“HÃY MẬT THIẾT HƠN VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI” (Gia. 4:7-10) “Đời sống thánh khiết theo Kinh Thánh là đời sống giàu kỹ năng sống các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho các mỹ đức thánh khiết của Đức Chúa Trời được thể hiện qua đời sống ngày càng rõ nét hơn." “7 Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em. 8 Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; 9 hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10 Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên.” (Gia. 4:7-10) Việc cố công vun đắp một mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời có lẽ là một việc làm đáng trọng và khôn ngoan hơn hết, và đó là điều chỉ có thể có ở những ai đã thuộc về Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ theo Kinh Thánh. Đó cũng là một điều thật sự khó khăn vì để có thể có mối tương giao mật thiết với Đức Chúa Trời người ta phải đắc thắng được đồng thời ba kẻ thù thuộc linh là sức mạnh của tội lỗi trong bản thân, sự chống đối của thế gian, và sự ngăn cản của Ma Quỉ. Cuộc giao ngộ của Cơ Đốc Nhân với chân thần của họ là Đức Chúa Trời duy nhất thật và hằng sống là một hành trình đắc thắng phước hạnh và gian nan giữa đời ác này. Để tiến đến một mối quan hệ ngày càng mật thiết với Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ theo Kinh Thánh người ta buộc phải ngày càng lạnh nhạt hơn với mọi mối quan hệ khác trong thế gian. “8 Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ 9 và được ở trong Ngài, được sự công bình, không phải công bình của tôi bởi Luật Pháp mà đến, bèn là bởi tin đến Đấng Christ mà được, tức là công bình đến bởi Đức Chúa Trời và đã lập lên trên đức tin…” (Phlp. 3:8-9). Thật ra, đây là một tiến trình sống giữa hai mặt đối lập nhau là tách li thế gian để tận hiến cho Đức Chúa Trời là điều chỉ có thể có được nếu người ta biết sống như người sống lại trong Cứu Chúa của mình là Đức Chúa Jêsus Christ: “…10 Cho đến nỗi tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài, 11 mong cho tôi được đến sự sống lại từ trong kẻ chết.” (Phlp. 3:10-11). Việc cố công vun đắp một mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời là một linh trình nghiêm túc mang tính kỷ luật rất cao để vượt qua các rào cản phải vượt… Sức mạnh của tội lỗi nội tại trong bản thân phải được kể là rào cản đầu tiên và lớn hơn hết vì chính đó là điều thường khiến cho Cơ Đốc Nhân phạm tội với Đức Chúa Trời nhiều nhất. Tự thân Cơ Đốc Nhân không đủ sức vượt lên trên rào cản này nhưng may mắn thay là họ đã có Đức Chúa Trời của mình đón sẵn ở đó để nâng họ lên với lời hứa tha tội cho ai biết xưng nhận tội lỗi của mình: “Nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác.” (1Gi. 1:9). Để vun đáp được mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời thì kỹ năng phải có đầu tiên của Cơ Đốc Nhân là kỹ năng ăn năn và xưng nhận tội lỗi của mình với Ngài. Chính yếu tố “đau thương thống hối” khiến cho sự xưng nhận tội lỗi của Cơ Đốc Nhân được Đức Chúa Trời xm là của lễ đẹp ý Ngài: “Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương: Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu.” (Thi. 51:17). Kỹ năng nghe được tiếng phán của Đức Chúa Trời cũng cần thiết cho việc vun đắp một mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Ngài như kỹ năng nói chuyện với Đức Chúa Trời qua việc Cơ Đốc Nhân xưng tội cùng Ngài. Tuy nhiên cần phải khẳng định ngay rằng việc người ta muốn được “nghe” Đức Chúa Trời cách hữu thanh là một việc làm phi Kinh Thánh. Đức Chúa Trời muốn các Cơ Đốc Nhân “nghe” Ngài bằng tai đức tin qua việc tin quyết lời phán của Ngài từ Kinh Thánh chứ không phải bắt Ngài phải phán riêng cách hữu thanh cho từng người theo các nhu cầu bất cập, và lắm khi cũng bất nhất, của họ. Tiếng phán hữu thanh của Đức Chúa Trời để xác nhận Con Ngài là Lời Sống là thẩm quyền của Ngài cho Lời Thành Văn của Ngài trong Kinh Thánh để chúng ta dốc lòng nghe theo cách tin kính: “18 Chính chúng tôi cũng từng nghe tiếng ấy đến từ trời, lúc chúng tôi ở với Ngài trên hòn núi thánh. 19 Nhân đó, chúng tôi càng tin lời các đấng tiên tri chắc chắn hơn, anh em nên chú ý lời đó, như cái đèn soi sáng trong nơi tối tăm, cho đến chừng nào ban ngày lộ ra, và sao mai mọc trong lòng anh em. 20 Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được. 21 Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời.” (2Phi. 1:18-21). Kỹ năng xưng nhận tội lỗi với Đức Chúa Trời cùng với kỹ năng lắng nghe tiếng phán của Ngài trong Kinh Thánh được lắng đọng trong một dạng thức sinh hoạt thuộc linh Cơ Đốc rất đặc biệt là đời sống cầu nguyện của Cơ Đốc Nhân: Họ sẽ biết cầu nguyện với Đức Chúa Trời như một sự nương cậy Ngài chứ không phải chỉ để nhờ vả Ngài. Dưới ánh sáng của mẫu cầu nguyện mà Đức Chúa Jêsus Christ đã dạy cho chúng ta (Sv. Ma. 6:9-13) thì mối bận tâm chính của Cơ Đốc Nhân khi họ cầu nguyện là ý chỉ Thiên Thượng chứ không phải là lợi ích ích kỷ họ. Ngôn ngữ của sách Thi Thiên là ngôn ngữ cầu nguyện, có đầy những lời cầu nguyện thành tâm của những tấm lòng tin kính để nêu gương cho sự cầu nguyện của chúng ta. Một khi đời sống cầu nguyện của một người được sâu đậm trong sự tự thức về tình trạng bất lực của bản thân và theo sự dầm thấm có được trong lời Kinh Thánh thì hiện tượng tỏa sáng của đời sống người ấy sẽ diễn ra: “16 Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời. 17 Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Jêsus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha.” (Côl. 3:16-17; Sv. Êph. 5:19). Cũng chính vì vậy mà mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời khiến cho người ta không thể nào cứ sống khép mình, biệt lập được; trái lại họ có một nhu cần bức thiết về việc được hiệp thông trong một cộng đồng đức tin là Hội Thánh Địa Phương để được gây dựng nhau. Sự thất bại của Hội Thánh Địa Phương trong thực tiễn sinh hoạt của mình đã khiến cho ngày càng có nhiều người hiểu nhầm rằng chỉ có hoạt động thờ phượng Đức Chúa Trời với nhau trong Hội Thánh Địa Phương mới là đáng kể mà thôi. Thờ phượng là nổ lực hướng thượng của Hội Thánh phải được xây dựng cách ưu tiên đồng thời với nổ lực hướng nội và nổ lực hướng ngoại của Hội Thánh là môn đồ hóa và truyền giáo. Để Hội Thánh được vững mạnh cả ba sinh hoạt thờ phượng, môn đồ hóa, và truyền giáo đều phải được vững mạnh. Hội Thánh Địa Phương không phải là nơi cho người ta đến để hưởng lợi theo một cách nào đó từ sinh hoạt thờ phượng. Hội Thánh Địa Phương là một sinh thể ưu việt thuộc thẩm quyền Thiên Thượng, là một kênh ân điển của Đức Chúa Trời để các Cơ Đốc Nhân dâng phần tích cực nhất của mình để gây dựng nhau. Họ là những con người biết xưng nhận tội lỗi của mình với Đức Chúa Trời, biết tìm kiếm lời phán của Ngài, biết nương cậy Ngài hoàn toàn cho nên đời sống họ được tỏa sáng và, cùng nhau trong Hội Thánh Địa Phương, họ tỏa sáng được ngày càng nhiều hơn theo mối quan hệ cá nhân với Đức Chúa Trời ngày càng mật thiết hơn của mỗi người. Mối quan hệ cá nhân với Đức Chúa Trời ngày càng mật thiết hơn của mỗi người nhất thiết phải được thể hiện cách tập trung và cao độ qua đời sống vâng phục Đức Chúa Trời của mỗi người: “Nếu ai yêu mến Ta, thì vâng giữ lời Ta, Cha Ta sẽ thương yêu người, chúng ta đều đến cùng Người và ở trong Người.” (Gi. 14:23). Sự vâng phục Đức Chúa Trời là đỉnh cao của cuộc hạnh ngộ giữa một cá nhân với Ngài và đó là biểu hiện của sự hòa hiệp siêu nhiên giữa chủ thể của đức tin với đối tượng của đức tin ngay trên thế gian này. “7 Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em. 8 Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; 9 hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10 Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên.” (Gia. 4:7-10). Việc cố công vun đắp một mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời có lẽ là một việc làm đáng trọng và khôn ngoan hơn hết, và đó là điều chỉ có thể có ở những ai đã thuộc về Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ theo Kinh Thánh. Họ luôn luôn nhiệt thành trong việc xưng nhận tội lỗi của mình với Đức Chúa Trời, tìm cầu lời phán của Ngài trong Kinh Thánh, sống nương cậy Ngài bằng đời sống cầu nguyện, ra sức gây dựng nhau và cùng nhau gây dựng trong Hội Thánh Địa Phương, và thực sự sống vâng phục Ngài. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
18_(VI.3) “PHẢI SINH HOẠT VÌ HỘI THÁNH” (1Phi. 4:10-11; Sv. 4:7-11) “Đời sống thánh khiết theo Kinh Thánh là đời sống giàu kỹ năng sống các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho các mỹ đức thánh khiết của Đức Chúa Trời được thể hiện qua đời sống ngày càng rõ nét hơn." I. KINH THÁNH “10 Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời. 11 Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen.” (1Phi. 4:10-11; Sv. 4:7-11) II. GIẢI NGHĨA 1. Phải có phận sự thi hành ân tứ thuộc linh được Đức Chúa Trời ban vì Hội Thánh của Ngài. (C. 10) “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời.” (1Phi. 4:10) (1) “ơn”: Gr. χάρισμα [charisma] > “sự ban cho của Đức Chúa Trời” (2) “giúp”: Gr. διακονέω [diakoneo] > “phục vụ” (3) “người quản lý”: Gr. οἰκονόμος [oikonomos] > “người quản gia” (4) “trung tín”: Gr. καλός [kalos] > “cao trọng” “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy đều được sự ích chung.” (1Cô. 12:7; Sv. Rô. 12:4-8) 2. Phải vì Hội Thánh của Đức Chúa Trời mà phục vụ cách tận tụy như là cách để tôn vinh hiển Ngài. (C. 11) “Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen.” (1Phi. 4:11) (1) “giảng”: Gr. λαλέω [laleo] > “nói ra, nói lên” (2) “rao lời sấm truyền”: Gr. λόγιον [logion] > “rao sự truyền phán của Đức Chúa Trời” (3) “làm chức gì”: Gr. διακονέω [diakoneo] > “phục vụ cho, làm đầy tớ cho” (4) “nhờ sức…”: Gr. ἰσχύς [ischus] > “nhờ năng lực” “6 Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta, ai được ban cho nói tiên tri, hãy tập nói theo lượng đức tin; 7 ai được gọi đến làm chức vụ, hãy buộc mình vào chức vụ; ai dạy dỗ, hãy chăm mà dạy dỗ; 8 ai gánh việc khuyên bảo, hãy khuyên bảo; ai bố thí, hãy lấy lòng rộng rãi mà bố thí; ai cai tri, hãy siêng năng mà cai trị; ai làm sự thương xót, hãy lấy lòng vui mà làm.” (Rô. 12:6-8) III. ÁP DỤNG 1. Phải tìm biết, trau dồi, và thi hành cách trung tín ân tứ thuộc linh đã được Đức Chúa Trời ban vì sự gây dựng Hội Thánh của Ngài! (C. 10) “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời.” (1Phi. 4:10) 2. Phải vì Hội Thánh mà nuôi chí phục vụ cách tận tụy để qua đó Đức Chúa Trời được tôn vinh hiển! (C. 11) “Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen.” (1Phi. 4:11) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
17_(VI.2) “PHẢI SINH HOẠT CHO HỘI THÁNH” (Hê. 10: 24-25; Sv. 10:19-25) “Đời sống thánh khiết theo Kinh Thánh là đời sống giàu kỹ năng sống các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho các mỹ đức thánh khiết của Đức Chúa Trời được thể hiện qua đời sống ngày càng rõ nét hơn." I. KINH THÁNH “24 Ai nấy hãy coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành; 25 chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh em thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy.” (Hê. 10: 24-25; Sv. 10:19-25) II. GIẢI NGHĨA 1. Cơ Đốc Nhân chúng ta phải có phận sự chăm sóc, gây dựng nhau trong Hội Thánh (C. 24) “Ai nấy hãy coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành.” (Hê. 10:24) (1) “coi sóc nhau”: Gr. κατανοέω [katanoeo] > “quan tâm, lưu tâm” (2) “khuyên giục”: Gr. παροξυσμός [paroxusmos] > “giục giã” (3) “lòng yêu thương”: Gr. ἀγάπη [agape] > “đức phục vụ cách hy sinh” (4) “tốt lành”: Gr. καλός [kalos] > “thiện hảo về đạo đức” “Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc.” (Rô. 12:15) “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời.” (1Phi. 4:10) 2. Cơ Đốc Nhân chúng ta phải có phận sự nhóm lại trong Hội Thánh cho việc thi hành các phận sự Hội Thánh khác (C. 25) “Chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh em thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy.” (Hê. 10:25) (1) “bỏ”: Gr. ἐγκαταλείπω [egkataleipo] > “từ bỏ” (2) “sự nhóm lại”: Gr. ἐπισυναγωγή [episunagoge] > “sự tụ họp có mục đích tốt” (3) “khuyên bảo”: Gr. παρακαλέω [parakaleo] > “ở sát bên để giục giã” (4) “hầu gần”: Gr. ἐγγίζω [eggizo] > “đến gần” “13 Khi đã về đến, bèn lên một cái phòng cao kia, là nơi Phierơ, Giăng, Giacơ, Anhrê, Philíp, Thôma, Bathêlêmy, Mathiơ, Giacơ con của Aphê, Simôn Xêlốt, và Giuđe con của Giacơ thường ở. 14 Hết thảy những người đó bền lòng đồng một ý mà cầu nguyện với các người đàn bà, và Mari là mẹ Đức Chúa Jêsus cùng anh em Ngài.” (Công. 1:13-14; Sv. 2:42-47) III. ÁP DỤNG 1. Phải chắc rằng việc tham gia sinh hoạt trong Hội Thánh là nhằm gây dựng cho Hội Thánh qua việc gây dựng các đồng đạo khác. “Ai nấy hãy coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành.” (Hê. 10:24) 2. Phải giữ lòng sốt sắn đối với việc tham gia sinh hoạt trong Hội Thánh để gây dựng Hội Thánh qua việc thi hành mọi phận sự đối với Hội Thánh. “Chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh em thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy.” (Hê. 10:25) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
16_(VI.1) “PHẢI SINH HOẠT TRONG HỘI THÁNH” (Êph. 4:14-16; Sv. 4:11-16) “Đời sống thánh khiết theo Kinh Thánh là đời sống giàu kỹ năng sống các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho các mỹ đức thánh khiết của Đức Chúa Trời được thể hiện qua đời sống ngày càng rõ nét hơn." I. KINH THÁNH “14 Ngài muốn chúng ta không như trẻ con nữa, bị người ta lừa đảo, bị mưu chước dỗ dành làm cho lầm lạc, mà day động và dời đổi theo chiều gió của đạo lạc, 15 nhưng muốn cho chúng ta lấy lòng yêu thương nói ra lẽ chân thật, để trong mọi việc chúng ta đều được thêm lên trong Đấng làm đầu, tức là Đấng Christ. 16 Ấy nhờ Ngài mà cả thân thể ràng buộc vững bền bởi những cái lắt léo, khiến các phần giao thông với nhau, tùy lượng sức mạnh của từng phần, làm cho Thân Thể lớn lên, và tự gây dựng trong sự yêu thương.” (Êph. 4:14-16; Sv. 4:11-16) II. GIẢI NGHĨA 1. Cơ Đốc Nhân chúng ta có phận sự phải sinh hoạt trong Hội Thánh theo giáo lý Kinh Thánh cách ổn định, bền vững. (C. 14) “Ngài muốn chúng ta không như trẻ con nữa, bị người ta lừa đảo, bị mưu chước dỗ dành làm cho lầm lạc, mà day động và dời đổi theo chiều gió của đạo lạc.” (Êph. 4:14) (1) “người ta lừa đảo”: Gr. κυβεία [kubeia] > “sự phỉnh gạt” (2) “mưu chước dỗ dành”: Gr. πανουργία [panourgia] > “mưu mẹo” (3) “làm cho lầm lạc”: Gr. πλάνη [plane] > “lừa phỉnh” (4) “day động”: Gr. κλυδωνίζομαι [kludonizomai] > “bị kích động” (5) “dời đổi”: Gr. περιφέρω [periphero] > “bị điều khiển” (6) “đạo lạc”: Gr. ἄνεμος ὁ διδασκαλία [anemos ho didaskalia] > “giáo lý theo trào lưu, không theo Kinh Thánh” “Đáng lẽ anh em đã làm thầy từ lâu rồi, nay còn cần người ta lấy những điều sơ học của lời Đức Chúa Trời mà dạy anh em;anh em cần ăn sữa thay vì đồ ăn đặc.” (Hê. 5:12) 2. Chất liệu cho sự sinh hoạt trong Hội Thánh của Cơ Đốc Nhân chúng ta là và chỉ là tình yêu thương cùng với giáo lý Kinh Thánh. (C. 15) “Nhưng muốn cho chúng ta lấy lòng yêu thương nói ra lẽ chân thật, để trong mọi việc chúng ta đều được thêm lên trong Đấng làm đầu, tức là Đấng Christ.” (Êph. 4:15) (1) “lòng yêu thương”: Gr. ἀγάπη [agape] > “đức hy sinh phục vụ vô điều kiện” (2) “lẽ chân thật”: Gr. ἀληθεύω [aletheuo] > “giáo lý Kinh Thánh” (3) “được thêm lên”: Gr. αὐξάνω [auxano] > “tăng trưởng thuộc linh (4) “Đấng làm đầu”: Gr. κεφαλή [kephale] > “nguyên thủ” “Như vậy, mỗi người trong anh em phải chừa sự nói dối, hãy nói thật với kẻ lân cận mình, vì chúng ta làm chi thể cho nhau.” (Êph. 4:25) 3. Đích điểm sinh hoạt của Cơ Đốc Nhân chúng ta trong Hội Thánh là phải và phải là sự tự gây dựng để cùng nhau tăng trưởng thuộc linh. (C. 16) “Ấy nhờ Ngài mà cả Thân Thể ràng buộc vững bền bởi những cái lắt léo, khiến các phần giao thông với nhau, tùy lượng sức mạnh của từng phần, làm cho thân thể lớn lên, và tự gây dựng trong sự yêu thương.” (Êph. 4:16) (1) “cả Thân Thể”: Gr. σῶμα [soma] > “Hội Thánh Tân Ước” (2) “được ràng buộc”: Gr. συναρμολογέω [sunarmologeo] > “tiết hợp chặt chẽ với nhau” (3) “được vững bền”: Gr. συμβιβάζω [sumbibazo] > “tiết hợp thành một thực thể thống nhất” (4) “cái lắt léo”: Gr. ἁφή [haphe] > “cái khớp nối” (5) “giao thông với nhau”: Gr. ἐπιχορηγία [epichoregia] > “hỗ trợ nhau” (6) “lớn lên”: Gr. αὔξησις [auxesis] > “tăng trưởng” (7) “tự gây dựng”: Gr. οἰκοδομή ἑαυτοῦ [oikodome heautou] > “tự làm cho vững mạnh nội bộ” “11 Ấy chính Ngài đã cho người nầy làm Sứ Đồ, kẻ kia làm Tiên Tri, người khác làm Thầy Giảng Tin Lành, kẻ khác nữa làm Mục Sư và Giáo Sư, 12 để các thánh đồ được trọn vẹn về công việc của chức dịch và sự gây dựng Thân Thể Đấng Christ, 13 cho đến chừng chúng ta thảy đều hiệp một trong đức tin và trong sự hiểu biết Con Đức Chúa Trời, mà nên bậc thành nhân, được tầm thước vóc giạc trọn vẹn của Đấng Christ.” (Êph. 4:11-13) III. ÁP DỤNG 1. Phải giữ cho mọi sinh hoạt của Hội Thánh đều được hợp theo các nguyên tắc Kinh Thánh! “Ngài muốn chúng ta không như trẻ con nữa, bị người ta lừa đảo, bị mưu chước dỗ dành làm cho lầm lạc, mà day động và dời đổi theo chiều gió của đạo lạc.” (Êph. 4:14) 2. Phải giữ cho mọi sinh hoạt của Hội Thánh đều theo hướng dấn thân nhằm phục vụ cách hy sinh! “Nhưng muốn cho chúng ta lấy lòng yêu thương nói ra lẽ chân thật, để trong mọi việc chúng ta đều được thêm lên trong Đấng làm đầu, tức là Đấng Christ.” (Êph. 4:15) 3. Phải giữ cho mọi sinh hoạt của Hội Thánh đều có tác dụng thi hành các ân tứ thuộc linh cá nhân cho sự lớn mạnh của cả Hội Thánh! “Ấy nhờ Ngài mà cả Thân Thể ràng buộc vững bền bởi những cái lắt léo, khiến các phần giao thông với nhau, tùy lượng sức mạnh của từng phần, làm cho thân thể lớn lên, và tự gây dựng trong sự yêu thương.” (Êph. 4:16) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
15_(V.3) “PHẢI LÀM CÔNG CỤ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI CHO THẾ GIAN” (1Phi. 2:9-10; Sv. 2:1-10) “Đời sống thánh khiết theo Kinh Thánh là đời sống giàu kỹ năng sống các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho các mỹ đức thánh khiết của Đức Chúa Trời được thể hiện qua đời sống ngày càng rõ nét hơn." I. KINH THÁNH “9 Nhưng anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài; 10 anh em ngày trước không phải là một dân, mà bây giờ là dân Đức Chúa Trời, trước không được thương xót, mà bây giờ được thương xót.” (1Phi. 2:9-10; Sv. 2:1-10) II. GIẢI NGHĨA 1. Cơ Đốc Nhân chúng ta là công cụ minh thị cho mỹ đức của Đức Chúa Trời (C. 9) “Nhưng anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài” (1Phi. 2:9) (1) “dòng giống được lựa chọn”: Gr. γένος ἐκλεκτός [genos eklektos] > “những người được Đức Chúa Trời biệt riêng ra cho Ngài” (2) “chức thầy tế lễ nhà vua”: Gr. βασίλειος ἱεράτευμα [basileios hierateuma] > “vương quốc của thầy tế lễ của Đức Chúa Trời” (Sv. Xuất. 19:6; Khải. 1:6) (3) “dân thánh”: Gr. ἔθνος ἅγιος [ethnos hagios] > “được biệt riêng ra cho mục đích của Đức Chúa Trời” (Sv. Xuất. 19:6; Khải. 1:6) (4) “rao giảng”: Gr. ἐξαγγέλλω [exaggello] > “trình bày ra cho thấy” (Sv. Ês. 43:21) (5) “nhân đức”: Gr. ἀρέτη [arete] > “các mỹ đức của Đức Chúa Trời” “Ấy chính Chúa đã cứu chúng ta, đã gọi chúng ta bởi sự kêu gọi thánh, chẳng phải theo việc làm chúng ta, bèn là theo ý riêng Ngài chỉ định, theo ân điển đã ban cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ từ trước muôn đời vô cùng.” (2Ti. 1:9) 2. Cơ Đốc Nhân chúng ta là công cụ khẳng định ơn thương xót của Đức Chúa Trời (C. 10) “Anh em ngày trước không phải là một dân, mà bây giờ là dân Đức Chúa Trời, trước không được thương xót, mà bây giờ được thương xót.” (1Phi. 2:10) (1) “không phải là một dân”: Gr. οὐ λαός [ou laos] > “không được ở trong giao ước của Đức Chúa Trời” (2) “dân Đức Chúa Trời”: Gr. λαός θεός [laos theos] > “được tái sinh, được nên thánh, được biệt riêng cho Đức Chúa Trời” (3) “được thương xót”: Gr. ἐλεέω [eleeo] > “được cứu chuộc trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ” “Như Ngài phán trong sách Ôsê rằng:_Ta sẽ gọi kẻ chẳng phải dân Ta là dân Ta,_Kẻ chẳng được yêu dấu là yêu dấu” (Rô. 9:25; Sv. Ôsê 2:23) III. ÁP DỤNG 1. Cơ Đốc Nhân chúng ta phải lấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời làm động cơ tối hậu cho đời sống của mình! “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm.” (1Cô. 10:31; Sv. 1Phi. 2:9) 2. Cơ Đốc Nhân chúng ta phải lấy đời sống đạo thực hành của mình để khẳng định ơn thương xót Đức Chúa Trời đã dành cho mình! “Sự tin đạo thanh sạch không vết, trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, là: Thăm viếng kẻ mồ côi, người góa bụa trong cơn khốn khó của họ, và giữ lấy mình cho khỏi sự ô uế của thế gian.” (Gia. 1:27; Sv. Php. 2:12-18) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
14_(V.2) “PHẢI LÀM TIÊU CHUẨN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI CHO THẾ GAN” (1Gi. 2:17; Sv. 2:15-17; 1Phi. 4:1-6) “Đời sống thánh khiết theo Kinh Thánh là đời sống giàu kỹ năng sống các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho các mỹ đức thánh khiết của Đức Chúa Trời được thể hiện qua đời sống ngày càng rõ nét hơn." I. KINH THÁNH “Vả thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời.” (1Gi. 2:17; Sv. 2:15-17; 1Phi. 4:1-6) II. GIẢI NGHĨA 1. Không theo tiếng gọi bất khiết của thế gian (C. 17a) “Vả thế gian với sự tham dục nó đều qua đi…” (1Gi. 2:17a) (1) “thế gian”: Gr. κόσμος [kosmos] > “thế gian” - Chỉ về vũ trụ mà Đức Chúa Trời đã sáng tạo, bảo tồn, vận hành (Gr. κόσμος [kosmos]; Sv. Ma. 24:21; 25:34; Lu. 11:50; Rô. 1:20) - Chỉ chung về địa cầu cùng với cư dân và cuộc sống của cư dân của nó (Gr. οἰκουμένη [oikoumene]; Sv. Lu. 4:5; Gi. 16:28) - Chỉ về nhân loại cùng với tính bại hoại trên phương diện luân lý, đạo đức của nhân loại (Gr. οἰκουμένη [oikoumene]; Sv. Hê. 2:5; Lu. 2:1; 4:5) (2) “sự tham dục”: Gr. ἐπιθυμία [epithumia] > “sự ham muốn bất khiết” (3) “qua đi”: Gr. παράγω [parago] > “tiêu biến mất” “Kẻ dùng của thế gian, nên như kẻ chẳng dùng vậy; vì hình trạng thế gian nầy qua đi.” (1Cô. 7:31; Sv. 29-31) 2. Phải theo đuổi ý muốn thánh khiết của Đức Chúa Trời (C. 17b) “Song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời.” (1Gi. 2:17b) (1) “làm theo”: Gr. ποιέω [poieo] > “làm cho có trên đời sống mình” (2) “ý muốn”: Gr. θέλημα [thelema] > “sự định ý” (3) “còn lại”: Gr. μένω [meno] > “ở trong Đức Chúa Trời” “Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào.” (Rô. 12:2; Sv. Mác 3:35) III. ÁP DỤNG 1. Tra xét xem bản thân mình có bị lâm lún trong thế gian theo sự tham dục của nó và vì sự tham dục trong chính mình hay không. “Kẻ dùng của thế gian, nên như kẻ chẳng dùng vậy; vì hình trạng thế gian nầy qua đi.” (1Cô. 7:31; Sv. 1Gi. 2:17a) 2. Tra xét xem bản thân mình đã biết theo đuổi ý muốn thánh khiết của Đức Chúa Trời như một mẫu mực sống cho thế gian hay không. “Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào.” (Rô. 12:2; Sv. 1Gi. 2:17b) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
13_(V.1) “PHẢI LÀM ĐẠI BIỂU CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI TRONG THẾ GIAN” (2Cô. 2:15-17; Sv. 2:14-17) “Đời sống thánh khiết theo Kinh Thánh là đời sống giàu kỹ năng sống các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho các mỹ đức thánh khiết của Đức Chúa Trời được thể hiện qua đời sống ngày càng rõ nét hơn." I. KINH THÁNH “15Vì chúng tôi ở trước mặt Đức Chúa Trời là mùi thơm của Đấng Christ, ở giữa kẻ được cứu, và ở giữa kẻ bị hư mất: 16Cho kẻ nầy, mùi của sự chết làm cho chết; cho kẻ kia, mùi của sự sống làm cho sống. - Ai xứng đáng cho những sự nầy? - 17Vả, chúng tôi chẳng giả mạo lời của Đức Chúa Trời như nhiều kẻ khác; nhưng chúng tôi lấy lòng chân thật, theo như đạo từ Đức Chúa Trời đến thể nào, thì giảng ra thể ấy trước mặt Đức Chúa Trời, trong Đấng Christ.” (2Cô. 2:15-17; Sv. 2:14-17) II. GIẢI NGHĨA 1. Chức phận làm đại biểu của Đức Chúa Trời trong thế gian đòi hỏi Cơ Đốc Nhân phải trong sáng về đời sống (C. 15-16) “15 Vì chúng tôi ở trước mặt Đức Chúa Trời là mùi thơm của Đấng Christ, ở giữa kẻ được cứu, và ở giữa kẻ bị hư mất: 16 Cho kẻ nầy, mùi của sự chết làm cho chết; cho kẻ kia, mùi của sự sống làm cho sống. - Ai xứng đáng cho những sự nầy?” (2Cô. 2:15-16) (1) “mùi thơm của Đấng Christ”: Gr. εὐωδία [euodia] > “sự biểu trưng cho Đấng Christ” (2) “mùi của sự chết”: Gr. θάνατος [thanatos] > “ảnh hưởng xấu khiến Tin Lành mất tác dụng” (3) “mùi của sự sống”: Gr. ζωή [zoe] > “ảnh hưởng tốt khiến Tin Lành có tác dụng tích cực” “Vì Chúa có phán dặn chúng ta như vầy:Ta lập ngươi lên đặng làm sự sáng cho các dân,_Hầu cho ngươi đem sự cứu rỗi cho đến cùng cõi đất.” (Công. 13:47; Sv. Ês. 49:6) 2. Chức phận làm đại biểu của Đức Chúa Trời trong thế gian đòi hỏi Cơ Đốc Nhân phải thẳng ngay về chức trách (C. 17) “Vả, chúng tôi chẳng giả mạo lời của Đức Chúa Trời như nhiều kẻ khác; nhưng chúng tôi lấy lòng chân thật, theo như đạo từ Đức Chúa Trời đến thể nào, thì giảng ra thể ấy trước mặt Đức Chúa Trời, trong Đấng Christ.” (2Cô. 2:17) (1) “giả mạo”: Gr. καπηλεύω [kapeleuo] > “làm cho suy đồi bằng việc bán rao, trao đổi” (2) “lòng chân thật”: Gr. εἰλικρίνεια [heilikrineia] > “lòng ngay thẳng và thật thà” (3) “giảng ra thể ấy”: Gr. λαλέω [laleo] > “thốt ra, nói lên” “1Vậy nên, chúng tôi nhờ sự thương xót đã ban cho, mà được chức vụ nầy, thì chúng tôi chẳng ngã lòng; 2nhưng chúng tôi từ bỏ mọi điều hổ thẹn giấu kín. Chúng tôi chẳng theo sự dối gạt, và chẳng giả mạo lời Đức Chúa Trời, nhưng trước mặt Đức Chúa Trời chúng tôi tỏ bày lẽ thật, khiến lương tâm mọi người cho chúng tôi là đáng chuộng.” (2Cô. 4:1-2) III. ÁP DỤNG 1. Phải chuyên tâm gìn giữ để đời sống mình không có tác dụng tiêu cực đối với người khác. “15Vì chúng tôi ở trước mặt Đức Chúa Trời là mùi thơm của Đấng Christ, ở giữa kẻ được cứu, và ở giữa kẻ bị hư mất: 16Cho kẻ nầy, mùi của sự chết làm cho chết; cho kẻ kia, mùi của sự sống làm cho sống. - Ai xứng đáng cho những sự nầy?” (2Cô. 2:15-16; Sv. Công. 13:47) 2. Phải cẩn trọng trong việc thi hành các ân tứ thuộc linh đã được Đức Chúa Trời ban cho mình. “Vả, chúng tôi chẳng giả mạo lời của Đức Chúa Trời như nhiều kẻ khác; nhưng chúng tôi lấy lòng chân thật, theo như đạo từ Đức Chúa Trời đến thể nào, thì giảng ra thể ấy trước mặt Đức Chúa Trời, trong Đấng Christ.” (2Cô. 2:17; Sv. 1Phi. 4:10-11) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
12_(IV.3) “PHẢI MẬT THIẾT VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI” (Hê. 4:16; Sv. 4:14-16) “Đời sống thánh khiết theo Kinh Thánh là đời sống giàu kỹ năng sống các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho các mỹ đức thánh khiết của Đức Chúa Trời được thể hiện qua đời sống ngày càng rõ nét hơn." I. KINH THÁNH “Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng.” (Hê. 4:16; Sv. 4:14-16) II. GIẢI NGHĨA 1. Quan hệ mật thiết với Đức Chúa Trời được thể hiện qua lòng nương cậy Đức Chúa Jêsus cách hoàn toàn của chúng ta (C. 16a). “Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước…” (Hê. 4:16a) (1) “vậy”: Gr. οὖν [oun] > “thế thì” a. Chính Đức Chúa Trời là Thầy Tế Lễ của chúng ta! “Ấy vậy, vì chúng ta có Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm Lớn đã trải qua các từng trời, tức là Đức Chúa Jêsus, Con Đức Chúa Trời, thì hãy bền giữ đạo chúng ta đã nhận tin.” (Hê. 4:14) b. Là Đấng thấu cảm chúng ta trong mọi sự! “Vì chúng ta không có Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm chẳng có thể cảm thương sự yếu đuối chúng ta, bèn có một thầy tế lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội.” (Hê. 4:15) (2) “vững lòng”: Gr. παῤῥησία [parrhesia] > “không có bất cứ sự lo ngại nào” (3) “ngôi ơn phước”: Gr. θρόνος ὁ χάρις [thronos ho charis] > “ngôi của sự ân huệ” “19 Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào nơi rất thánh, 20 bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài, 21 lại vì chúng ta có một Thầy Tế Lễ Lớn đã lập lên cai trị nhà Đức Chúa Trời, 22 nên chúng ta hãy lấy lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong, mà đến gần Chúa.” (Hê. 10:19-22) 2. Quan hệ mật thiết với Đức Chúa Trời được thể hiện qua sự thấu cảm và ân huệ của Đức Chúa Jêsus đối với chúng ta (C. 16b) “Hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng.” (Hê. 4:16b) (1) “thương xót”: Gr. ἔλεος [eleos] > “sự thấu cảm” (2) “ơn”: Gr. χάρις [charis] > “ân huệ” (3) “giúp”: βοήθεια [boetheia] > “đem ra khỏi mối nguy nào đó” (4) “thì giờ có cần dùng”: Gr. εἰς εὔκαιρος [eis eukairos] > “khi cần được cứu giúp” “23 Hãy cầm giữ sự làm chứng về điều trông cậy chúng ta chẳng chuyển lay, vì Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín. 24 Ai nấy hãy coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành; 25 chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh em thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy.” (Hê. 10:23-25) III. ÁP DỤNG 1. Hãy tra xét vai trò Thầy Tế Lễ của Đức Chúa Jêsus Christ trên đời sống của chúng ta! “Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước…” (Hê. 4:16a) 2. Hãy tra xét sự nương cậy của chúng ta đối với Đức Chúa Jêsus Christ trên phương diện Thầy Tế Lễ! “Hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng.” (Hê. 4:16b) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHẢI TUÂN THỦ NGHIÊM LỜI ĐỨC CHÚA TRỜI” (2Phi. 1:20-21) “Đời sống thánh khiết theo Kinh Thánh là đời sống giàu kỹ năng sống các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho các mỹ đức thánh khiết của Đức Chúa Trời được thể hiện qua đời sống ngày càng rõ nét hơn." I. KINH THÁNH “20 Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được. 21 Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời.” (2Phi. 1:20-21) II. GIẢI NGHĨA 1. Lời Kinh Thánh Chỉ Đúng Khi Được Thông Giải Hiệp Theo Ý Chỉ Của Đức Chúa Trời (C. 20) “Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được.” (2Phi. 1:20) (1) “Kinh Thánh”: Gr. γραφή [graphe] > “lời trong Kinh Thánh” (2) “ý riêng”: Gr. ἴδιος [idios] > “thuộc phạm vi chủ quan của cá nhân” (3) “giải nghĩa”: Gr. ἐπίλυσις [epilusis] > “giải nén, giải mã” “1 Dầu vậy, trong dân chúng cũng đã có tiên tri giả, và cũng sẽ có giáo sư giả trong anh em; họ sẽ truyền những đạo dối làm hại, chối Chúa đã chuộc mình, tự mình chuốc lấy sự hủy phá thình lình. 2 Có nhiều kẻ sẽ theo họ trong những sự buông tuồng, và đạo thật vì cớ họ sẽ bị gièm pha. 3 Họ sẽ bởi lòng tham mình, lấy lời dối trá khoét anh em; nhưng sự kêu án nghịch cùng họ đã nghị định từ lâu nay, và sự hư mất của họ chẳng ngủ.” (2Phi. 2:1-3) 2. Vì Lời Trong Kinh Thánh Vốn Dành Để Bày Tỏ Ý Chỉ Của Đức Chúa Trời Và Chỉ Của Đức Chúa Trời Mà Thôi (C. 21) “Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời.” (2Phi. 1:21) (1) “lời tiên tri”: Gr. προφητεία [propheteia] > “lời Kinh Thánh” Sv. C. 20: “lời tiên tri nào trong Kinh Thánh” (2) “cảm động”: Gr. φέρω [phero] > “mang đi” (3) “nói”: Gr. λαλέω [laleo] > “bày tỏ ý bằng lời” “Ấy là điều người đã viết trong mọi bức thơ, nói về những sự đó, ở trong có mấy khúc khó hiểu, mà những kẻ dốt nát và tin không quyết đem giải sai ý nghĩa, cũng như họ giải sai về các phần Kinh Thánh khác, chuốc lấy sự hư mất riêng về mình.” (2Phi. 3:16) III. ÁP DỤNG 1. Phải Giải Nghĩa Kinh Thánh Theo Kinh Thánh Bằng Lời Kinh Thánh Để Thấy Ý Chỉ Của Đức Chúa Trời Trên Đời Sống Của Người Theo Ngài! “Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được.” (2Phi. 1:20; Sv. 2Ti. 3:16 ) 2. Phải Có Sự Chuyên Tâm Và Phải Canh Giữ Tấm Lòng Khi Thông Giải Lời Kinh Thánh! “Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời.” (2Phi. 1:21; Sv. 2Ti. 2:15) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
10_(IV.1) “PHẢI TRONG SÁNG VỀ CON NGƯỜI BỀ NGOÀI” (Ma. 11:27; Sv. 11:25-27; Gi. 1:18) “Đời sống thánh khiết theo Kinh Thánh là đời sống giàu kỹ năng sống các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho các mỹ đức thánh khiết của Đức Chúa Trời được thể hiện qua đời sống ngày càng rõ nét hơn." I. KINH THÁNH “Mọi việc Cha Ta đã giao cho Ta; ngoài Cha không có ai biết Con; ngoài Con và người nào mà Con muốn tỏ ra cùng, thì cũng không ai biết Cha.” (Ma. 11:27; Sv. 11:25-27; Gi. 1:18) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức Chúa Jêsus Christ Là Đấng Trung Bảo Của Đức Chúa Trời Và Cũng Là Đức Chúa Trời (C. 27a) “Mọi việc Cha Ta đã giao cho Ta.” (Ma. 11:27a) (1) “mọi việc”: Gr. πᾶς [pas] > “từng việc một” (2) “Cha Ta”: Gr. πατήρ μοῦ [pater mou] > “Cha của Ta” (3) “đã giao”: Gr. παραδίδωμι [paradidomi] > “phán truyền” “Cha yêu Con, và đã giao hết mọi vật trong tay Con.” (Gi. 3:35; Sv. 31-36) 2. Chỉ Có Thể Nhận Thức Đúng Đức Chúa Trời Qua Việc Nhận Thức Đúng Đức Chúa Jêsus Christ (C. 27b) “Ngoài Cha không có ai biết Con; ngoài Con và người nào mà Con muốn tỏ ra cùng, thì cũng không ai biết Cha.” (Ma. 11:27b) (1) “Ngoài Cha… Ngoài Con”: Gr. οὐδείς [oudeis] > “không ai khác” (2) “tỏ ra”: Gr. ἀποκαλύπτω [apokalupto] > “khải thị” (3) “biết”: Gr. ἐπιγινώσκω [epiginosko] > “nhận thức được” “Đặng ai nấy đều tôn kính Con, cũng như tôn kính Cha vậy. Ai không tôn kính Con, ấy là không tôn kính Cha, là Đấng đã sai Con đến.” (Gi. 5:23; Sv. 19-29) III. ÁP DỤNG 1. Phải đứng vững trong Đức Chúa Jêsus Christ vì ngoài Ngài không còn có bất cứ chương trình cứu chuộc nào khác cho nhân loại! “Mọi việc Cha Ta đã giao cho Ta.” (Ma. 11:27a; 1Ti. 2:5; Công. 4:12) 2. Phải có Đức Chúa Jêsus Christ ngày càng nhiều hơn để có Đức Chúa Trời ngày càng nhiều hơn! “Ngoài Cha không có ai biết Con; ngoài Con và người nào mà Con muốn tỏ ra cùng, thì cũng không ai biết Cha.” (Ma. 11:27b; Sv. Gi. 1:18) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |