN CỨU KINH THÁNH CHO SỰ VIÊN THỤC THUỘC LINH CỦA CHÚNG TA!” (2Ti. 2:15) “Hãy chuyên tâm cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời như người làm công không chỗ trách được, lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật.” (2Ti. 2:15) Nhìn chung, sự tăng trưởng thuộc linh là tiến trình trở nên giống với Đức Chúa Jêsus Christ. Trên phương diện Đức Chúa Trời, khi chúng ta đặt niềm tin mình trong Đức Chúa Jêsus, Đức Thánh Linh bắt đầu một tiến trình làm cho chúng ta trở nên giống Đức Chúa Jêsus qua việc biến đổi chúng ta theo hình ảnh của Ngài. Trên phương diện phận sự Cơ Đốc, sự tăng trưởng thuộc linh là mệnh lệnh của Đức Chúa Trời đối với mọi Cơ Đốc Nhân chúng ta: “Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ. Nguyền xin vinh hiển về nơi Ngài, từ rày đến đời đời! Amen” (2Phi. 3:18) Dầu vậy, trước khi mệnh lệnh này được ban truyền thì Lời của Đức Chúa Trời đã khẳng định với chúng ta rằng Ngài sẽ chẳng để cho Cơ Đốc Nhân chúng ta phải thiếu thốn bất cứ chi cho cuộc tăng trưởng “trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta”: “3Quyền phép Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta mọi điều thuộc về sự sống và sự tin kính, khiến chúng ta biết Đấng lấy vinh hiển và nhân đức mà gọi chúng ta, 4và bởi vinh hiển nhân đức ấy, Ngài lại ban lời hứa rất quí rất lớn cho chúng ta, hầu cho nhờ đó anh em được lánh khỏi sự hư nát của thế gian bởi tư dục đến, mà trở nên người dự phần bổn tánh Đức Chúa Trời. 5Vậy nên, về phần anh em, phải gắng hết sức thêm cho đức tin mình sự nhân đức, thêm cho nhân đức sự học thức, 6thêm cho học thức sự tiết độ, thêm cho tiết độ sự nhịn nhục, thêm cho nhịn nhục sự tin kính, 7thêm cho tin kính tình yêu thương anh em, thêm cho tình yêu thương anh em lòng yêu mến. 8Vì nếu các điều đó có đủ trong anh em và đầy dẫy nữa, thì ắt chẳng để cho anh em ở dưng hoặc không kết quả trong sự nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta đâu” (2Phi. 1:3-8) Tăng trưởng thuộc linh “trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta” là trở nên một Cơ Đốc Nhân trưởng thành. Chúng ta đã được cứu “nhờ ân điển, bởi đức tin” (Sv. Êph. 2:8-9) và chúng ta cũng đồng thời nhờ duy nhất Ân Điển của Đức Chúa Trời mà được nên thánh. Thật vậy, chúng ta đã được nhận điều mà chúng ta chẳng xứng đáng nhận được. Ấy là bởi Ân Điển của Đức Chúa Trời mà chúng ta đã được xưng công nghĩa, đã khởi sự được nên thánh, và nhiên hậu chúng ta sẽ được vinh hiển trên Thiên Đàng. Tiến trình nên thánh là tiến trình chúng ta trở nên giống với Đức Chúa Jêsus Christ và đó chính là tiến trình tăng trưởng thuộc linh “trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta”. Chúng ta tăng trưởng “trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta” qua việc chúng ta đọc Kinh Thánh và để cho Lời Kinh Thánh “ở đầy trong lòng” chúng ta và chúng ta sẽ được “dư dật mọi sự khôn ngoan” (Sv. Côl. 3:16). Dầu rằng việc trưởng thành và trở nên viên thục Cơ Đốc không tùy thuộc vào điều chúng ta làm mà là tùy thuộc vào sự vận hành của Lời Đức Chúa Trời trong đời sống chúng ta nhưng phận sự phải nghiên cứu Lời Kinh Thánh là điều chúng ta không thể khước từ được. Việc hiểu và áp dụng Lời Kinh Thánh hết sức quan trọng. Chúng ta không được phép làm cho Lời Kinh Thánh trở nên mất tác dụng vì sự kiêu ngạo của chúng ta vì khi chúng ta kiêu ngạo thì chúng ta không còn nhận được Ân Điển của Đức Chúa Trời nữa (Sv. Gia. 4:6). Chính Ân Điển của Đức Chúa Trời sẽ xuyên thấu sức mạnh của tội lỗi vần còn cứ mãn bám trong bản chất người của chúng ta để chúng ta được biến đổi theo hình ảnh của Con Ngài. Kinh Thánh “Có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình” (Sv. 2Ti. 3:16b). Chúng ta phải nghiên cứu Kinh Thánh vì bản thể của Đức Chúa Trời là bất biến và bản chất của con người là bất trị, những gì Lời Kinh Thánh phán về chúng ta đều đã dúng, vẫn đang đúng, và sẽ cứ còn đúng. Trong khi cả nhân loại cứ miệt mài tìm kiếm cho mình sự thỏa mãn trong những sự chẳng bao giờ thỏa mãn được thì Đức Chúa Trời vẫn thành tín phán cho chúng ta biết qua Lời Ngài về nguồn sống và niềm vui vĩnh cữu ở trong Ngài rằng “Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời” (Ma. 4:4). Muốn sống cuộc sống này theo những chiều kích phong phú nhất và theo cách đẹp ý Đức Chúa Trời nhất chúng ta phải nghiên cứu để hiểu biết ý chỉ của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta, tin quyết, giữ lấy, và làm theo nhờ chính quyền năng Ngài (Sv. Php. 2:13). Chúng ta phải nghiên cứu Kinh Thánh vì có quá nhiều sự giảng dạy sai trái, phi Kinh Thánh, và phản Kinh Thánh. Kinh Thánh sẽ ban cho chúng ta chuẩn mực để phân biệt chân giả, vàng thau chẳng những đối với cả hệ thống tư tưởng, triết học, và tôn giáo trong thế gian mà cũng còn trong nội bộ thế giới Cơ Đốc nữa. Kinh Thánh sẽ phán cho chúng ta biết thật ra Đức Chúa Trời là như thế nào và điều này rất quan trọng vì một khi hiểu sai về Đức Chúa Trời thì không thể nào thờ phượng Ngài cho đúng được. Kinh Thánh sẽ phán cho chúng ta biết nhờ đâu mà người ta thực sự được vào Thiên Đàng (Sv. Gi.14:6; Êph. 2:1-10; Ês.53:6; Rô. 3:10-18, 5:8, 6:23, 10:9-13). Kinh Thánh sẽ phán cho chúng ta biết Đức Chúa Trời yêu chúng ta ra sao (Sv. Rô. 5:6-8; Gi. 3:16) để rồi đến lượt chúng ta cũng sẽ yêu Ngài (Sv. 1Gi. 4:19). Chúng ta phải nghiên cứu Kinh Thánh vì Kinh Thánh trang bị để chúng ta hầu việc Đức Chúa Trời (Sv. 2Ti. 3:17; Êph. 6:17; Hê. 4:12). Kinh Thánh sẽ giúp chúng ta biết phải như thế nào để được cứu ra khỏi tội và hậu quả của tội (Sv. 2Ti. 3:15). Việc suy gẫm và vâng theo Lời Kinh Thánh sẽ giúp cho chúng ta thành công trong cuộc sống (Sv. Giô. 1:8; Gia. 1:25). Lời Kinh Thánh sẽ giúp chúng ta nhận ra tội lỗi trong đời sống mình để quyết lòng từ bỏ (Sv. Thi. 119:9, 11). Lời Kinh Thánh có tác dụng soi đường dẫn lối cho chúng ta và làm cho chúng ta trở nên khôn ngoan (Sv. Thi. 32:8, 119:99; Châm. 1:6). Kinh Thánh sẽ giúp cho chúng ta khỏi lãng phí đời sống mình qua việc theo đuổi những điều không đáng theo đuổi (Sv. Ma. 7:24-27). Chúng ta phải nghiên cứu Kinh Thánh đúng cách để có thể hiểu đúng nghĩa đã định của Đức Chúa Trời đối với từng lời trong Kinh Thánh và việc ấy là phận sự quan trọng nhất đối với mọi đệ tử Kinh Thánh. Đức Chúa Trời không truyền cho chúng ta chỉ đơn giản đọc Lời Kinh Thánh và cảm nhận theo cảm thức riêng của mình mà phải nghiên cứu chuyên cần, thấu đáo (Sv. 2Ti. 2:15). Nghiên cứu Kinh Thánh là một việc khó nhưng việc chỉ xem lướt qua Lời Kinh Thánh thường khiến chúng ta kết luận sai. Để nghiên cứu Kinh Thánh đúng cách phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định. Trước hết, để nghiên cứu Kinh Thánh chúng ta phải cần có sự soi sáng của Đức Thánh Linh. “Lúc nào Thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến” (Gi. 16:13). Đức Thánh Linh đã thần cảm cho các Sứ Đồ trước thuật Kinh Thánh, Ngài đang sẵn sàng soi sáng cho các đệ tử Kinh Thánh hiểu Lời Kinh Thánh qua sự nghiên cứu chuyên tâm của họ. Chúng ta phải cầu xin sự soi sáng của Đức Thánh Linh khi chúng ta nghiên cứu Kinh Thánh. Tiếp theo, chúng ta không được phép lấy lời được chép trong Kinh Thánh ra khỏi văn mạch để gán ghép ý nghĩa mà chúng ta muốn. Trái lại, chúng ta phải đọc cách thận trọng các câu, tiểu đoạn, và đoạn liền trước và tiếp sau phần Kinh Thánh chúng ta nghiên cứu để định cho được nội hàm và ngoại diên liên quan. Dầu rằng Lời Kinh Thánh đến từ Đức Chúa Trời nhưng Ngài đã dùng các Trước Giả để trước thuật (Sv. 2Ti. 3:16; 2Phi. 1:21) cho nên các Trước Giả đã trước thuật Kinh Thánh với những chủ đề, mục đích, và đề tài nhất định trong tâm trí họ. Chúng ta phải nắm vững bối cảnh của từng Sách Kinh Thánh, từng vấn đề giáo lý, thần học trong khi nghiên cứu Kinh Thánh mới có thể biết được ai là Trước Giả, độc giả là ai, thời điểm và lý do trước thuật,… Phải bằng mọi giá giữ sao cho Lời Kinh Thánh phán điều Đức Chúa Trời muốn phán. Phải tuyệt đối tránh gán cho Lời Kinh Thánh nghĩa mà chúng ta muốn gán. Sau cùng, chúng ta phải cố gắng tránh thái độ tự quyết trong sự nghiên cứu Kinh Thánh. Nghĩ rằng chúng ta không cần phải tham chiếu các công trình nghiên cứu công phu của người khác để hiểu biết thêm là kiêu ngạo. Nghĩ rằng chúng ta chẳng cần nghiên cứu gì cả mà phải để tự nhiên cho Đức Thánh Linh “phán” một cách mật nhiệm với chúng ta về ý nghĩa của Lời Kinh Thánh là lếu láo. Phải biết rằng cùng với việc ban Đức Thánh Linh cho các Cơ Đốc Nhân Đức Chúa Jêsus Christ cũng đã ban cho Hội Thánh Ngài những con người có các ân tứ thuộc linh nhất định để giúp gây dựng Hội Thánh vững mạnh và vì vậy chúng ta không được phép có thái độ bất cần đối với họ (Sv. Êph. 4:11-12; 1Cô. 12:28). Các Mục Sư và Giáo Sư là quà tặng của Đức Chúa Trời cho Hội Thánh Ngài để giúp Dân Ngài hiểu biết và vâng theo ý Ngài. Thế giới chúng ta đang sống chứa hai thế giới: Thế giới của những người tin Đức Chúa Jêsus và thế giới của những người chưa tin Ngài. Trong thế giới của những người tin Đức Chúa Jêsus cũng chứa hai thế giới: Thế giới của những người thực sự tin và theo Đức Chúa Jêsus và thế giới của những người tự nhận là tin nhưng chưa theo Ngài cách hợp Kinh Thánh. Tôi có một ước mơ cháy bỏng trong lòng mình là muốn thấy ngày càng có nhiều người ham thích nghiên cứu Kinh Thánh hơn, ngày càng có nhiều người nghiên cứu Kinh Thánh đúng cách hơn, ngày càng có nhiều người hiểu biết Đức Chúa Trời cách hợp Kinh Thánh hơn, ngày càng có nhiều người sống để làm đẹp ý Đức Chúa Trời theo Kinh Thánh hơn. Tôi khát khao được góp phần tích cực nhất của mình cho việc phân rõ ranh giới giữa hai thế giới: Thế giới của của những người toàn tâm theo Chúa và thế giới của những người theo Chúa cách tắc trách. “Vàng ơi, hãy đứng riêng ra, để cho thau đi đường của nó. Đừng theo!” (Sv. Tít 3:10) (Rev. Doan Nhat Tan, PhD) ![]()
“LƯƠNG SƯ HƯNG HỘI!” (Tít 2:1) “Nhưng con hãy dạy điều hiệp với đạo lành.” (Tít 2:1) Giữa vòng Hội Thánh ngày nay có một sự khô hạn trong việc giảng dạy Lời Kinh Thánh. Việc các sự giảng dạy phi Kinh Thánh và phản Kinh Thánh mỗi ngày càng tràn lan nói lên được sự yếu kém của Hội Thánh đối với mệnh lệnh Kinh Thánh rằng phải “dạy điều hiệp với Đạo Lành” (Tít 2:1). Càng ngày Hội Thánh càng cần có những người nam, người nữ có thể giúp cho Dân Sự của Đức Chúa Trời nghe được một cách trung thực tiếng phán của Ngài và vâng theo. Việc muốn có được một thế hệ Giáo Sư Kinh Thánh mới “để các thánh đồ được trọn vẹn về công việc của chức dịch và sự gây dựng Thân Thể Đấng Christ” (Êph. 4:12) phải là một sự cầu nguyện thiết tha và chuẩn bị rốt ráo đối với những ai thực sự kính yêu Đức Chúa Trời, muốn cho Danh Thánh của Ngài được vinh hiển. Có một số vấn đề liên quan đến nhu cần người giảng dạy Kinh Thánh. Thứ nhất, phải có một sự quan tâm đến số lượng người dạy. Hiện có rất nhiều “giáo sư” nhưng có quá ít Giáo Sư! Thời điểm mà Sứ Đồ Phaolô cảnh báo trước cho chúng ta đã đến: “3Vì sẽ có một thời kia, người ta không chịu nghe Đạo Lành; nhưng vì họ ham nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo sư xung quanh mình, 4bịt tai không nghe Lẽ Thật, mà xây hướng về chuyện huyễn” (2Ti. 4:3-4) Hậu quả của hiện tượng ấy thật tai hại vô cùng: “Dân ta bị diệt vì cớ thiếu sự thông biết. Bởi ngươi bỏ sự thông biết thì ta cũng bỏ ngươi, đặng ngươi không làm Thầy Tế Lễ cho ta nữa; bởi ngươi đã quên Luật Pháp của Đức Chúa Trời mình, thì ta cũng sẽ quên con cái ngươi” (Ô. 6:4) Phần lớn các “giáo sư”, và các tác phẩm của họ, đều rất giỏi trong việc “đục khoét” những điều mà người nghe, người đọc hứng thú. Trong khi đó, các Giáo Sư Kinh Thánh lại thường thiếu về “số lượng”, yếu về “tốc độ”, và tất nhiên là họ không dám đánh lừa người nghe, người đọc bằng “những lời êm tai”. Thứ hai, phải có một sự quan tâm về chất lượng giảng dạy. Môi trường sống trên địa cầu mỗi ngày càng kém “xanh và sạch” như thế nào thì Hội Thánh của Đức Chúa Trời càng ngày cũng càng sa sút trong việc trang bị các tín hữu “xanh và sạch” để sống tôn qui vinh hiển Đức Chúa Trời. Chúng ta phải quan tâm đến chất lượng giảng dạy Kinh Thánh giữa vòng Hội Thánh. Phận sự của chúng ta là phải ngăn chống nạn “mù chữ Kinh Thánh” (biblical illiteracy) và khuynh hướng tăng về xúc cảm nhưng giảm về đức tin khiến tạo nên những con người què quặt về Kinh Thánh (biblical cripple) là những người có một cách hiểu Kinh Thánh phụ thuộc vào khuynh hướng thông giải Kinh Thánh phi và phản Kinh Thánh của người khác. Đối với những ai thật lòng kính yêu Đức Chúa Trời và Hội Thánh của Ngài thì hiện giờ là thời kỳ để dấn thân hầu việc Ngài một cách hết lòng trong mục vụ giảng dạy Kinh Thánh hợp Kinh Thánh. Việc dạy Kinh Thánh là hết sức cần thiết để chống lại sự suy thoái này. Chúng ta không thể làm gì khác hơn là thật lòng yêu thương những người nam, người nữ đang cần được trưởng thành trong Lời Kinh Thánh và biết làm thế nào để giảng dạy Lời Kinh Thánh cho họ một cách đầy hiệu quả. Để có thể được như thế, người Giáo Sư Kinh Thánh phải: 1. Có một mối nhiệt tâm đối với Lời Đức Chúa Trời và đối với sự cầu nguyện. 2. Có một mục tiêu rõ ràng là muốn được gia tăng kiến thức Kinh Thánh của mình về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. 3. Chú trọng đến nhu cần của Học Viên, yêu thương họ và muốn thấy họ được trưởng thành thuộc linh. 4. Nhận thức rõ được rằng dầu hiện nay Học Viên là người học nhưng họ là môn đồ của Đức Chúa Jêsus, và họ sẽ là Mục Sư, Giáo Sư, Giáo Sĩ của Ngài trong tương lai. 5. Thành thạo trong việc giúp cho lớp học có được sự hứng thú và tham gia tích cực vào tiến trình giảng dạy_học tập. 6. Giảng dạy một cách dạn dĩ vì biết rõ rằng Đức Chúa Trời muốn cho Học Viên được thay đổi về tâm trí, tâm tình, đời sống. 7. Có khả năng đào sâu đúng hướng, hợp đối tượng các đề tài giảng dạy một cách hợp Kinh Thánh. 8. Tránh không để rơi vào tình trạng chỉ lặp lại những gì mình đã được người khác dạy mà phải truyền đạt sứ điệp Kinh Thánh một cách hết mình. 9. Không bao giờ ngừng nghiên cứu, học tập. (Rev. Doan Nhat Tan, PhD) ![]()
“ÍCH LỢI CỦA KỶ LUẬT THUỘC LINH BẢN THÂN” (Php. 3:14) “Nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ.” (Php. 3:14) Không thể có đường tắt cho sự hình thành thuộc linh. Kinh Thánh khuyến khích chúng ta “nhắm mục đích mà chạy” bằng một ý thức nương cậy (quyền năng Đức Thánh Linh) một cách thường trực và một nền nếp kỷ luật bản thân ổn định. Kỷ luật thuộc linh bảo đảm cho việc hình thành thực tại thuộc linh trong đời sống cá nhân: “12Ấy không phải tôi đã giựt giải rồi, hay là đã đến nơi trọn lành rồi đâu, nhưng tôi đương chạy hầu cho giựt được, vì chính tôi đã được Đức Chúa Jêsus Christ giựt lấy rồi. 13Hỡi anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, 14nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Php. 3:12-14) Chúng ta có thể kể ra một số trong số rất nhiều các sự ích lợi mà một đời sống biết giữ kỷ luật bản thân có thể có được: 1. Giúp ích cho việc bắt chước Đức Chúa Jêsus Christ (để chúng ta có thể ứng xử một cách đẹp ý Đức Chúa Trời). 2. Rèn tập cho ý chí kiên trì (theo đuổi những con đường dẫn đến hình thành và tăng trưởng đời sống thuộc linh). 3. Có tác dụng như qui tắc của hành vi (để có thể hình thành và phát triển kỷ năng sống xứng hiệp theo các sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời). 4. Giúp giữ được viễn cảnh và phương hướng (để có thể tiến được đến các mục đích sống theo ý muốn của Đức Chúa Trời). 5. Giục nhắc thường xuyên về phận sự hình thành và tăng trưởng đời sống thuộc linh. 6. Trang bị các nguồn năng cần thiết để chống lại sức mạnh của thế gian, xác thịt, và Ma Quỉ. 7. Giúp giải thoát khỏi sự ràng buộc của các hoàn cảnh hay thay đổi (nhờ biết hướng về các sự thuộc Thiên Thượng). 8. Là phương tiện cho việc thay đổi con người bề trong. 9. Giúp đắc thắng các thói quen có tội và hình thành các thói quen đẹp ý Đức Chúa Trời. 10. Làm tăng lòng ham thích sống đẹp ý Đức Chúa Trời. (Rev. Doan Nhat Tan, PhD) ![]()
“HAI CÁCH TIẾP CẬN KINH THÁNH” (Thi. 119:18) “Xin Chúa mở mắt tôi, để tôi thấy Sự lạ lùng trong Luật Pháp của Chúa…” (Thi. 119:18) “Mắt” của chúng ta không những cần phải được mở ra để nhận thức vũ trụ của Đức Chúa Trời mà còn để hiểu được Lời Ngài trong Kinh Thánh: “Xin Chúa mở mắt tôi, để tôi thấy_Sự lạ lùng trong Luật Pháp của Chúa…” (Thi. 119:18) “7Luật Pháp của Đức Giêhôva là trọn vẹn, bổ linh hồn lại;_Sự chứng cớ Đức Giêhôva là chắc chắn, làm cho kẻ ngu dại trở nên khôn ngoan._8Giềng mối của Đức Giêhôva là ngay thẳng, làm cho lòng vui mừng;_Điều răn của Đức Giêhôva trong sạch, làm cho mắt sáng sủa._9Sự kính sợ Đức Giêhôva là trong sạch, hằng còn đến đời đời;_Các mạng lịnh của Đức Giêhôva là chân thật, thảy đều công bình cả._10Các điều ấy quí hơn vàng, thật báu hơn vàng ròng;_Lại ngọt hơn mật, hơn nước ngọt của tàng ong” (Thi. 19:7-10) Dầu rằng Lời Kinh Thánh của Đức Chúa Trời có tác dụng “mở mắt”, nhưng không phải chỉ có một cách tiếp cận với Lời Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh, và cũng không phải cách tiếp cận nào đối với Kinh Thánh cũng đem lại kết quả giống nhau. Hai cách tiếp cận phổ biến đối với Lời Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh là (1) Đọc Kinh Thánh theo hướng thu thập kiến thức, và (2) Đọc Kinh Thánh theo hướng chuyển hóa con người… (Rev. Doan Nhat Tan, PhD) ![]()
“ĐỪNG SỬA LỜI KINH THÁNH CÁCH TÙY TIỆN” (Hê. 5:11-14) “Về sự đó, chúng ta có nhiều điều nên nói, và khó cắt nghĩa, vì anh em đã trở nên chậm hiểu. Đáng lẽ anh em đã làm thầy từ lâu rồi, nay còn cần người ta lấy những điều sơ học của lời Đức Chúa Trời mà dạy anh em; anh em cần ăn sữa thay vì đồ ăn đặc. Vả, kẻ nào chỉ ăn sữa thôi, thì không hiểu đạo công bình;vì còn là thơ ấu. Nhưng đồ ăn đặc là để cho kẻ thành nhân, cho kẻ hay dụng tâm tư luyện tập mà phân biệt điều lành và dữ.” (Hê. 5:11-14) Vấn đề sửa đổi lời Kinh Thánh cách tùy tiện như trong một sự trình bày đã có của tôi không phải chỉ là một vấn đề thuần túy ngôn ngữ học. Có khía cạnh ngôn ngữ học ở đây nhưng còn một vấn đề khác mà chẳng ai chịu để ý: Đó là vấn đề thần học Kinh Thánh và thẩm quyền Kinh Thánh. Không thể kể hết được việc ngưới ta vi phạm như thế nào đối với nguyên tắc ấy. Rất và rất nhiều người, miệng thì nói rằng họ tin Kinh Thánh là “Lời Đức Chúa Trời” nhưng trong đời sống thực tế họ tỏ ra không phải như vậy: (1) Họ không chịu học hỏi một cách nghiêm túc, (2) Họ không áp dụng một cách chặc chẽ, và (3) Họ không xem lời Kinh Thánh có thẩm quyền của Lời Đức Chúa Trời mà bắt lời Kinh Thánh có nghĩa theo sở kiến và sở thích của họ. Lời Kinh Thánh thay vì phải được học để “giữ lấy và làm theo” (Sv. Giô. 1:8) đã bị lạm dụng vào việc khoe khoang hoặc công kích lẫn nhau… Vì cớ họ, Lời Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh bị làm cho ngộ nhận bởi nhiều người trên rất nhiều mức độ khác nhau. Không phải sự quen thuộc đối với lời Kinh Thánh nào cũng đạt chuẩn mực. Có rất nhiều sự quen thuộc méo mó vì xu hướng thần học hoặc vì chưa thực sự có đức tin nơi Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ; và đó là một sự thật Kinh Thánh: “Ấy là điều người đã viết trong mọi bức thơ, nói về những sự đó, ở trong có mấy khúc khó hiểu, mà những kẻ dốt nát và tin không quyết đem giải sai ý nghĩa, cũng như họ giải sai về các phần Kinh Thánh khác, chuốc lấy sự hư mất riêng về mình.” (2Phi. 3:16) (“dốt nát”: Gr. ἀμαθής [amathes] - “không được dạy, không được môn đồ hóa cho nên không biết”; “tin không quyết”: Gr. ἀστήρικτος [asteriktos] - “dao động, không chắc thật”) Có thể nói rằng phần đông các Cơ Đốc Nhân đều “quen thuộc” đối với lời Kinh Thánh nhưng không phải mọi Cơ Đốc Nhân đều “yêu quí” lời Kinh Thánh, xem đó là Lời Đức Chúa Trời như đúng là Lời Đức Chúa Trời. Sự “quen thuộc” đối với lời Kinh Thánh có thể giúp cho người ta “yêu” lời Kinh Thánh nhưng không bảo đảm được rằng người ta sẽ “quí” lời Kinh Thánh tức là tin rằng lời Kinh Thánh có thẩm quyền Thiên Thượng và quyết lòng “giữ lấy và làm theo”. Để tiến đến chỗ “quí” lời Kinh Thánh người ta phải được môn đồ hóa, tức là phải được học Kinh Thánh một cách chính xác và có thẩm quyền; đó là ý chỉ của Đức Chúa Trời: “Về phần con, hãy đứng vững trong những sự con đã đem lòng tin chắc mà học và nhận lấy, vì biết con đã học những điều đó với ai, và từ khi con còn thơ ấu đã biết Kinh Thánh vốn có thể khiến con khôn ngoan để được cứu bởi đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ.” (2Ti. 3:14-15) (“đứng vững”: Gr. μένω [meno] - “cứ kiên trì mà tiếp tục”; “đem lòng tin chắc”: Gr. πιστόω [pistoo] - “có sự tin quyết”; “học và nhận lấy”: Gr. μανθάνω [manthano] - “học cho biết để thực hành”) 2Ti. 3:15 nói về sự “quen thuộc” đối với lời Kinh Thánh mà Timôthê đã có từ bé nhờ mẹ và bà (Sv. 2Ti. 1:5), sự “quen thuộc” này gắn liền với một loại đức tin sơ cấp (Theo 2Ti. 1:5 thì đó là “đức tin thành thật”: Gr. ἀνυπόκριτος πίστις [anupokritos pistis]). Cơ Đốc Nhân không được phép chỉ dừng lại ở đức tin sơ cấp mà phải tiến lên, phải được nghiên cứu lời Kinh Thánh với đầy đủ thẩm quyền Kinh Thánh, tức là phải được môn đồ hóa cách hợp Kinh Thánh (như Phaolô đã môn đồ hóa Timôthê) để có thể “đứng vững trong những sự” mà họ đã “đem lòng tin chắc mà học và nhận lấy” với người có thẩm quyền giảng dạy (Sv. 2Ti. 3:14, “vì biết con đã học những điều đó với ai”; Sv. 2Ti. 1:13-14) để đức tin của họ nâng tấm thành đức tin thứ cấp - đức tin nơi Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ dựa trên duy nhất lời Kinh Thánh. Không dễ đâu, chúng ta phải có lòng chăm chỉ cách hợp Kinh Thánh đối với lời Kinh Thánh thì Lời Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh mới được tôn cao; chúng ta phải cẩn thận, đừng tùy tiện! (Rev. Doan Nhat Tan, PhD) ![]()
“ĐỘNG CƠ, ĐỘNG LỰC, ĐỘNG HƯỚNG TRONG HÀNH VI CƠ ĐỐC” (Lu. 10:38-42) “Chúa đáp rằng: Hỡi Mathê, Mathê, ngươi chịu khó và bối rối về nhiều việc; nhưng có một việc cần mà thôi. Mari đã lựa phần tốt, là phần không có ai cất lấy được.” (Lu. 10:41-42) Giữa khi còn đang ở trong thân xác trên thế gian này, Cơ Đốc Nhân vẫn còn phải chịu ảnh hưởng của các sự hấp dẫn chung quanh mình cũng như những người chưa được cứu. Sự hấp dẫn ấy là có thật và lắm khi là một sự trăn trở lớn trong đời sống Cơ Đốc. Tuy nhiên, Cơ Đốc Nhân không thiếu hy vọng đắc thắng trong việc xây dựng cho mình động cơ đúng, đẹp ý Đức Chúa Trời, nhờ mối quan hệ (chiều đứng) đã được thiết lập với Ngài trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ: “21Vậy tôi thấy có luật nầy trong tôi: Khi tôi muốn làm điều lành, thì điều dữ dính dấp theo tôi. 22Vì theo người bề trong, tôi vẫn lấy luật pháp Đức Chúa Trời làm đẹp lòng; 23nhưng tôi cảm biết trong chi thể mình có một luật khác giao chiến với luật trong trí mình, bắt mình phải làm phu tù cho luật của tội lỗi, tức là luật ở trong chi thể tôi vậy. 24Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy? 25Cảm tạ Đức Chúa Trời, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta!” (Rô. 7:21-25) I. Chiều ngang: Những sự thuộc về thế gian, xác thịt, và Ma Quỉ. Sự thúc đẩy của những sự thuộc về thế gian, hay những sự tạm thời, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có đủ mọi thứ lo sợ, mọi thứ cảm thức không hợp theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh: “Sự lo lắng về đời nầy, sự mê đắm về giàu sang, và các sự tham muốn khác thấu vào lòng họ, làm cho nghẹt ngòi đạo, và trở nên không trái” (Mác 4:19) II. Chiều đứng: Đức Chúa Trời và những sự thuộc về Đức Chúa Trời. Quan hệ theo chiều đứng với Đức Chúa Trời giúp đem chúng ta đến gần với sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời về giá trị (và vì vậy, đó là giá trị đích thực). Đức Chúa Trời và những sự thuộc về Đức Chúa Trời có đặc điểm chung là thuộc linh, vô hình, và đòi hỏi tầm nhìn viễn cảnh. Chỉ khi nào chúng ta biết thực sự đặt mình dưới quyền làm Chúa của Đức Chúa Jêsus Christ để có thể đổi mới tâm trí mình với (bằng) các lẽ thật thuộc linh theo Kinh Thánh thì đời sống tâm trí của chúng ta mới được thấm nhuần theo các sự nhìn nhận có giá trị đời đời của Đức Chúa Trời: “38Khi Đức Chúa Jêsus cùng môn đồ đi đường, đến một làng kia, có người đàn bà, tên là Mathê, rước Ngài vào nhà mình. 39Người có một em gái, tên là Mari, ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Ngài. 40Vả, Mathê mảng lo về việc vặt, đến thưa Đức Chúa Jêsus rằng: Lạy Chúa, em tôi để một mình tôi hầu việc, Chúa há không nghĩ đến sao? Xin biểu nó giúp tôi. 41Chúa đáp rằng: Hỡi Mathê, Mathê, ngươi chịu khó và bối rối về nhiều việc; 42nhưng có một việc cần mà thôi. Mari đã lựa phần tốt, là phần không có ai cất lấy được” (Lu. 10:38-42) Một khi động cơ thúc đẩy là chính Đức Chúa Trời hay những sự thuộc về Đức Chúa Trời thì đó là động cơ “tốt” (Sv. Lu. 10:42). Động cơ tốt hứa hẹn cho việc có được động lực tốt. Động cơ và động lực tốt sẽ cùng nhau bảo đảm cho động hướng của thái độ, hành vi,… được tốt. Thái độ và hành vi Cơ Đốc là thiên hình, vạn trạng nhưng xuất phát điểm (động cơ), phạm vi đề cập (động lực), và đích điểm (động hướng) đều được gồm tóm trong những điều sau đây: 1. Được thúc đẩy theo ý muốn của Đức Chúa Trời: Tin rằng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời là sự chọn lựa duy nhất. 2. Được thúc đẩy theo lòng kính sợ Đức Chúa Trời: Tin rằng nếu không làm theo yy muốn của Đức Chúa Trời sẽ bị phạt (sợ một cách tiêu cực), hoặc sẽ không sống xứng hiệp theo ý chỉ của Ngài (sợ một cách tích cực). 3. Nhằm thể hiện lòng tri ân và kính yêu Đức Chúa Trời: Làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời vì biết ơn Ngài và kính yêu Ngài. 4. Nhằm đạt được phần thưởng của Đức Chúa Trời: Làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời vì tin quyết lời hứa của Ngài về phần thưởng. 5. Hướng về việc hoàn thành sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời: Tin rằng đời sống Cơ Đốc là phải làm đúng theo các nguyên tắc Kinh Thánh được rút ra từ sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời đối với Cơ Đốc Nhân. 6. Hướng về việc đạt mục đích và niềm hy vọng trong Đức Chúa Trời: Làm theo các sự kỳ vọng của Đức Chúa Trời đối với (dành cho) đời sống của mình để được hưởng tất cả những gì Đức Chúa Trời đã hứa và mình đã tin. 7. Hướng về việc sống theo sự khát khao Đức Chúa Trời: Muốn được Đức Chúa Trời chiếm ngự hoàn toàn hầu cho đời sống của mình luôn thể hiện ra các thuộc tính (mỹ đức) của Đức Chúa Trời. Trong số những điều nêu trên, hai điều đầu tiên (“Được Thúc Đẩy Theo Ý Muốn Của Đức Chúa Trời”, và “Được Thúc Đẩy Theo Lòng Kính Sợ Đức Chúa Trời”) thuộc về động cơ; hai điều tiếp theo (“Nhằm Thể Hiện Lòng Tri Ân Và Kính Yêu Đức Chúa Trời”, và “Nhằm Đạt Được Phần Thưởng Của Đức Chúa Trời”) thuộc về động lực, và ba điều sau cùng (“Hướng Về Việc Hoàn Thành Sự Nhìn Nhận Của Đức Chúa Trời”, “Hướng Về Việc Đạt Mục Đích Và Niềm Hy Vọng Trong Đức Chúa Trời”, và “Hướng Về Việc Sống Theo Sự Khát Khao Đức Chúa Trời”) thuộc về động hướng của một đời sống Cơ Đốc. (Rev. Doan Nhat Tan, PhD) ![]()
“CHỦ NGHĨA THẦN BÍ VÀ KINH THÁNH” Trên phương diện phương thức tiếp cận Kinh Thánh, Chủ Nghĩa Thần Bí (Mysticism) có thể được chia thành hai lớp: Giả Thần Bí (False Mysticism) và Chân Thần Bí (True Mysticism). Yếu lĩnh của Giả Thần Bí là cho rằng Sự Khải Thị Thiên Thượng không chỉ giới hạn trong Kinh Thánh mà Đức Chúa Trời vẫn còn tiếp tục ban cho những Sự Khải Thị khác ngoài Kinh Thánh nữa. Giả Thần Bí lấy kinh nghiệm của con người làm tối cao, Ví dụ: Kinh nghiệm bản thân của một cá nhân phải là thẩm quyền tối hậu chứ không phải là Kinh Thánh. Nếu sự dạy dỗ của Kinh Thánh phù hợp với kinh nghiệm bản thân thì sự dạy dỗ ấy của Kinh Thánh được kể là có giá trị; bằng không, sự dạy dỗ ấy của Kinh Thánh phải bị kể là vô giá trị. Theo Giả Thần Bí, Kinh Thánh vừa không hoàn hảo, vừa chẳng tối hậu. Giả Thần Bí tin rằng Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục ban cho Sự Khải Thị mới mẻ nếu người ta đáp ứng thuận với Sự Khải Thị của nó. Có những người theo Giả Thần Bí tin rằng lẽ thật thuộc linh được gia thêm ngoài Kinh Thánh. Loại Giả Thần Bí này được tìm thấy trong những người Phiếm Thần, Thông Linh Hiện Đại, Cơ Đốc Phục Lâm An Thất Nhật, Thời Đại Mới, Cơ Đốc Khoa Học, Moọc Môn, Quây Cơ, và Giêhôva Chứng Nhân. Ngoài ra, Giả Thần Bí cũng còn có thể thấy trong một vài hình thái của Phong Trào Túy Ân [1] hiện nay. Có một số người tin rằng Đức Chúa Trời vẫn còn đang phán bảo cho các nhà Tiên Tri hiện đại, và một số người còn tiến xa hơn bằng việc cho rằng Sự Khải Thị đến với và ra từ các nhà Tiên Tri như thế có giá trị tương đương với Lời Kinh Thánh. Đây chính là một phong trào đang bành trướng giữa vòng một số Hội Thánh Tin Lành. Tuy nhiên, hình thái Chân Thần Bí xuất phát từ chức vụ dạy dỗ và ở cùng của Đức Thánh Linh. Đức Thánh Linh soi sáng tâm trí của các tín hữu để ban quyền năng cho họ nắm bắt và áp dụng lẽ thật của Lời Kinh Thánh. Theo như Hê. 12:25 khẳng định, Đức Chúa Trời vẫn còn đang phán ngày nay; nhưng Ngài phán dạy thông qua chức vụ soi sáng của Đức Thánh Linh trên các lẽ thật trong các Kinh Điển của Kinh Thánh. Đây chính là công việc soi sáng, dắt dẫn, và chứng giải nhưng nhất thiết phải được phân biệt với công việc khải thị của Đức Thánh Linh. Nói về chức vụ này của Đức Thánh Linh, Chafer viết như sau: “Chân Thần Bí là cách tiếp cận hợp lẽ của các nhà thần học hệ thống tin Kinh Thánh. Cách tiếp cận này có liên quan với sự kiện là mọi tín hữu đều được Đức Thánh Linh ở cùng và nhờ đó có khả năng được trực tiếp soi sáng bởi Đức Thánh Linh trong việc họ hiểu các Sự Khải Thị Thiên Thượng. Một Sự Khải Thị như thế sẽ không vượt quá những gì Kinh Thánh khải thị, nó nhất trí với việc làm cho thông hiểu các lẽ thật Thiên Thượng được trước thuật trong Kinh Thánh. Chân Thần Bí vươn đến những gì có thể được gọi là Sự Khải Thị qui chuẩn mà không hề loại bỏ sự áp dụng lẽ thật Kinh Thánh mà Đức Chúa Trời muốn có trong việc mỗi cá nhân tìm kiếm sự hướng dẫn (Thiên Thượng). Sự hướng dẫn chân chính luôn luôn hài hòa với tự thân Lời Kinh Thánh (Sv. Gi. 16:13; 1Cô. 2:9-10) [2]. Ý thức Chân Thần Bí đối với Kinh Thánh tin rằng Kinh Thánh là thẩm quyền tối hậu của chúng ta và cố gắng luôn luôn đoán định đúng, sai cho kinh nghiệm cá nhân bằng Lời Kinh Thánh. Khuynh hướng Chân Thần Bí không tự cho phép mình có quyền ưu tiên đối với Kinh Thánh mà cũng không đoán định Kinh Thánh hoặc bất cứ điều gì thuộc về Kinh Thánh bằng kinh nghiệm [3]. Chúng ta phải thận trọng đánh giá kinh nghiệm chúng ta bằng Lời Đức Chúa Trời chứ đừng đánh giá Lời Đức Chúa Trời bằng kinh nghiệm của chúng ta. (Rev. Doan Nhat Tan, PhD) -- Ghi Chú: [1] Phong trào của những người say mê ân tứ thuộc linh và giảng dạy về ân tứ thuộc linh bất chấp giáo lý Kinh Thánh chân chính về ân tứ thuộc linh. [2] Lewis Sperry Chafer Systematic Theology (Thần Học Hệ Thống của Lewis Sperry Chafe, Abridged Edition, Vol. 1, John F. Walvoord, editor, Donald K. Campbell, Roy B. Zuck, consulting editors, Victor Books, Wheaton, IL, 1988, p. 42. [3] Vấn đề “Sự Soi Sáng Của Đức Thánh Linh” sẽ được đề cập rõ hơn trong một đề tài khác. ![]()
“CALVIN VÀ ARMINIUS TRÊN VẤN ĐỀ VỀ SỰ CỨU RỖI” (2Phi. 3:18) “Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ.” (2Phi. 3:18) Hệ tư tưởng của Calvin và hệ tư tưởng của Arminius trên vấn đề sự cứu rỗi là hai nổ lực thần học chính nhằm giải thích mối quan hệ giữa quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời với ý chí (và trách nhiệm) tự do của cá nhân trong lĩnh vực sự cứu rỗi. Các nổ lực này là đáng trân trọng, nhưng chung qui thì sự giải thích nào cũng bị giới hạn vì sự cao sâu của ý tưởng của Đức Chúa Trời luôn vượt lên trên mọi suy tưởng của loài người khiến không ai có thể hoàn toàn hiểu được sự vận hành của Ngài trong sự cứu rỗi dành cho nhân loại. Trong gáo lý Kinh Thánh bằng Tiếng Anh, những người theo tư tưởng của Calvin tách vạch tư tưởng thần học của mình thành năm điểm được viết tắt bằng năm chữ cái mà khi ghép với nhau theo đúng thứ tự thì thành tên của một loài hoa, đó là “TULIP”. Calvin cho rằng tình trạng suy đồi của con người là “Sự Suy Đồi Toàn Diện” (Total Depravity), sự lựa chọn của Đức Chúa Trời cho sự cứu rỗi của Ngài là “Sự Lựa Chọn Vô Điều Kiện” (Unconditional Election), sự đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ là “Sự Đền Tội Thay Hữu Hạn” (Limited Atonement), ân điển cứu rỗi của Đức Chúa Trời là “Ân Điển Bất Khả Kháng” (Irresistable Grace), và sự bảo tồn cho sự cứu rỗi của các tín hữu thật là “Sự Bảo Tồn Các Thánh Đồ” (Perseverance of the Saints) bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Sự khác biệt giữa hai hệ tư tưởng này xoay quanh vấn đề mức độ trách nhiệm cá nhân trong sự cứu rỗi của mình dưới quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời. Trong năm phạm trù liên quan đến sự cứu rỗi theo sơ đồ “TULIP”, tư tưởng của Calvin và Arminius trong các phạm trù đầu tiên và cuối cùng (ở hai đầu của sơ đồ “TULIP”, tức “T” và “P”) khác nhau nhưng không gay gắt lắm. Đối với các phạm trù còn lại (ở giữa sơ đồ “TULIP”, tức “U”, “L”, và “I”), tư tưởng của họ hoàn toàn trái ngược nhau. Sự khác biệt đối kháng giữa hai quan điểm là sự khác biệt “ULI”: “Sự Lựa Chọn Vô Điều Kiện” (Unconditional Election) mà Calvin tin đối nghịch với “Sự Lựa Chọn Theo Điều Kiện” (Conditional Election) mà Arminius tin; “Sự Đền Tội Thay Hữu Hạn” (Limited Atonement) mà Calvin tin đối nghịch với “Sự Đền Tội Thay Vô Hạn” (Unlimited Atonement) mà Arminius tin; “Ân Điển Bất Khả Kháng” (Irresistible Grace) mà Calvin tin đối nghịch với “Ân Điển Khả Kháng” (Resistible Grace) mà Arminius tin. “U” nói về “Sự Lựa Chọn Vô Điều Kiện” (Unconditional Election). Calvin cho rằng chỉ duy nhất Đức Chúa Trời là Đấng lựa chọn người sẽ được cứu thể theo ân điển tối cao của Ngài. Chúng ta vốn được sinh ra trong trạng thái chết thuộc linh, hoàn toàn không có khả năng đáp ứng Đức Chúa Trời. Vì vậy, sự tiền định của Đức Chúa Trời về việc người nào sẽ được cứu không thể phụ thuộc chút nào vào người ấy cả. Arminius lập luận rằng Đức Chúa Trời chọn lựa người sẽ được cứu dựa theo sự biết trước của Ngài là ai sẽ chọn Ngài. “L” nói về “Sự Đền Tội Thay Hữu Hạn” (Limited Atonement). Calvin tin rằng huyết đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ trên Thập Tự Giá của Ngài là để đền tội thay cho người được tiền định cho sự cứu rỗi trong Ngài. Arminius tin rằng Đức Chúa Jêsus Christ chịu chết trên Thập Tự Giá là để đền tội thay cho tất cả mọi tội của tất cả mọi người trên thế gian. “I” nói về “Ân Điển Bất Khả Kháng” (Irresistible Grace). Calvin tin rằng ví Đức Chúa Trời tiền định người được cứu nên người ấy không có khả năng chống lại sự lựa chọn của Ngài. Ngược lại, Arminius cho rằng người được chọn cho sự cứu rỗi vẫn có ý chí cá nhân để khước từ sự chọn lựa của Đức Chúa Trời. Đối với hai phạm trù còn lại, “Ân Điển Bất Khả Kháng” (Irresistable Grace) và “Sự Bảo Tồn Các Thánh Đồ” (Perseverance of the Saints) Arminius và những người theo lập trường của Arminius ít kiên định hơn. Về “Ân Điển Bất Khả Kháng” (Irresistable Grace), Calvin cho rằng trạng thái tự nhiên của con người (sau Ađam) là họ được sinh ra trong tội lỗi, hoàn toàn chết về thuộc linh, không thể tự cứu mình được. Một số người theo Arminius đồng ý với Calvin về điểm này trong khi những người khác thì tin rằng sự suy đồi ấy là không toàn diện, tội nhân vẫn còn khả năng chọn lựa Đức Chúa Trời cho mình. Về “Sự Bảo Tồn Các Thánh Đồ” (Perseverance of the Saints), cả người theo Calvin lẫn người theo Arminius đều tin rằng “một khi đã được cứu sự cứu rỗi sẽ được bảo tồn”, người đã được cứu sẽ không bao giờ bị mất sự cứu rỗi được. Tuy nhiên, vẫn có một số người theo lập trường của Arminius cho rằng người được cứu vẫn còn chịu ảnh hưởng của thế gian chi phối nên hành vi (phạm tội) của họ có thể khiến cho Đức Chúa Trời thu hồi sự cứu rỗi mà Ngài đã từng ban cho họ. Tư tưởng của Calvin là hợp Kinh Thánh hơn tư tưởng của Arminius. Kinh Thánh phán rất rõ về trạng thái suy đồi toàn diện của mỗi cá nhân được sinh ra trong thế gian này (Sáng. 6:5; Giê. 17:9; Rô. 3:10-18). Do tình trạng suy đồi toàn diện của nhân loại, sự lựa chọn vô điều kiện là tất yếu để có được sự cứu rỗi cho con người (Rô. 8:29-30, 9-11; Êph. 1:4-6, 11-12). Trong trạng thái ô tội, con người không thể tự động nhận ân điển cứu chuộc cho mình được mà phải cần đến sự thu dung vô điều kiện của Đức Chúa Trời. Tương tự như thực trạng con người không thể tự đến với sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, sự ban cho ân điển cứu chuộc của Đức Chúa Trời mang tính bất khả kháng đối với con người khiến họ không thể khước từ ân điển Ngài được (Gi. 6:37, 44, 10:16). Đồng thời, cũng giống như việc con người không thể khước từ ân điển cứu rỗi của Đức Chúa Trời được, con người không thể trả lại sự cứu rỗi mà Đức Chúa Trời đã ban cho họ, giáo lý về sự bảo tồn các thánh đồ là hoàn toàn hợp Kinh Thánh (Gi. 10:27-29; Rô. 8:29-30; Êph. 1:3-14). Giáo lý về “Sự Đền Tội Thay Hữu Hạn” (Limited Atonement) là phạm trù duy nhất trong tư tưởng của Calvin mà người ta có thể đưa ra được các sự phản bác có hậu thuẫn Kinh Thánh. Cho dầu Kinh Thánh phán tỏ tường rằng Đức Chúa Trời tiền định người được cứu, vẫn có vẻ như Kinh Thánh ám chỉ rằng sự hy sinh đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ là giá chuộc cho tất cả mọi tội của toàn thể thế gian chứ không phải chỉ riêng cho tội lỗi của những người được cứu chuộc (1Gi. 2:2; Gi. 1:29, 3:16; 1Ti. 2:6; 2Phi. 2:1). Sự đáp trả của những người theo tư tưởng của Calvin cho vấn đề này như sau: Trên phương diện tiềm năng, sự hy sinh đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ có quyền năng cứu rỗi cho cả thế gian; trên phương diện tác dụng, quyền năng ấy chỉ hiệu nghiệm riêng trên những người được chọn của Đức Chúa Trời mà thôi. Nếu không như thế, hóa ra có một nghịch lý là những người đi Địa Ngục cũng đã được Đức Chúa Jêsus Christ đền tội thay rồi! Việc đào sâu tìm hiểu sự khác biệt giữa hệ tư tưởng của Calvin và hệ tư tưởng của Arminius trên vấn đề sự cứu rỗi là một điều đáng quí nhưng chúng ta cần nên biết rằng cả hai cũng đều chỉ là sự nổ lực của con người để giải thích các phạm trù Thiên Thượng. Đức Chúa Trời có hoàn toàn tể trị trên công nghiệp cứu rỗi của Ngài cho nhân loại không? Có! Con người có phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trong việc tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời ban cho trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ hay không? Có! Làm sao hai lẽ thật cơ bản ấy dung hợp nhau trong sự cứu rỗi dành cho người được cứu là điều mà cả Calvin và Arminius cùng trăn trở. Thế nhưng, cho dầu Calvin đúng hay Arminius đúng, hoặc có những dung hợp nào đó giữa hai hệ tư tưởng này, trách nhiệm cá nhân của mỗi chúng ta đối với công nghiệp cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ vẫn không thay đổi: Chúng ta phải rao Tin Lành cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ cho khắp thế gian (Ma. 28:19-20; Công. 1:8)! (Rev. Doan Nhat Tan, PhD) ![]()
“CHÂN GIÁ TRỊ, GIÁ TRỊ, VÀ Ý CHỈ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI ĐỐI VỚI CHÚNG TA” (Sáng. 1:26-27) “Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình Ta và theo tượng Ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:26-27) Cơ Đốc Nhân chúng ta lắm khi còn mơ hồ về những vấn đề như nhờ đâu con người được kể là tạo vật cao trọng hơn hết trong thế giới thọ tạo của Đức Chúa Trời, vì sao chúng ta phải tôn trọng tha nhân bất kể hiện trạng của họ là như thế nào, có hay không trường hợp mà một người nào đó có thể không được kính trọng, phải như thế nào để chúng ta biết tôn trọng và được tôn trọng nhiều hơn, phải như thế nào để chúng ta biết kính trọng và được kính trọng nhiều hơn,... Tất cả những vấn đề này sẽ không được hiểu biết đầy đủ và thỏa đáng mà có thể thiếu một sự hiểu biết về chân giá trị (dignity) và giá trị (value) của con người theo Kinh Thánh. Phạm trù “chân giá trị” (dignity) được Kinh Thánh đề cập dưới nhiều hình thái khác nhau, định danh hoặc bất định danh, nhưng không hề được nhấn mạnh như một chủ đề thần học Kinh Thánh... “Nàng mặc lấy sức lực và oai phong, Và khi tưởng đến buổi sau, bèn vui cười.” (Châm. 31:25) “Còn điều răn thứ hai đây, cũng như vậy: Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mình.” (Ma. 22:39; Sv. 37-40) Trong Châm. 31:25 chân giá trị của “người nữ tài đức” được định danh: “Oai phong” (Hb. Hb. רדה [hadar]) là một từ liệu nói về cái chân giá trị vốn có của người nữ này. Trái lại, trong Ma. 22:39 thì “chân giá trị” không được định danh dầu vẫn được xác định cách kín đáo: Hãy yêu “như mình”. Tương tự với “chân giá trị”, phạm trù “giá trị” (value) cũng là một phạm trù Kinh Thánh được đề cập dưới nhiều hình thái khác nhau, định danh hoặc bất định danh, nhưng không hề được nhấn mạnh như một chủ đề thần học Kinh Thánh... “Nàng mặc lấy sức lực và oai phong, Và khi tưởng đến buổi sau, bèn vui cười.” (Châm. 31:25) “Hãy kính mọi người; yêu anh em; kính sợ Đức Chúa Trời; tôn trọng vua.” (1Phi. 2:17) Ở “người nữ tài đức” không những chỉ có “chân giá trị” mà cả “giá trị” của nàng cũng được định danh: “Sức lực” (Hb. זע [‘oz]) là một từ liệu nói về sự uy dũng của nhân cách của người nữ này nhờ ở “chân giá trị” của nàng. Trái lại trong 1Phi. 2:17 thì “giá trị” không được định danh dầu vẫn được xác định cách kín đáo: Hãy “kính”, “yêu”, kính sợ”, “tôn trọng”. Dưới ánh sáng của Kinh Thánh, chỉ con người mới có chân giá trị, và chân giá trị của con người đến từ một sự cài đặt ngoại lai của Đức Chúa Trời vào bản chất người khi Ngài trực tiếp tạo dựng họ: “26 Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. 27 Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:26-27) Theo góc nhìn của con người đối với Đức Chúa Trời thì “chân giá trị” của con người là một sự thừa thọ căn bản đối với Đức Chúa Trời khiến họ hoàn toàn thuộc về Đức Chúa Trời. Ngược lại, từ góc nhìn của Đức Chúa Trời đối với con người thì “chân giá trị” của con người là một sự chia sẻ cốt lõi về chính chân giá trị của Ngài khiến cho con người có thể được ở trong mối hạnh ngộ vô cùng với chính Ngài. Theo góc nhìn của người đối với người thì người nam và người nữ đều có chân giá trị như nhau và vì vậy mà, về nguyên tắc, tất cả mọi người đều có chân giá trị như nhau. Khác với “chân giá trị”, phạm trù “giá trị” có thể được dùng để đề cập đến sức mạnh của nhân cách hay qui mô của sự hoàn thành của một người: “6 Cũng phải khuyên những người tuổi trẻ ở cho có tiết độ. 7 Hãy lấy mình con làm gương về việc lành cho họ, trong sự dạy dỗ phải cho thanh sạch, nghiêm trang, 8 nói năng phải lời, không chỗ trách được, đặng kẻ nghịch hổ thẹn, không được nói xấu chúng ta điều chi.” (Tít 2:6-8) Từ liệu “nghiêm trang” (Tít 2:7) trong Tiếng Hy Lạp là Gr. σεμνότης [semnotes] là một từ liệu nói về sự đáng kính có được nhờ việc chịu tuân theo những mẫu mực phù hợp với chân giá trị của Đức Chúa Trời. Chính “sự đáng kính” này cùng với những sự tương tự như thế làm nên “giá trị” cho một người. Như vậy “giá trị” là sự thể hiện ra qua nhân cách hay qui mô của sự hoàn thành của một người sống theo chân giá trị. Theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời, khi người ta không còn ở dưới sự ảnh hưởng của chân giá trị thì giá trị của họ cũng không còn: “Chúng tôi hết thảy đã trở nên như vật ô uế, mọi việc công bình của chúng tôi như áo nhớp; chúng tôi thảy đều héo như lá, và tội ác chúng tôi như gió đùa mình đi.” (Ês. 64:6) “22 Họ tự xưng mình là khôn ngoan, mà trở nên điên dại; 23 họ đã đổi vinh hiển của Đức Chúa Trời không hề hư nát lấy hình tượng của loài người hay hư nát, hoặc của điểu, thú, côn trùng.” (Rô. 1:22-23) “Người Nữ Tài Đức” trong Châm. 31 được mô tả như một người mặc đầy “chân giá trị” và “giá trị” là hai phạm trù tương quan nhau cách hữu cơ: Chân giá trị càng được nguyên vẹn, càng có hiệu lực tác động cao trên đời sống một người thì giá trị thể hiện ra trên đời sống người ấy càng cao: “25 Nàng mặc lấy sức lực và oai phong, Và khi tưởng đến buổi sau, bèn vui cười. 26 Nàng mở miệng ra cách khôn ngoan, Phép tắc nhân từ ở nơi lưỡi nàng. 27 Nàng coi sóc đường lối của nhà mình, Không hề ăn bánh của sự biếng nhác. 28 Con cái nàng chỗi dậy, chúc nàng được phước; Chồng nàng cũng chỗi dậy, và khen ngợi nàng rằng: 29 Có nhiều người con gái làm lụng cách tài đức, Nhưng nàng trổi hơn hết thảy.” (Châm. 31:25-29). Đức Chúa Trời muốn chúng ta tôn trọng (honor) chân giá trị của tha nhân và kính trọng (respect) tha nhân. Tôn trọng và kính trọng là hai phạm trù khác nhau, chúng có thể đi đôi với nhau chứ không nhất thiết sẽ cứ đi đôi với nhau. Nếu một vị quan chức mà có nhân cách quá tồi tàn thì rất khó cho người ta kính trọng vị quan chức ấy (respect); nhưng chức trách của vị quan chức ấy là điều vốn được Đức Chúa Trời ban cho (Sv. Rô. 13:1; 1Ti. 2:2; Tít 3:1) và trở thành một bộ phận trong chân giá trị của vị quan chức ấy thì phải được tôn trọng (honor). Đây là một nguyên tắc Kinh Thánh đòi hỏi chúng ta phải tôn trọng dầu rằng không thể kính trọng được (Sv. 1Phi. 2:17). Như vậy, tôn trọng mọi người là phận sự của chúng ta còn việc có được sự kính trọng của chúng ta hay không thì đó là việc của họ. Khi đời sống của một người, bất kể người đó là ai, tỏ ra cho thấy là không còn chịu tuân theo những mẫu mực phù hợp với chân giá trị của Đức Chúa Trời thì ấy là lúc họ tự đánh mất giá trị của mình. Kinh Thánh xem những người như vậy là người đang trong trạng thái ngủ về thuộc linh mà chỉ duy nhất Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ mới có thể thay đổi được họ khi họ chịu để cho Ngài thay đổi họ! “8 Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng; 9 vì trái của sự sáng láng ở tại mọi điều nhân từ, công bình và thành thật. 10 Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa, 11 và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm, thà quở trách chúng nó thì hơn; 12 vì dầu nói đến điều mà những người đó làm cách kín giấu, cũng đã là hổ thẹn rồi. 13 Nhưng hết thảy mọi sự đã bị quở trách đều được tỏ ra bởi sự sáng; phàm điều chi đã tỏ ra thì trở nên sự sáng vậy. 14 Cho nên có chép rằng: Ngươi đương ngủ, hãy thức, hãy vùng dậy từ trong đám người chết, thì Đấng Christ sẽ chiếu sáng ngươi.” (Êph. 5:8-14) Chân giá trị của chúng ta đến từ Đức Chúa Trời và giá trị của chúng ta tùy thuộc vào việc chúng ta chịu tuân theo những mẫu mực về giá trị phù hợp với chân giá trị của Đức Chúa Trời như thế nào. Nhưng, dầu có như thế nào thì Đức Chúa Trời vẫn muốn Cơ Đốc Nhân chúng ta phải là người dễ dạy! (Rev. Doan Nhat Tan, PhD) ![]()
“HỌ LÀ AI DƯỚI ÁNH SÁNG KINH THÁNH?” (Gal. 6:2) “Hãy mang lấy gánh nặng cho nhau, như vậy anh em sẽ làm trọn Luật Pháp của Đấng Christ” (Gal. 6:2) Cho đến ngày nay, giữa vòng những người tự nhận mình là “có Chúa” vẫn không ít người có giọng điệu gian trá của “con rắn xưa” (Sv. Khải. 12:9) để che đậy chân tướng phản phúc đối với Đấng đã chuộc mình (Sv. 2Phi. 2:1) và những người mà Đấng ấy đã sử dụng để gây dựng mình. Đó là những kẻ giả hình, làm bộ công bình cho lịch trình bí mật trong lòng mình (Sv. Lu. 16:15), làm bộ công bình để trốn tránh - cứ tạm gọi như vậy chứ có nhiều trường hợp đó là bản chất thật của họ được lộ ra chứ không còn là “trốn tránh” nữa - nghĩa vụ công bình mà Đức Chúa Trời đòi hỏi họ phải sống… “Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều chi chân thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thanh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen, thì anh em phải nghĩ đến. Hễ sự gì anh em đã học, đã nhận, đã nghe ở nơi tôi, và đã thấy trong tôi, hãy làm đi, thì Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ ở cùng anh em.” (Php. 4:8-9) “Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng; vì trái của sự sáng láng ở tại mọi điều nhân từ, công bình và thành thật. Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa, và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm, thà quở trách chúng nó thì hơn.” (Êph. 5:8-11) Đối với những con người như vậy thì họ luôn là “ẩn số” trong các mối quan hệ liên thân vị. Họ luôn tỏ ra mình là người công nghĩa bằng những cách nói như “tôi không quan tâm!”, “tôi chỉ cần lo chuyện của tôi thôi!” , “tôi không bênh ai, không bỏ ai cả!”… Thật ra họ chỉ là “ẩn số” khi chưa đặt đưới ánh sáng của Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời mà thôi! Một người đã được cứu là một người đã được ở trong địa vị công bình (Positional Righteousness. Sv. Rô. 10:4), chính từ địa vị ấy họ có năng lực sống đời sống công nghĩa thực hành (Practical Righteousness. Sv. Rô. 6:14; 1Tê. 5:21) và rồi với thời gian đức công nghĩa xã hội (Social Righteousness. Sv. Gia. 1:27) - tức sự phản ánh các mỹ đức của Đức Chúa Trời trong người theo Ngài - dần dần được hình thành để giúp họ trở nên giống Ngài qua hình ảnh Con Ngài… “Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định. Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em; còn những kẻ Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã gọi, những kẻ Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã xưng là công bình, và những kẻ Ngài đã xưng là công bình, thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển.” (Rô. 8:28-30) Một khi các giá trị công nghĩa của Đức Chúa Trời (“công nghĩa thực hành”, “công nghĩa xã hội”) bị một người chà đạp thì việc ấy khiến cho người ta phải nêu lên một dấu hỏi lớn về việc họ đang ở đâu đối với sự công nghĩa địa vị mà Đức Chúa Jêsus Christ đã qui kết cho họ theo công trình đền tội thay của Ngài trên thập tự giá… “Nhưng hiện bây giờ, sự công bình của Đức Chúa Trời, mà luật pháp và các đấng tiên tri đều làm chứng cho, đã bày tỏ ra ngoài luật pháp: Tức là sự công bình của Đức Chúa Trời, bởi sự tin đến Đức Chúa Jêsus Christ, cho mọi người nào tin. Chẳng có phân biệt chi hết, vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Đấng Đức Chúa Trời đã lập làm của lễ chuộc tội, bởi đức tin trong huyết Đấng ấy. Ngài đã bày tỏ sự công bình mình như vậy, vì đã bỏ qua các tội phạm trước kia, trong buổi Ngài nhịn nhục; tức là Ngài đã tỏ sự công bình Ngài trong thời hiện tại, tỏ ra mình là công bình và xưng công bình kẻ nào tin đến Đức Chúa Jêsus.” (Rô. 3:21-26) Người ta có thể thấy rằng mẫu người “Kẻ Sĩ” của thi hào Nguyễn Công Trứ chỉ là một mẫu người thế tục mà còn phải xem “Vũ trụ chi gian giai phận sự” (Nguyễn Công Trứ, “Kẻ Sĩ”) huống hồ là Cơ Đốc Nhân! Ca dao tục ngữ Việt Nam cũng khẳn định rằng “Làm trai cho đáng nên trai” (Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam) huống hồ là Cơ Đốc Nhân! Phan Bội Châu mà còn xác định được rằng “Sinh vi nam tử yếu hy kỳ” (Phan Bội Châu, “Xuất Dương Lưu Biệt”) huống hồ là Cơ Đốc Nhân! Thật ra lập luận “tôi không quan tâm!”, “tôi chỉ cần lo chuyện của tôi thôi!” , “tôi không bênh ai, không bỏ ai cả!”… của hạng người ngụy quân tử, giả công bình này là một sự ngụy biện nhằm che đậy ẩn ý của họ (Sv. 1Cô. 4:6) và lập luận này không thể nào đứng vững được trước các sự dạy dỗ tỏ tường của Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời về phận sự phải sống quan tâm của các Cơ Đốc Nhân! Lời Chúa dạy các Cơ Đốc Nhân phải… Yêu thương lẫn nhau – Gi. 13:34; Rô. 12:10; 13:8 Tha thứ nhau – Êph. 4:32; Côl. 3:13 Phục vụ nhau – Gal. 5:13 Hữu hảo với nhau – 1Phi. 4:7-10 Cầu nguyện cho nhau – Gia. 5:16 Gây dựng lẫn nhau – Rô. 14:19; 1Tê. 5:11 Chào kính nhau – Rô. 16:16; 1Cô. 16:20; 2Cô. 13:12; 1Phi. 5:14 Chịu đựng lẫn nhau – Êph. 4:1-2; Côl. 3:13-14 Đừng đoán phạt nhau – Rô. 14:13 Đừng nói hành nhau – Gia. 4:11 Đừng oán trách nhau – Gia. 5:9 Đừng cắn xé nhau – Gal. 5:15 Đừng khiêu khích lòng ganh tị đối với nhau – Gal. 5:26 Chăm lo cho nhau – 1Cô.12:25-26 Chấp nhận nhau – Rô. 15:7 Thuận phục (thuận thỏa) lẫn nhau – Êph. 5:21-22 Xưng nhận với nhau – Gia. 5:16 Đừng nói dối với nhau – Côl. 3:9 Nhân từ đối với nhau – Êph. 4:32 Khuyên dạy nhau – Côl. 3:16 Nhắc nhở nhau về việc giữ đức tin – Hê. 10:24 Khuyên bảo (chỉ vẽ) nhau – Rô. 15:14; Côl. 3:16 An ủi nhau – 1Tê. 4:18, 5:11 Mang lấy gánh nặng cho nhau – Gal. 6:2 Trong danh sách này, mệnh lệnh đầu tiên rằng “Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu nhau; như Ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể ấy” (Gi. 13:34) có tính chất của một môi trường xúc tác, kiến tạo để giúp cho Cơ Đốc Nhân thực hiện được các mệnh lệnh còn lại và sẽ được thể hiện ra ở một trong các nét đạo hạnh Cơ Đốc rất đặc trưng là “Hãy mang lấy gánh nặng cho nhau, như vậy anh em sẽ làm trọn Luật Pháp của Đấng Christ” (Gal. 6:2). Thiếu khởi điểm (Sv. Gi. 13:34) loại Cơ Đốc Nhân đột biến này nhất định không bao giờ có thể đi đến đích điểm được (Sv. Gal. 6:2) và như vậy - dưới ánh sáng Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời - hạng người này phải lộ nguyên hình là những người chưa thoát khỏi sự cầm buộc của sự công bình riêng theo bản chất xác thịt của mình! “Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng; vì trái của sự sáng láng ở tại mọi điều nhân từ, công bình và thành thật. Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa, và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm, thà quở trách chúng nó thì hơn.” (Êph. 5:8-11) (Rev. Doan Nhat Tan, PhD) ![]()
|
Author“Side-By-Side Support Archives
December 2022
Categories |