“ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG CHÚNG TA” (Ma. 1:18-25) “Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, và sanh một Con Trai,_Rồi người ta sẽ đặt tên Con Trai đó là Emmanuên; _Nghĩa là: Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta.” (Ma. 1:18-25) Sứ Đồ Phaolô khẳng định rằng “Đức Chúa Jêsus Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn, đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy…” (1Ti. 1:15). Kinh Thánh bày tỏ cho chúng ta biết được rằng Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời, Ngài đã giáng sinh để ở cùng chúng ta, hiện vẫn đang ở cùng chúng ta bởi Thánh Linh của Ngài, và sẽ còn tái lâm để ở cùng chúng ta… I. “ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG CHÚNG TA” ĐỂ TỰ KHẢI THỊ CHO CHÚNG TA “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” là Lẽ Thật căn bản của mọi Lẽ Thật Cơ Đốc. Trước hết là vì chúng ta chỉ là loài người hữu hạn, nếu Đấng Vô Hạn không đẹp ý tự khải thị Ngài cho chúng ta thì chúng ta sẽ không thể biết được Ngài. Kinh Thánh phán rằng “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” để tự khải thị Ngài cho chúng ta: “1Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các Đấng Tiên Tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần, nhiều cách, 2rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập lên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian.” (Hê. 1:1-2) Với một sự khôn ngoan vô hạn, Đức Chúa Trời đã chọn giải pháp nhập thể để khải thị chính Ngài và chương trình cứu rỗi hoàn hảo của Ngài. “Trở nên giống như loài người” (Phil. 2:7) là cách thuận lợi nhất cho nhân loại có thể lĩnh hội Ngài: “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy Ơn và Lẽ Thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con Một đến từ nơi Cha.” (Gi. 1:14) Đức Chúa Jêsus là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời, Ngài là Đức Chúa Trời, Ngài là Bản Thể của Đạo (“Ngôi Lời”, Gk. logos). “Đạo” của Đức Chúa Jêsus cũng là “Đạo” về Đức Chúa Jêsus, tức là Đạo của Đức Chúa Trời và về Đức Chúa Trời. Đạo của Đức Chúa Trời là con đường duy nhất chân chính theo sự nhìn nhận của Ngài để nhân loại theo đó mà được cứu độ đến sự sống đời đời. II. “ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG CHÚNG TA” ĐỂ CỨU ĐỘ CHÚNG TA “Đạo” của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus là Thiên Đạo, là Đạo chân chính duy nhất có quyền năng cứu chuộc người tin ra khỏi nợ tội, án tội, và ách tội: “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có Danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu.” (Công. 4:12) “Danh” của Đức Chúa Jêsus không phải chỉ đơn thuần có nghĩa là “danh xưng” của Đức Chúa Jêsus, tức là tên gọi Đức Chúa Jêsus! Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, “Danh” (Gk. onoma) được dùng để nói về tất cả những gì mà Đấng có “Danh” ấy đem lại được. “Danh” của Đức Chúa Jêsus hàm ý về Công Nghiệp Cứu Rỗi mà Đức Chúa Jêsus đã hoàn thành trên Thập Tự Giá cho nhân loại, cùng những gì Ngài đang hoàn thành trong đời sống người tin, và với những gì Ngài sẽ còn hoàn thành cho người tin Ngài trong tương lai khi Ngài tái lâm! Ba sự hoàn thành ấy hợp lại thành một thể thống nhất của sự cứu rỗi trọn vẹn trong và qua Đức Chúa Jêsus: “Người sẽ sanh một Trai, ngươi khá đặt tên là JÊSUS, vì chính Con Trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội.” (Ma. 1:21) “4Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới Luật Pháp, 5để chuộc những kẻ ở dưới Luật Pháp…” (Gal. 4:4-5) “6Thật vậy, khi chúng ta còn yếu đuối, Đấng Christ đã theo kỳ hẹn chịu chết vì kẻ có tội… 8Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” (Rô. 5:6, 8) “3Vả, trước hết tôi đã dạy dỗ anh em điều mà chính tôi đã nhận lãnh, ấy là Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo Lời Kinh Thánh; 4Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại theo Lời Kinh Thánh.” (1Cô. 15:3-4) Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời, Ngài đã giáng sanh, sống như một người giữa mọi người. Đức Chúa Jêsus đã chết thay trên Thập Tự Giá cho tội lỗi của nhân loại. Đức Chúa Jêsus đã bị chôn, nhưng chúng ta là những người có phước vì “đến ngày thứ ba” Cứu Chúa của chúng ta đã phục sinh và hiện nay Ngài vẫn đang sống! III. “ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG CHÚNG TA” ĐỂ BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI CHO CHÚNG TA Trong một thế giới “vô phước”, chúng ta là những người có phước vì chúng ta đang được sống trong sự dắt dẫn của một Cứu Chúa hằng sống! Đức Chúa Jêsus chẳng những đã chết cho tội lỗi của chúng ta, Ngài cũng đã sống lại để bảo đảm sự sống đời đời cho chúng ta: “4Nhưng Đức Chúa Trời, là Đấng giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta, 5nên đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ - ấy là nhờ Ân Điển mà anh em được cứu – 6và Ngài làm cho chúng ta đồng sống lại và đồng ngồi trong các nơi trên trời trong Đức Chúa Jêsus Christ.” (Êph. 2:4-6) “Sự sống đời đời” không đồng nghĩa với “được sống đời đời”. Trước hết, sống đời đời là “sống với Đấng Christ” trong hiện tại, tức có mối tương giao mật thiết với Ngài, được sống đắc thắng trong quyền năng phục sinh của Ngài. “Sự sống đời đời” trước hết là sự sống thuộc linh của chúng ta có được nhờ Đức Chúa Jêsus: “13Khi anh em đã chết bởi tội lỗi mình và sự xác thịt mình không chịu cắt bì, thì Đức Chúa Trời đã khiến anh em sống lại với Đấng Christ, vì đã tha thứ hết mọi tội chúng ta: 14Ngài đã xóa tờ khế lập nghịch cùng chúng ta, các điều khoản trái với chúng ta nữa, cùng phá hủy tờ khế đó mà đóng đinh trên Cây Thập Tự; 15Ngài đã truất bỏ các quyền cai trị cùng các thế lực, dùng Thập Tự Giá chiến thắng chúng nó, và nộp ra tỏ tường giữa thiên hạ.” (Côl. 2:13-15) “Sự sống đời đời” còn có nghĩa là được sống lại trong tương lai để sống đời đời với Đức Chúa Jêsus trong sự vinh hiển của Ngài: Chúng ta sẽ được mặc lấy thân thể vinh hiển giống như Ngài, được ban thưởng trước Ngôi Ngài, và sẽ được đồng trị cùng Ngài: “22Như trong Ađam mọi người đều chết, thì cũng một lẽ ấy, trong Đấng Christ mọi người đều sẽ sống lại, 23nhưng mỗi người theo thứ tự riêng của mình: Đấng Christ là trái đầu mùa; rồi tới ngày Đấng Christ đến, những kẻ thuộc về Ngài sẽ sống lại.” (1Cô. 15:22-23) “48Người thuộc về đất thể nào, thì những kẻ thuộc về đất cũng thể ấy; người thuộc về trời thể nào, thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy. 49Như chúng ta đã mang ảnh tượng của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang ảnh tượng của người thuộc về trời” (1Cô. 15:48-49) “Đấng đã khiến Đức Chúa Jêsus sống lại cũng sẽ làm cho chúng tôi sống lại với Đức Chúa Jêsus, và làm cho chúng tôi ứng hầu với anh em trước mặt Ngài.” (2Cô. 4:14) “Khi Đấng làm đầu các kẻ chăn chiên hiện ra, anh em sẽ được mão triều thiên vinh hiển, chẳng hề tàn héo.” (1Phi. 5:4) Vì vậy, niềm tin và sự trông cậy của chúng ta trong khi theo Chúa phải là “sự sống đời đời”: “Nếu chúng ta chỉ có sự trông cậy trong Đấng Christ về đời nầy mà thôi, thì trong cả mọi người, chúng ta là kẻ khốn nạn hơn hết.” (1Cô. 15:19) IV. “ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG CHÚNG TA” ĐỂ Ở TRONG CHÚNG TA Niềm tin và sự trông cậy là chỗ dựa cho đức tin của một cá nhân chứ không phải là xúc cảm của cá nhân ấy. Việc “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” là Lẽ Thật mà chúng ta tin nhận chứ không phải là xúc cảm mà chúng ta tri giác được. “Tin” (điều gì) là kết quả của nhận thức, còn “xúc cảm” (về điều gì) là kết quả của tri giác: “Vả, đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đương trông mong, là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy.” (Hê. 11:1). Chúng ta tin nhận rằng Đức Chúa Trời hiện vẫn đang ở cùng chúng ta trong chúng ta theo lời phán của Ngài trong Kinh Thánh chứ không phải vì chúng ta “cảm nhận” được bằng sự tri giác bất toàn của bản chất người đã bị sa bại mà chúng ta hiện đang có: “…Chúng ta là đền thờ của Đức Chúa Trời hằng sống, như Đức Chúa Trời đã phán rằng: Ta sẽ ở và đi lại giữa họ; Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ, và họ làm dân Ta.” (2Cô. 6:16) “Và nầy, Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.” (Ma. 28:20b) Đức Chúa Trời đã “ở cùng chúng ta” trong nhân trạng Đức Chúa Jêsus, Ngài đã chịu chết trên Thập Tự Giá để đền tội thay cho chúng ta, Ngài đã phục sinh để bảo đảm cho sự sống đời đời của chúng ta, và Ngài đang “ở cùng chúng ta” trong chúng ta bởi Thân Vị Đức Thánh Linh, Ngôi Ba của Đức Chúa Trời Ba Ngôi: “Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên Ủi khác, để ở với các ngươi đời đời.” (Gi. 14:16) “Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời.” (Rô. 8:16) Đức Thánh Linh hiện đang ở cùng chúng ta trong chúng ta để mục vụ cho chúng ta trên nhiều phương diện khác nhau nhưng tựu trung là để cho chúng ta có năng lực vâng theo sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh: “Nhưng Đấng Yên Ủi, tức là Đức Thánh Linh mà Cha sẽ nhân danh Ta sai xuống, Đấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho các ngươi nhớ mọi điều Ta đã phán cùng các ngươi.” (Gi. 14:26) Đức Chúa Jêsus đã giáng sinh trong trần gian này. Chúng ta đã có được Ngài qua việc ăn năn tội, tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa của đời sống chúng ta, và nhờ đó chúng ta đã nhận được sự cứu rỗi mà Ngài đã hoàn thành trên Thập Tự Giá cho người tin Ngài. Nhưng Đức Chúa Jêsus cũng đã phục sinh để bảo đảm cho sự sống đời đời của chúng ta là mối tương giao thuộc linh mật thiết giữa chúng ta với Ngài. Chúng ta cũng cần phải có được một sự quả quyết như Sứ Đồ Phaolô rằng“10…tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài, 11mong cho tôi được sống lại từ trong kẻ chết.” (Phil. 3:10-11). Đức Chúa Trời vẫn đang “ở cùng chúng ta” bởi Thánh Linh của Ngài để “dạy dỗ” chúng ta mọi điều theo ý chỉ Thiên Thượng đã được khải thị trong Kinh Thánh, thế nhưng mỗi ngày, trong tất cả mọi điều, chúng ta có quả quyết được rằng “Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi,_Ánh sáng cho đường lối tôi.” (Thi. 119:105) hay không? “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” là Lẽ Thật căn bản của mọi Lẽ Thật Cơ Đốc; Ngài ở cùng chúng ta để Ngài có thể có được chúng ta và nhờ đó mà chúng ta có Ngài; phận sự của chúng ta là phải biến sự tin nhận này thành hiện thực trong đời sống chúng ta bằng sự vâng lời chứ không phải chỉ là một sự cảm nhận theo cảm xúc. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“HÃY CHỊU KHỔ VÌ DANH CHÚA!” (1Phi. 4:12-19) “Vậy những kẻ chịu khổ theo ý muốn của Đức Chúa Trời, hãy cứ làm lành mà phó linh hồn mình cho Đấng Tạo Hóa thành tín.” (1Phi. 4:19) Malcolm Muggeridge, một nhà hoạt động Cơ Đốc được xem là có tài hùng biện “như các vị Sứ Đồ”, đã nhìn nhận như thế này: “Tôi có thể nói hoàn toàn thực lòng rằng tất cả những gì tôi đã học được trong quãng đời 75 năm trên đời này của tôi, những gì đã thực sự thăng tiến và soi sáng cho vốn sống của tôi, tất cả đều đã được đến từ nỗi đau chứ không phải từ niềm vui”. Chính qua nỗi đau và sự chịu khổ mà những bài học lớn nhất cho cuộc sống đã được chắt lọc, tích lũy. Chính những nhà giảng luận bậc thầy trong thế giới Cơ Đốc Giáo đã xác nhận điều ấy. Samuel Rutherford cho biết rằng khi mình phải ở trong hố sâu của những sự khổ đau thì đó cũng chính là lúc ông thấy như được ở trong những gian hầm lớn chứa vô số mỹ tửu của một hoàng đế thịnh vượng. Một nhà giảng luận Báptít nổi tiếng, Charles Spurgeon, nói: “Chỉ những ai đã từng lặn lội trong các vùng biển khổ đau mới có thể đem về được những viên ngọc quí”. Sứ Đồ Phierơ khích lệ chúng ta hãy vui mừng giữa khi chịu khổ bằng cách nhìn vào một viễn cảnh tươi sáng hơn là hoàn cảnh đen tối hiện thời. Dầu hiện tại trông có vẻ đen tối, vẫn có một tương lai xán lạn ở phía sau những gì chúng ta đang trông thấy và cảm nhận. Trong mạch văn của phân đoạn Kinh Thánh này, Sứ Đồ Phierơ giải thích cho sự chịu khổ bằng cách trả lời câu hỏi “Tại sao?”. Thật vậy, mỗi khi phải chịu bắt bớ vì danh Đức Chúa Jêsus, chúng ta đều hỏi “Tại sao?”. Đó là một câu hỏi có ích, chúng ta cần phải biết đích điểm của việc chịu khổ vì làm một chứng nhân kiên định cho Tin Lành của Đức Chúa Trời là gì? A. Ý MUỐN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI Câu trả lời cho câu hỏi “Tại sao chúng ta phải chịu khổ?” có thể được tìm thấy ngay trong 1Phi. 4:19: “Vậy những kẻ chịu khổ theo ý muốn của Đức Chúa Trời, hãy cứ làm lành mà phó linh hồn mình cho Đấng Tạo Hóa thành tín.”. Dầu rằng thoạt đầu trông có vẻ khó hiểu, nhưng chúng ta rất dễ nhận ra rằng ấy chính là theo ý muốn của Đức Chúa Trời mà mỗi một người chúng ta phải chịu đựng các nỗi đau trên bước đường theo Chúa. Sự đau khổ không những được Đức Chúa Trời cho phép xảy đến trong đời sống của chúng ta, nó còn được Đức Chúa Trời sử dụng để hoàn thành chương trình và mục đích của Ngài. Thế nhưng, tại sao Đức Chúa Trời lại dùng việc chịu khổ? “12Hỡi kẻ rất yêu dấu, khi anh em bị trong lò lửa thử thách, chớ lấy làm lạ như mình gặp một việc khác thường. 13Nhưng anh em có phần trong sự thương khó của Đấng Christ bao nhiêu, thì hãy vui mừng bấy nhiêu, hầu cho đến ngày vinh hiển của Ngài hiện ra, thì anh em cũng được vui mừng nhảy nhót. 14Ví bằng anh em vì cớ danh Đấng Christ chịu sỉ nhục, thì anh em có phước; vì sự vinh hiển và Thánh Linh của Đức Chúa Trời đậu trên anh em.” (1Phi. 4:12-14) I. VIỆC CHỊU KHỔ THANH TẨY VÀ TINH LUYỆN ĐỨC TIN CHÚNG TA 1. Chịu Khổ Như Trải Qua Thử Thách Sứ Đồ Phierơ gọi việc chịu khổ là “lò lửa thử thách” (C. 12 > Gk. purosis: đốt để tinh luyện). Một sự thử thách có thể là một sự cám dỗ, mà cũng có thể là một cuộc thử nghiệm. Sự cám dỗ nhằm mục đích làm sụp đổ đức tin của chúng ta. Ngược lại, cuộc thử nghiệm là nhằm làm cho đức tin của chúng ta trở nên vững chắc hơn. Như chúng ta đã biết, Đức Chúa Trời không cám dỗ ai cả: “Chớ có ai đương bị cám dỗ mà nói rằng: Ấy là Đức Chúa Trời cám dỗ tôi; vì Đức Chúa Trời chẳng bị sự ác nào cám dỗ được, và chính Ngài cũng không cám dỗ ai” (Gia. 1:13). Không bao giờ Đức Chúa Trời muốn làm cho chúng ta phạm tội. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời cho phép sự chẳng lành đến với chúng ta như một sự thử nghiệm để luyện lọc, tinh chế đức tin của chúng ta. Chúng ta có thể thấy điều này nghiệm đúng trong trường hợp của Ađam và Êva, Gióp, cũng như trong việc Đức Chúa Jêsus chịu cám dỗ trong đồng vắng. Mặc dầu Đức Chúa Trời không phải là nguồn gốc của sự cám dỗ, Ngài vẫn cho phép sự cám dỗ xảy ra như một phương tiện để tinh luyện đức tin của Dân Ngài. Thực tế ấy cũng được Sứ Đồ Phierơ bày tỏ trong một nơi khác: “6Anh em vui mừng về điều đó, dầu hiện nay anh em vì sự thử thách trăm bề buộc phải buồn bã ít lâu; 7hầu cho sự thử thách đức tin anh em quí hơn vàng hay hư nát, dầu đã bị thử lửa, sanh ra ngợi khen, tôn trọng, vinh hiển cho anh em khi Đức Chúa Jêsus Christ hiện ra” (1Phi. 1:6-7). Sự thử nghiệm làm cho chúng ta phải buồn khổ, nhưng đó là điều cần thiết vì chỉ qua thử nghiệm chúng ta mới biết đức tin của mình có thật hay không. Qua thử nghiệm, chúng ta tỏ cho thấy đức tin của mình ra sao là điều bảo đảm cho sự vinh hiển tương lai và đời đời của chúng ta. Như vậy, việc chịu khổ được sử dụng theo ý muốn của Đức Chúa Trời như một phương tiện tinh luyện cho đức tin. Đức Chúa Trời dùng việc chịu khổ cho chúng ta tự chứng đức tin của mình. Kim loại phải được tinh luyện bằng nhiệt độ cao thế nào thì đức tin của chúng ta cũng cần được thử nghiệm trong lửa chịu khổ thế ấy. 2. Chịu Khổ Như Hậu Quả Của Tội Lỗi Tuy nhiên, không phải tất cả các sự chịu khổ đều theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Có nhiều việc chịu khổ không phải do Đức Chúa Trời gửi đến để tinh luyện đức tin của chúng ta mà là do chúng ta chuốc lấy vì thiếu sự toàn tín đối với Ngài. “Trong anh em chớ có ai chịu khổ như kẻ giết người, như kẻ trộm cướp, như kẻ hung ác, như kẻ thày lay việc người khác.” (1Phi. 4:15) Lời của Sứ Đồ Phierơ chỉ ra cho chúng ta thấy còn có nhiều nguy cơ khác khiến chúng ta phải chịu khổ, và tất cả các nguy cơ ấy đều là hậu quả của tội lỗi. Lời Kinh Thánh chỉ rõ rằng chẳng phải tất cả những gì chúng ta phải nếm chịu đều thuộc về trận chiến thuộc linh. Cơ Đốc Nhân được kêu gọi hãy chịu khổ vì làm điều đẹp ý Đức Chúa Trời (1Phi. 4:19), và chỉ để làm điều đẹp ý Đức Chúa Trời mà thôi (Sv. Công. 4:19; 5:29). Như vậy, mỗi người cần phải hết sức thận trọng trong công việc của mình để khỏi làm ô nhục sự chịu khổ của Đức Chúa Jêsus và các thánh đồ của Ngài. II. VIỆC CHỊU KHỔ LÀM VINH HIỂN ĐỨC CHÚA TRỜI Mục đích thứ hai của việc chịu khổ của Cơ Đốc Nhân là làm vinh hiển cho Đức Chúa Trời: “Nhưng nếu có ai vì làm tín đồ Đấng Christ mà chịu khổ, thì đừng hổ thẹn; thà hãy vì danh ấy ngợi khen Đức Chúa Trời là hơn.” (1Phi. 4:16) Hãy chú ý lời của Tiên Tri Êsai: “9Ta vì danh mình mà tạm nhịn giận Ta; vì sự vinh hiển mình mà nhịn nhục đối với ngươi, đặng không hủy diệt ngươi. 10Nầy, ta luyện ngươi, nhưng không phải như luyện bạc; Ta đã thử ngươi trong lò hoạn nạn. 11Ấy là vì Ta, một mình Ta, mà Ta sẽ làm điều đó; vì Ta há để nhục danh Ta sao? Ta sẽ chẳng nhường sự vinh hiển Ta cho thần nào khác.” (Ês. 48:9-11) Theo ý muốn của Đức Chúa Trời, sự chịu khổ của chúng ta làm vinh hiển Ngài. Chúng ta không thể nào làm vinh hiển Chúa khi chúng ta làm sai, nhưng một khi vì ý muốn của Đức Chúa Trời mà chúng ta phải chịu khổ thì chúng ta làm vinh hiển Ngài. Bằng sự chịu khổ, chúng ta làm cho danh Ngài hiển hiện ra giữa thế giới này. Làm sáng danh Đức Chúa Trời là mục đích tối hậu mà ai nấy đều phải ra sức thực hiện cho được: “Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen.” (1Phi. 4:11). Khi vì cớ Đức Chúa Jêsus mà chúng ta trung tín chịu khổ, chúng ta làm cho vinh hiển danh Đức Chúa Trời. III. PHẢI CHỊU KHỔ VÌ SỰ PHÁN XÉT ĐƯỢC KHỞI TỪ NHÀ ĐỨC CHÚA TRỜI Lý do thứ ba khiến Đức Chúa Trời để cho Dân Ngài chịu khổ được tìm thấy trong câu 17: “Vì thời kỳ đã đến, là khi sự phán xét sẽ khởi từ nhà Đức Chúa Trời; vả, nếu khởi từ chúng ta, thì sự cuối cùng của những kẻ chẳng vâng theo Tin Lành của Đức Chúa Trời sẽ ra thế nào?” (1Phi. 4:17) Đây là một câu hỏi không kém phần quan trọng: “Vì sao hiện nay lại là thời kỳ đang có sự phán xét đối với gia đình Đức Chúa Trời? Đã là người nhà của Đức Chúa Trời, tại sao các Cơ Đốc Nhân lại còn phải chịu phán xét? Bản chất của sự phán xét ấy là như thế nào?” Sự phán xét mà Sứ Đồ Phierơ nhắc đến ở đây không phải là sự phán xét đời đời dành cho những người không tin khi Đức Chúa Jêsus tái lâm. Sự phán xét được nói đến ở đây là sự phán xét nhất thời để củng cố cho Hội Thánh vững mạnh trước khi Đức Chúa Jêsus trở lại để đón nhận. Sự phán xét mà Sứ Đồ Phierơ nhắc đến không phải là một tai họa cho Hội Thánh. Trái lại, tai họa là ở chỗ Hội Thánh không biết tự chuẩn bị mình cho sự chịu khổ phải có trước khi Đức Chúa Jêsus tái lâm. Đó đây vẫn còn khá nhiều người cho rằng đời sống theo Chúa là một đời sống an nhàn, không cần phải trả giá, không cần phải tự chuẩn bị mình để được hoàn thành sự cứu rỗi,… Đời sống theo Chúa không phải là một cuộc phiêu lưu vô định với những diễn biến bất định: “Vả, trong các ngươi có ai là người muốn xây một cái tháp, mà trước không ngồi tính phí tổn cho biết mình có đủ của đặng làm xong việc cùng chăng sao?” (Lu. 14:28) Đời sống theo Chúa không phải là không có giá phải trả: “Ai không vác cây thập tự mình mà theo Ta, thì cũng chẳng đáng cho Ta” (Ma. 10:38). Đời sống theo Chúa là một cuộc kinh nghiệm quyền năng đắc thắng của Đức Chúa Trời qua mỗi ngày, trong từng việc: “Nếu ai muốn theo Ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo Ta.” (Lu. 9:23) Trong những năm 1930 ở Nga, làm thành viên tích cực của Hội Thánh đồng nghĩa với việc trở thành một kẻ phản động đối với chế độ. Kinh Thánh đã từng bị ráo riết tịch thu, và nhiều tín hữu đã phải bỏ mình chỉ vì không chịu từ bỏ niềm tin. Một ngày kia, giữa khi một nhóm tín hữu tư gia đang nhóm lại với nhau thì có một tốp lính đến. Biết trong nhà có nhiều người đang nhóm lại, họ đứng bên ngoài và thông báo cho biết rằng họ là lính của Nhà Nước; họ cho phép mọi người có 5 phút để được rời khỏi địa điểm trước khi họ vào nhà. Chỉ trong vòng vài phút đầu tiên, hơn một nửa số người đang nhóm đã vội vàng bỏ đi. Số còn lại đang hoang mang, túm tụm lại với nhau ở một góc nhà, thiết tha cầu nguyện… Hết hạn 5 phút, tốp lính bước vào nhà. Họ chào những người còn lại, ngỏ ý cho biết muốn được có một dịp thờ phượng trong sự an toàn, không có mặt những tín hữu dễ bị dao động… Trên một phương diện, sự phán xét của Đức Chúa Trời dành cho gia đình Ngài là để cho Dân Ngài “Khỏi bị án làm một với người thế gian” (1Cô. 11:32) vì “Nếu người công bình còn khó được rỗi, thì những kẻ nghịch đạo và có tội sẽ trở nên như thế nào?” (1Phi. 4:18) B. SỰ ĐÁP ỨNG CỦA CHÚNG TA Nếu đã biết việc chịu khổ vì danh Chúa là theo ý muốn của Đức Chúa Trời, chúng ta cần phải quyết tránh những điều không nên làm, và phải quyết làm những điều không nên tránh: I. NHỮNG ĐIỀU KHÔNG NÊN LÀM Trên phương diện thụ động, có những việc không nên làm: 1. Thứ nhất, “Chớ Lấy Làm Lạ” (C. 12) “Lấy làm lạ” là ngạc nhiên hay bối rối. Chúng ta không ngạc nhiên về việc chịu khổ trong đời sống Cơ Đốc khi chúng ta đã biết trước rằng có một cái giá phải trả cho đời sống theo Chúa và đã tự chuẩn bị mình về việc ấy (Sv. Lu. 14:28; Ma. 10:38). Chúng ta cũng sẽ không bối rối khi đã biết chấp nhận giá phải trả, và biết nương cậy Chúa để làm trọn phần việc được giao của mình (Sv. Lu. 9:23). 2. Thứ hai, “Đừng Hổ Thẹn” (C. 16) Một khi biết được rằng việc chịu khổ trong đời sống theo Chúa sẽ làm cho vinh hiển Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ thôi không còn chịu ảnh hưởng bởi sự phê phán của thế gian nữa. Buồn sẽ được đổi làm vui một khi ý nghĩa đã được nhận thức. Chúng ta sẽ được khích lệ nhiều bởi lời của Sứ Đồ Phaolô: “Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu” (1Cô. 15:58). Chúng ta sẽ xem lời gièm chê của thế gian này là vô nghĩa vì “Họ thấy anh em chẳng cùng họ theo sự dâm dật bậy bạ ấy, thì họ lấy làm lạ và gièm chê” (1Phi. 4:4). II. NHỮNG ĐIỀU KHÔNG NÊN TRÁNH Tích cực hơn, Cơ Đốc Nhân chân chính phải làm những điều không nên tránh: 1. Thứ nhất, “Hãy Vui Mừng” (C. 13) Thông thường, khi đối diện với sự chịu khổ, chúng ta dễ bị co rúm trong sự đau đớn của hoàn cảnh hiện tại, chúng ta bị hiện trạng làm che lấp mất viễn cảnh. Thay vì dùng thực trạng để làm vinh hiển Đức Chúa Trời, chúng ta dễ bị rơi vào chỗ để cho thực trạng cuốn hút chúng ta vào một tiến trình ngày càng bi đát. Điều chúng ta đáng nên làm là phải vui mừng vì biết rằng nhờ sự chịu khổ: (1) Chúng ta giữ được đức tin và sẽ được hưởng tương lai vinh hiển mà Đức Chúa Jêsus sẽ đem đến cho chúng ta khi Ngài trở lại (C. 13); (2) Chúng ta được thông công với sự thương khó của Đức Chúa Jêsus và của các thánh đồ trong quyền phép của Đức Thánh Linh (C. 14). Một vị Mục Sư đã từng chịu nhiều sự tra tấn, bắt bớ dưới thời của Nicholae Ceausescu ở Romania ghi lại như thế này: “Sự liên hiệp với Đức Chúa Jêsus là một sự kiện đẹp nhất trong đời sống Cơ Đốc. Sự liên hiệp với Chúa nói lên rằng tôi không phải chỉ là tôi trên thế gian này mà tôi là cánh tay nối dài của Đức Chúa Jêsus. Khi tôi vì Ngài mà chịu tra tấn, hành hạ thì đó là lúc Ngài chịu tra tấn, hành hạ trong xác thân tôi. Sự chịu khổ của tôi không còn là của riêng tôi nữa. Tôi chỉ là công cụ để tôn cao và chia sẻ sự chịu khổ của Đức Chúa Jêsus mà thôi”. Sự vui mừng trong tương lai của các Cơ Đốc Nhân sẽ tỷ lệ thuận với những nỗi đau vì danh Chúa trong hiện tại: “11Khi nào vì cớ Ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. 12Hãy vui vẻ và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm…” (Ma. 5:11-12). 2. Thứ hai, “Hãy Cứ Làm Lành” (C. 19) Làm lành là làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, vì “Chỉ có một Đấng Nhân Lành, là Đức Chúa Trời” (Mác 10:18). Làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời là tiêu chuẩn để nhận biết một người có thuộc về Đức Chúa Jêsus hay không: “Hễ ai làm theo ý muốn của Cha Ta ở trên trời, thì người đó là anh em, chị em Ta, cùng là mẹ Ta vậy” (Ma. 12:50). Việc làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời là sự biểu hiện cao độ và tập trung của đời sống Cơ Đốc. Chính vì thế mà nguyên tắc hành động của Cơ Đốc Nhân mọi thời đại là “Thà phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta” (Công. 5:29) cho dầu giá phải trả là sự chịu khổ hay bất cứ điều gì. Sự chịu khổ của Cơ Đốc Nhân trên thế gian này không phải là một điều ngẫu nhiên mà là theo mục đích của Đức Chúa Trời. Sự chịu khổ vì danh Chúa của những người kính yêu Ngài là phổ quát vì “Hết thảy mọi người muốn sống cách nhơn đức trong Đức Chúa Jêsus Christ, thì sẽ bị bắt bớ” (2Ti. 3:12). Sự chịu khổ của các Cơ Đốc Nhân cũng không phải là một công việc riêng tư của từng người mà là một sự liên hiệp giữa mỗi người tin với chính Ba Ngôi Đức Chúa Trời đến nỗi họ “Được biết Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài…” để rồi “Nên giống như Ngài trong sự chết Ngài”, và rồi sẽ “Được sự sống lại từ trong kẻ chết” (Phil. 3:10-11). Mọi Cơ Đốc Nhân chân chính đều không ngại chịu khổ, họ tin chắc vào lời hứa của Đức Chúa Trời: “Những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh em chịu cám dỗ quá sức mình đâu; nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được” (1Cô 10:13). Tin, và trung tín trong sự mình đã tin, chúng ta có thể đồng thanh cùng thánh đồ của mọi thời đại rằng “Vậy những kẻ chịu khổ theo ý muốn của Đức Chúa Trời, hãy cứ làm lành mà phó linh hồn mình cho Đấng Tạo Hóa thành tín” (1Phi. 4:19). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“ĐỂ TRỪNG PHẠT HAY ĐỂ ĐƯỢC TÔN VINH HIỂN?” (Gi. 9:1-3Gi. 9:1-3) “Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Đó chẳng phải tại người hay tại cha mẹ đã phạm tội; nhưng ấy để cho những việc Đức Chúa Trời được tỏ ra trong người.” (Gi. 9:3) Trong vài tuần đầu sau thảm họa ‘Tsunami Ấn Độ Dương’, trên một số kênh truyền hình có mục thảo luận về đề tài “Vì Sao Đức Chúa Trời Cho Phép Thảm Họa Tsunami Xảy Ra?”. Có cả các Cơ Đốc Nhân lẫn những người vô thần tham gia vào việc thảo luận. Một vị nữ Cơ Đốc Nhân phát biểu một cách đầy tin tưởng rằng “Chính cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời đã trút đổ trên các nạn nhân ấy”. Người ta tường thuật rằng các nhà lãnh đạo Hồi Giáo ở Indonesia cũng đã giảng dạy cho các tín đồ Hồi Giáo ở đó rằng thảm họa ‘Tsunami’ ấy xảy đến là vì tội lỗi của họ. Đã có hơn 220.000 người bị thiệt mạng trong thảm họa ‘Tsunami Ấn Độ Dương’. Vậy có phải đây thực sự là một sự trừng phạt của Đức Chúa Trời hay không? Những người vô thần nói rằng chính ‘Tsunami’ cho thấy được rằng không hề có Đức Chúa Trời nào cả. Theo họ, không thể có một “Đức Chúa Trời Yêu Thương” nào lại có thể cho phép một thảm họa bi thảm đến thế xảy ra. Thế nhưng, trong cương vị Cơ Đốc Nhân, từ Lời Kinh Thánh trong Gi. 9:1-3, chúng ta có thể nhận được nhiều sự dạy dỗ hơn. I. MỌI LOẠI THẢM HỌA, ĐAU KHỔ,… ĐỀU LÀ HẬU QUẢ CỦA TỘI LỖI NGUYÊN THỦY Chúng ta không hề có ý muốn nói rằng các nạn nhân của ‘Tsunami Ấn Độ Dương” là những người hoàn toàn vô tội vì “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rô. 3:23), và “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rô. 6:23). Điều chúng ta muốn nói, ấy là rất có thể Đức Chúa Trời cho phép thảm họa này xảy đến để cho công việc của Ngài được bày tỏ ra. Một trong những câu hỏi mà người ta thường nêu ra là “Nếu Đức Chúa Trời đang tể trị và toàn năng, tại sao Ngài lại để cho nhiều người sinh ra phải chịu khuyết tật, hoặc phải chịu thiên tai khủng khiếp?”. Chúng ta tin rằng những gì đã xảy ra trong vườn Êđen giải đáp được cho câu hỏi ấy. Khi Đức Chúa Trời tạo dựng nên trời đất, mọi sự đều hoàn hảo. Đức Chúa Trời đã đặt để cho con người địa vị cao hơn hết trong muôn loài thọ tạo của Ngài. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời cũng đã ban cho con người một sự chọn lựa. Tại sao Đức Chúa Trời lại đặt “Cây Biết Điều Thiện Và Điều Ác” ở giữa vườn? Mọi việc trên thế gian này có vẻ như sẽ được tốt hơn nếu khi ấy Đức Chúa Trời đã không làm như thế! Tuy nhiên, Đức Chúa Trời biết rằng, nếu Ngài thực sự được thờ phượng và kính yêu, con người phải có được cơ hội chọn lựa: Chọn theo Ngài, hoặc khước từ Ngài. Vì thế, Đức Chúa Trời đã thử nghiệm Ađam và Êva bằng “Cây Biết Điều Thiện Và Điều Ác”; và, như chúng ta đã biết, họ đã thất bại trong cuộc thử nghiệm này. Hậu quả của sự thất bại của Ađam và Êva là tội lỗi đã thâm nhập vào thế gian. Tộ lỗi đã không những ảnh hưởng trên toàn thể nhân loại mà còn lan tỏa sang muôn loài thọ tạo khác, cả động vật, thực vật, khoáng vật, lẫn plasma (plasmat) dầu rằng ban đầu mọi sự đều đã được Đức Chúa Trời tạo dựng trong tình trạng hoàn hảo:“Đức Chúa Trời làm nên các loài thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, và các côn trùng trên đất tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành” (Sáng. 1:25). Lời Kinh Thánh cho biết rằng khi Đức Chúa Trời tạo dựng nên muôn vật, muôn vật đều hoàn hảo. Tuy nhiên, khi Ađam và Êva phạm tội, tội lỗi đã thâm nhập vào thế gian và khiến muôn vật trở nên hỗn loạn: Không những chỉ các loài sinh vật mà thôi, tự thân địa cầu này cũng phải vận động theo xu thế thoái hóa, trong đó tất yếu phải có những cuộc địa chấn định hình: “17Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn. 18Đất sẽ sanh chông gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng; 19ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi” (Sáng. 3:17-19). Hậu quả của tội lỗi nguyên thủy là “Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi”(Sáng. 3:17), “Đất sẽ sanh chông gai và cây tật lê”(Sáng. 3:18). Như vậy, nếu tổ phụ của nhân loại không ăn trái cây mà Đức Chúa Trời đã cấm, địa cầu này đã không phải chịu những cơn địa chấn cùng những biến động tàn hại khác. Cuộc địa chấn định hình dẫn đến ‘Tsunami Ấn Độ Dương” ngày 26.12.2004 vừa qua chính là hậu quả của tội lỗi nguyên thủy trong vườn Êđen. “Người Mù Từ Thuở Sanh Ra” được nói đến trong đoạn Kinh Thánh này cũng là hậu quả của tội lỗi nguyên thủy trong vườn Êđen. Và, tội lỗi trong vườn Êđen cũng chính là căn nguyên của mọi loại thiên tai, tật bệnh, khổ đau khác trong thế gian này: “Ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng” (Sáng. 3:18b), “Ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn”(Sáng. 19a). Tội lỗi đem lại khổ đau, một khi tội lỗi đã thâm nhập vào thế gian này rồi, không một ai tránh thoát đau khổ được. Khuyết tật trong con người hay thiên tai trong thiên nhiên không phải do Đức Chúa Trời tạo ra mà là hậu quả tất yếu của tội lỗi nguyên thủy. Tội lỗi đã khiến thế gian này trở nên một cánh đồng đau thương mênh mông vì “Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi”(Sáng. 3:17). Mọi nỗi thống khổ mà nhân loại phải chịu chỉ là sự tất yếu của tất yếu vì “Ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng” (Sáng. 3:18). Nguyên nhân của tai ương, đau khổ là tội lỗi; và tác giả của tội lỗi là Satan. Trách nhiệm về những sự hư hoại và nỗi khốn khổ không thuộc về Đức Chúa Trời. II. ĐỨC CHÚA TRỜI KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CỦA TỘI LỖI NGUYÊN THỦY Có người nêu lên vấn đề này: Nếu Đức Chúa Trời loại bỏ sự đau khổ, liệu thế gian này có tốt đẹp hơn không? Trong tác phẩm “The Case For Faith” của Lee Strobel, khi được phỏng vấn, vị giáo sư triết học của Đại Học Boston, Tiến Sĩ Peter Kreeft, đã phát biểu như thế này: “Chúng ta biết được rằng tính cách đạo đức vốn được hình thành qua gian khổ, qua việc vượt qua trở ngại, qua việc chịu đựng những nỗi truân chuyên do hiềm thù,… Chẳng hạn, sự can đảm sẽ không có trong một thế giới không hề biết đau đớn là gì. Sứ Đồ Phaolô chứng thực cho phẩm chất được tinh luyện này khi dạy chúng ta rằng ‘Hoạn nạn sanh ra sự nhịn nhục, sự nhịn nhục sanh ra sự rèn tập, sự rèn tập sanh ra sự trông cậy’ ”. Nếu không có việc chịu khổ trong thế gian này, chúng ta ắt sẽ không nhận thức được nhu cần phải quay trở lại với Đức Chúa Trời. Nhiều người trong chúng ta dành một sự ngưỡng mộ đặc biệt cho “Mẹ Theresa”, nhưng nếu không có những cảnh khổ ải ở Calcutta, thì cũng không có Theresa. Chính vì những nỗi khổ to lớn của người ở Calcutta mà Theresa đã được cảm thúc để dâng cả cuộc đời mình phục vụ họ. Nếu không có cảnh khổ trong thế giới này, người ta cũng sẽ không thể có được năng lực thấu cảm. Những người cho rằng không hề có Đức Chúa Trời vì có quá nhiều nỗi khổ giáng trên những “nạn nhân vô tội” đã không nhận thức hết vấn đề. Hiển nhiên rằng thảm họa ‘Tsunami’ vừa qua đem đến sự chết chóc, tàn phá ngoài sức tưởng tượng. Thế nhưng, hãy nhìn xem những làn sóng yêu thương vô cùng to lớn của cả thế giới đang trào dâng để cưu mang cho các nạn nhân của ‘Tsunami Ấn Độ Dương”: Phải chăng đó chính là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu thương mà Đức Chúa Trời đã đặt để trong tấm lòng con người là loài vốn được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài? Ngày 20.01.2005, một cơ quan hàng đầu của thế giới đã đưa ra nhận xét rằng “Năm 2004 đã được kết thúc với một thảm họa kinh hoàng nhất trong lịch sử, và năm 2005 đã được bắt đầu bằng những nổ lực cao thượng nhất trong lịch sử nhân loại từ trước cho đến nay”. Chúng ta hãy quay lại suy gẫm về điều Đức Chúa Jêsus phán:“Đó chẳng phải tại người hay tại cha mẹ đã phạm tội; nhưng ấy để cho những việc Đức Chúa Trời được tỏ ra trong người” (Gi. 9:3). 1. Đức Chúa Trời Thấu Hiểu Và Can Thiệp Sự thật là Đức Chúa Trời đã hoàn toàn thấu hiểu nỗi khổ của nhân loại vì Ngài đã chịu khổ cho chúng ta qua Đức Chúa Jêsus. Lời Kinh Thánh cho chúng ta biết điều ấy: “Bởi Ân Điển của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Jêsus đã vì mọi người nếm sự chết”(Hê. 2:9). “Vì quả thật không phải Ngài đến vùa giúp các Thiên Sứ, bèn là vùa giúp dòng dõi của Ápraham” (Hê. 2:17). “Vì chúng ta không có Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm chẳng có thể thương cảm sự yếu đuối của chúng ta, bèn có một Thầy Tế Lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội” (Hê. 4:15). Bởi việc Ngài đến giữa vòng nhân loại, và bởi sự thương khó mà Ngài đã từng trải, Đức Chúa Jêsus chẳng những thấu cảm được sự đau khổ của chúng ta mà Ngài còn cùng chung chịu phận người đầy đau khổ với chúng ta nữa. Đức Chúa Trời của chúng ta siêu việt hơn hẳn thần của các tôn giáo khác: Thần của Hồi Giáo là một thần hà khắc, chỉ biết trút đổ sự phẫn nộ lên thế gian; thần của Phật Giáo không phải là một thân vị và không gánh vác cho nỗi đau khổ của nhân loại trong thế gian, không trực tiếp cứu độ mà chỉ đưa ra một học thuyết để “cứu độ”… Chỉ duy nhất Đức Chúa Trời của chúng ta là Đấng đã sống, đang sống, và sẽ còn chung sống với nhân loại. Chỉ duy nhất Đức Chúa Trời của chúng ta là Đấng đã trở thành con người: “Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Phil. 2:8). 2. Đức Chúa Trời Đáng Được Tôn Vinh Hiển Theo sự bày tỏ của Lời Kinh Thánh, Đức Chúa Trời đáng được tôn vinh hiển qua sự chịu khổ của chúng ta, vì chính qua sự chịu khổ mà Ngài chữa lành và nâng chúng ta lên những tầm cỡ cao hơn: “3Nào những thế thôi, nhưng chúng ta cũng khoe mình trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn sanh ra sự nhịn nhục, 4sự nhịn nhục sanh ra sự rèn tập, sự rèn tập sanh ra sự trông cậy. 5Vả, sự trông cậy không làm cho hổ thẹn, vì sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta” (Rô. 5: 3-5) “Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định”(Rô. 8:28) Chúng ta đã từng kinh nghiệm được rằng từ sự chịu khổ bền lòng mà biết bao điều tốt đẹp đã đến trên đời sống của chúng ta trong bước đường theo Chúa. Chúng ta cũng tin chắc rằng thảm họa đau thương bởi ‘Tsunami Ấn Độ Dương’ cũng sẽ đem đến nhiều điều làm cho vinh hiển Đức Chúa Trời. Trong những năm 1950, lúc Jim Elliot còn đang là sinh viên tại đại học Wheaton, ông nhận được sự kêu gọi đến làm giáo sĩ cho người da đỏ Auca, một bộ tộc còn ở trong tình trạng của thời kỳ đồ đá ở Ecuador. Tháng Giêng năm 1956, Elliot cùng bốn người đồng hành khác đáp xuống bờ sông Curaray, miền Đông Ecuador. Hôm ấy, họ đã có được một vài cuộc tiếp xúc thân thiện với bộ tộc đã từng giết nhiều công nhân của Công Ty Shell này. Tuy nhiên, chỉ hai ngày sau, cả Jim Elliot cùng bốn người bạn đồng hành đã ngã gục dưới ngọn giáo của người da đỏ Auca. Jim Elliot chắc chắn đã hoàn toàn bình an trong sự chết của mình vì ông đã từng nói rằng “Người ta chẳng dại dột chút nào hết khi biết cho đi cái không thể giữ để nhận được cái không thể mất”. Thế nhưng, làm thế nào Đức Chúa Trời có thể được tôn vinh hiển qua cái chết của năm con người này là những người muốn làm một điều gì đó tốt đẹp trong danh của Ngài? Một thời gian sau, Elisabeth Elliot, người vợ góa của Jim Elliot, đã tìm đến với bộ tộc đã giết chồng mình. Elisabeth Elliot đã sống với người Auca, đã bền lòng chia sẻ Tin Lành với họ, và cuối cùng đã chinh phục được bộ tộc này về cho Đức Chúa Jêsus. Trong số những người đầu tiên tiếp nhận Tin Lành có cả người đã từng cầm giáo đâm chết chồng của Elisabeth Elliot. Đến đây, chúng ta thấy hiển nhiên là Đức Chúa Trời đã được tôn vinh hiển qua thảm kịch này! Chúng ta tin rằng, trong một cách tương tự, Đức Chúa Trời sẽ dùng thảm họa ‘Tsunami Ấn Độ Dương’ - vốn là một thảm kịch của tội lỗi, không phải của Ngài - để cứu nhiều người Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan,… về với Chúa Cứu Thế Jêsus! Người mù trong đoạn Kinh Thánh này vì mù mà được đến với Đức Chúa Jêsus như thế nào thì những người vì chịu thảm cảnh, biết đổi lòng, cũng sẽ được Chúa Cứu Thế Jêsus cứu về thể ấy. Người mù này không phải chỉ được chữa lành thuộc thể mà còn nhận được sự chữa lành thuộc linh nữa: “Người thưa rằng: Lạy Chúa, tôi tin; bèn sấp mình xuống trước mặt Ngài” (Gi. 9:38). Trong cương vị Cơ Đốc Nhân, chúng ta phải nhớ rằng chúng ta có sự hy vọng khi đối đầu với nghịch cảnh: “18Vả, tôi tưởng rằng những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ được bày ra trong chúng ta. 19Thật thế, muôn vật ước ao nóng nảy mà trông đợi con cái Đức Chúa Trời được tỏ ra. 20Vì muôn vật đã bị bắt phục sự hư không, chẳng phải tự ý mình, bèn là bởi cớ Đấng bắt phục. 21Muôn vật mong rằng mình cũng sẽ được giải cứu khỏi làm tôi sự hư nát, đặng dự phần trong sự tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời. 22Vì chúng ta biết rằng muôn vật đều than thở và chịu khó nhọc cho đến ngày nay; 23không những muôn vật thôi, lại chúng ta, là kẻ có trái đầu mùa của Đức Thánh Linh, cũng than thở trong lòng, đang khi chúng ta đợi sự làm con nuôi, tức là sự cứu chuộc thân thể chúng ta vậy” (Rô. 8:18-23). Niềm hy vọng này cần phải được chúng ta chia sẻ cho tất cả những ai đang ở trong tai ương, hoạn nạn, đau khổ,… vì đó là ý muốn của Đức Chúa Trời đối với chúng ta. Người mù trong đoạn Kinh Thánh này đã được Đức Chúa Jêsus làm cho sáng mắt; chúng ta hãy cầu xin Đức Chúa Trời sớm cung cấp những sự cần dùng cho những người vì thiên tai mà mất hết nhà cửa, mùa màng,… Người mù trong đoạn Kinh Thánh này đã được Đức Chúa Jêsus chữa lành thuộc linh; chúng ta cũng tin và hãy cầu xin Đức Chúa Trời sẽ cứu các nạn nhân của ‘Tsunami Ấn Độ Dương’ về với Ngài gấp nhiều lần hơn là số người đã bị tử vong! Chúng ta đang sống bình an ở đây, không chịu hậu quả của ‘Tsunami’; nhưng không phải vì thế mà chúng ta không có sự đau thương, tai ương. Điểm lại thời gian qua, chúng ta thấy được rằng mình cũng đã phải trải qua không ít điều bất như ý. Thế nhưng, khi đếm những ơn phước của Chúa đã ban trên đời sống của mình, chúng ta có một sự tổng kết giống như người mù đã kinh nghiệm được ơn chữa lành của Chúa: “Tôi đã mù mà bây giờ lại sáng” (Gi. 9:25). Chúng ta đã phải trải qua tai ưong, hoạn nạn, mất mác, thiếu thốn, ngộ nhận, buồn giận,… nhưng rồi tất cả đều đã qua, mọi sự đều đã được tốt đẹp hơn trong ơn Chúa. Không có hố sâu nào sâu hơn tình yêu của Đức Chúa Trời đối với chúng ta. Ngài can thiệp để khắc phục hậu quả của tội lỗi bằng việc cứu chuộc chúng ta, ở cùng chúng ta, thấu cảm và vùa giúp chúng ta để chúng ta tôn vinh hiển Ngài! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“ĐỂ NGỢI KHEN CHÚA” (Mác 11:1-10) “Anh em ngày trước không phải là một dân, mà bây giờ là dân Đức Chúa Trời, trước không được thương xót, mà bây giờ được thương xót.” (1Phi. 2:10) Có truyền thuyết kể về một ngôi làng nhỏ ở Tây Ban Nha. Dân làng được biết nhà vua sẽ đến thăm. Đã từ hàng ngàn năm nay, chưa bao giờ có chuyện đức vua ngự giá đến thăm làng này. Do đó, khi nhận được tin, ai nấy đều rất hân hoan. Được hứng khởi, họ bàn với nhau: “Chúng ta phải tổ chức một cuộc đón rước thật trọng thể!”, và họ đều đồng ý với nhau như thế. Tuy nhiên, đây là một làng rất nghèo; khi suy tính lại, họ thấy không thể nào trang trải nổi cho một cuộc đón rước theo ý họ muốn. Vì vậy, họ phải thống nhất với nhau về một lối đón tiếp cổ điển: Vì dân làng ai cũng đều làm rượu để dùng trong gia đình mình, người ta đề xuất việc dựng lên một thùng đựng rượu thật lớn tại bãi sinh hoạt của làng để mỗi người sẽ mang một cốc rượu lớn và ngon nhất của gia đình đến nhập vào thùng ấy làm của lễ đón tiếp đức vua. Họ nói với nhau: “Chúng ta sẽ đổ chung rượu ngon nhất của mỗi người vào thùng để đón tiếp cho đức vua vui lòng, vì khi Ngài dùng một cốc rượu từ thùng này, thì đó sẽ là cốc rượu của cả làng và là là cốc rượu ngon nhất làng… Chắc chắn đức vua sẽ thích thú, vì ắt là Ngài chưa bao giờ được nếm một loại rượu có hương vị được hòa hợp độc đáo đến như thế”. Trước hôm đức vua ngự đến, hàng trăm người đứng xếp hàng chờ đến lượt nhập rượu góp của mình vào thùng để nghênh đón vị khách tôn quí của họ. Họ hân hoan trèo lên theo một cầu thang, đổ rượu góp của mình vào thùng qua một miệng nhỏ ở nắp thùng, rồi lần lượt đi theo một cầu thang khác để xuống trở lại. Cuối cùng, thùng rượu lớn đã được đổ đầy. Khi đức vua ngự đến, ngài được hộ tống đến bãi sinh hoạt của làng. Người ta dâng cho đức vua một chiếc cốc bằng bạc và xin Ngài hãy tự tay hứng vào vòi thùng để lấy rượu và thưởng thức. Ngạc nhiên thay, khi đức vua nếm rượu, ngài nhận ra đó chỉ là nước lã! Nguyên do là vì mỗi người dân trong làng đều nhủ thầm: “Rượu nhà mình không có nhiều, cần phải để dành mới có mà dùng. Hãy cứ lấy nước lã thay cho rượu đem đến góp vào... Chắc chắn sẽ chẳng ai biết được đâu! Cả một thùng rượu to thế kia thì một cốc nước nhỏ như thế này làm sao ai biết được…”. Vì ai nấy cũng đều nghĩ như nhau, họ đã âm thầm làm cùng một cách như nhau, và kết quả là thay vì được tôn trọng, nhà vua đã bị dân làng thất kính… Bối cảnh được mô tả trong đoạn văn Kinh Thánh này tương phản hẳn với câu chuyện kể trên. Đây chính là thời điểm Đức Chúa Jêsus, Vua của muôn vua, được Dân Ngài tôn cao một cách đặc biệt: Ai nấy đều dâng lên cho Ngài điều tốt nhất mà họ có, đó là sự ngợi khen! Thời điểm được nói đến trong phân đoạn Kinh Thánh này là thời điểm khởi đầu của giai đoạn cuối của chức vụ trên trần gian trong nhân thể giáng sinh của Đức Chúa Jêsus. Chính vào buổi sáng Thứ Sáu của tuần lễ này Đức Chúa Jêsus đã chịu đóng đinh vào thập tự giá; Ngài đã được chôn vào thạch mộ chiều Thứ Sáu ấy và trải qua suốt ngày và đêm Thứ Bảy; cuối cùng, Ngài đã phục sinh vào sáng Chúa Nhật tiếp theo. Hội Thánh Cơ Đốc của Đức Chúa Trời thường gọi tuần lễ kỷ niệm kể từ ngày Chúa Nhật mà Đức Chúa Jêsus vào thành Giêrusalem được mô tả ở đây cho đến ngày Chúa Nhật khi Ngài phục sinh là “Tuần Lễ Thương Khó_Phục Sinh”. Xin đừng quên: Lúc ấy, Dân Ngài đã kỷ niệm “Tuần Lễ Thương Khó_Phục Sinh” bằng sự ngợi khen cá nhân rất ấn tượng: “7Hai người dắt lừa con về cho Đức Chúa Jêsus, lấy áo mình trải trên nó; rồi Ngài cỡi lên. 8Nhiều người trải áo mình trên đường; lại có kẻ rải nhánh cây chặt trong đồng ruộng. 9Người đi trước kẻ theo sau đều la lên rằng: Hôsana! Đáng khen ngợi cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!10Phước cho nước đến, là nước vua Đavít tổ phụ chúng ta! Hôsana ở trên nơi rất cao!” I. PHẢI CÓ Ý THỨC NGỢI KHEN Đây chính là thời điểm kỷ niệm Lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua là cuộc lễ lớn nhất của người Do Thái Giáo: Dân Ysơraên ở khắp mọi nơi đều hành hương về Giêrusalem trong dịp lễ trọng thể này để kỷ niệm công việc quyền năng của Đức Chúa Trời đã giải cứu người Do Thái thoát khỏi ách nộ lệ của Ai Cập dưới thời Môise. Đức Chúa Jêsus đã từng “Đi thành nầy đến thành kia, làng nầy đến làng khác, giảng dạy và rao truyền Tin Lành của nước Đức Chúa Trời…” (Lu. 8:1). Cho đến thời điểm này, qua chức vụ của Ngài “Kẻ đui được sáng, kẻ què được đi, kẻ phung được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết được sống lại, Tin Lành đã rao giảng cho kẻ nghèo” (Lu. 7:22). Chuyến trở về lại Giêrusalem lần này là chuyến hành trình cuối cùng của Đức Chúa Jêsus. Ngài đã biết, và cũng đã nói với các môn đồ, những gì sắp sửa xảy ra với Ngài tại đây. Đức Chúa Jêsus đã cho các môn đồ biết Ngài sẽ phải chịu đối đãi ra sao, phải chịu chết như thế nào… Chỉ mới mấy ngày trước đó Ngài đã phán: “Con Người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất” (Lu. 19:10). Sứ mệnh của Đức Chúa Jêsus là cứu chuộc. Đức Chúa Jêsus phải chịu khổ, chịu chết và sống lại là để cứu chuộc. Thực ra, nguyên nghĩa của “Hôsana” chính là “Đức Giêhôva ôi, xin hãy cứu!” (Thi. 118:25). Phải chăng khi nghe “Người đi trước kẻ theo sau đều la lên rằng: Hôsana! Đáng khen ngợi cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!” Đức Chúa Jêsus đã thầm nghĩ: “Phải, chính đó là sứ mệnh của Ta. Các ngươi nói đúng, nhưng các ngươi biết còn ít lắm!”. Hình thức nguyên thủy của “Hôsana” là “Yasha” trong Tiếng Hêbơrơ:“Đức Giêhôva ôi! Xin hãy cứu!_Đức Giêhôva ơi, xin ban cho chúng tôi được thới thạnh” (Thi. 118:25). Hình thức chuyển tự từ “Yasha” trong Tiếng Hêbơrơ sang thành “Hôsana” trong Tiếng Hy Lạp được sử dụng trong các Sách Tin Lành 6 lần khi nói về việc Đức Chúa Jêsus tiến vào thành Giêrusalem như là Đấng Mêsia mà Xachari đã miêu tả (Xa. 9:9), và khi Ngài dẹp sạch Đền Thờ: Ma 21:9 (2lần), 15; Mác 11:9, 10; Gi 12:13. Hình thức dịch nghĩa “Hôsana” cũng thay đổi tùy nơi: Hôsana con vua Đavít! Đáng ngợi khen cho Đấng nhân danh Chúa mà đến! Hôsana ở trên nơi rất cao!” (Ma. 21:9) “9Người đi trước kẻ theo sau đều la lên rằng: Hôsana! Đáng khen ngợi cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!10Phước cho nước đến, là nước vua Đavít tổ phụ chúng ta! Hôsana ở trên nơi rất cao!” (Mác 11:9, 10). “Hôsana! Chúc phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến, là vua của Ysơraên!” (Gi. 12:13). Như vậy, đối với các trước giả của các Sách Tin Lành, “Hôsana” là một sự hoan hô, một lời tán tụng nhằm thể hiện sự ngợi khen. Và như vậy, “Hôsana” đã biến nghĩa từ ý nghĩa kêu cầu sang ý nghĩa thốt lên sự vui mừng, chào đón. Tại sao có sự biến nghĩa này? Vì Đức Chúa Jêsus chính là Đấng Mêsia, Đấng Cứu Chuộc, Ngài đã đến, sự cứu rỗi từ nơi Ngài đã đến. Trở lại với văn cảnh của phân đoạn Kinh Thánh đang được học, dầu đám đông không ý thức rõ được sứ mệnh sắp sửa được hoàn thành của Đức Chúa Jêsus nhưng họ vẫn hòa được hồn mình vào sự ngợi khen Ngài! Tuy nhiên, Đức Chúa Jêsus muốn mọi người biết chính Ngài là Đấng Giải Cứu để họ được giải cứu: “37Hỡi Giêrusalem, Giêrusalem, ngươi giết các Đấng tiên tri và ném đá những kẻ chịu sai đến cùng ngươi, bao nhiêu lần Ta muốn nhóm họp các con ngươi như gà mái túc con mình lại ấp trong cánh, mà các ngươi chẳng khứng! 38Nầy, nhà các ngươi sẽ bỏ hoang!39Vì Ta bảo, các ngươi sẽ không thấy Ta nữa, cho đến lúc các ngươi sẽ nói rằng: Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!” (Ma. 23:37-39). Dưới ánh sáng của Kinh Thánh, lời chúc tôn “Hôsana” phải là một lời chúc tôn có ý thức. “Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến” phải là lời Hôsana với đầy đủ ý thức tôn vinh Đấng đến để cứu vì biết mình cần được cứu. Mọi lưỡi sẽ tung hô lời Hôsana ấy trong Ngày Của Chúa: “9Sự ấy đoạn, tôi nhìn xem, thấy vô số người, không ai đếm được, bởi mọi nước, mọi chi phái, mọi dân tộc, mọi tiếng mà ra; chúng đứng trước Ngôi và trước Chiên Con, mặc áo dài trắng, tay cầm nhành chà là, 10cất tiếng lớn kêu rằng: Sự cứu rỗi thuộc về Đức Chúa Trời ta, là Đấng ngự trên ngôi, và thuộc về Chiên Con” (Khải. 7:9-10). “Sự đó đoạn, tôi nghe ở trên trời như có tiếng lớn của lũ đông lắm rằng: Alêlugia! Sự cứu chuộc, vinh hiển, quyền phép đều thuộc về Đức Chúa Trời chúng ta” (Khải. 19:1). Một sự chúc tôn vô thức rất có thể sẽ là không chúc tôn gì cả. Trong câu chuyện kể về việc dân làng đón nhà vua, họ chỉ có sự cảm thức về việc đón mừng chứ không có một sự ý thức nghiêm túc về nghĩa vụ ấy. Nếu không, người ta tất đã đem rượu ngon nhất mà mình có đến để góp vào chứ không phải chỉ là góp nước lã một cách giả dối như thế. Chính “đám đông” tung hô “Hôsana” để đón mừng Đức Chúa Jêsus vào thành Giêrusalem; nhưng rồi chỉ mấy ngày sau, cũng chính “đám đông”lại điên cuồng gào thét đòi phải đóng đinh Ngài trên thập tự giá; nhiều khi, đám đông chỉ là một thực thể hay dao động, khó tin cậy (Sv. Ma. 27:21-24). Sự chúc tôn vô thức không giúp loại bỏ được sự lăng mạ vô thức. Những người theo Do Thái Giáo đã đóng đinh Đức Chúa Jêsus trên thập tự giá hơn 2000 năm trước đây, nhưng dầu sao họ cũng chỉ là những người chưa được cứu. Chúng ta cần phải thận trọng trong bước đường theo Chúa để tránh không vừa tung hô “Hôsana” đón Ngài lại vừa làm nhục Ngài: “18Tôi đã thường nói điều nầy cho anh em, nay tôi lại khóc mà nói nữa: Lắm người có cách ăn ở như là kẻ thù nghịch thập tự giá của Đấng Christ. 19Sự cuối cùng của họ là hư mất; họ lấy bụng mình làm Chúa mình, và lấy sự xấu hổ của mình làm vinh hiển, chỉ tư tưởng về các việc thế gian mà thôi” (Phil. 3:18-19). “Hãy tỉnh biết, theo cách công bình, và chớ phạm tội; vì có người không biết Đức Chúa Trời chút nào, tôi nói vậy để anh em hổ thẹn” (1Cô. 15:34). “7Hãy làm cho mình sạch men cũ đi, hầu cho anh em trở nên bột nhồi mới không men, như anh em là bánh không men vậy. Vì Đấng Christ là con sinh Lễ Vượt Qua của chúng ta, đã bị giết rồi. 8Vậy thì, chúng ta hãy giữ lễ, chớ dùng men cũ, chớ dùng men gian ác độc dữ, nhưng dùng bánh không men của sự thật thà và của lẽ thật” (1Cô. 5:7-8). II. PHẢI CÓ ĐỜI SỐNG NGỢI KHEN Đức Chúa Trời đáng được ngợi khen, bản chất và thuộc tính của Ngài khiến sự ngợi khen luôn đi cặp theo, sự ngợi khen luôn luôn sẵn dành cho Đức Chúa Trời, nhất là giữa vòng Dân Ngài: “Còn Chúa là thánh, Ngài là Đấng ngự giữa sự ngợi khen của Ysơraên” (Thi. 22:3). Nếu vì thiếu ý thức mà không có sự ngợi khen bằng môi miệng của con người thì các tạo vật khác của Đức Chúa Trời vẫn cứ không ngừng ngợi khen Ngài: Núi non hùng vĩ, đại dương bao la, vũ trụ vô tận,… Mặt trời, mặt trăng, các vì sao lấp lánh, muôn thú, cỏ cây, hoa lá,… vẫn ngày đêm thầm thì về bản chất và thuộc tính vô song của Đức Chúa Trời. Tạo vật của Đức Chúa Trời vẫn hằng ngợi khen về một Đấng Sáng Tạo Ba Ngôi: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh. Không gì có thể ngăn được sự ngợi khen đối với Đức Chúa Trời; điều này được tìm thấy qua lời phán của Đức Chúa Jêsus dành cho người Pharisi: “Ta phán cùng các ngươi, nếu họ nín lặng thì đá sẽ kêu lên” (Lu. 19:40). Theo Chúa, chúng ta phải biết vâng lời Chúa, sống một đời sống đức tin thực hành “Vì nước Đức Chúa Trời chẳng ở tại lời nói, mà ở tại năng lực” (1Cô. 4:20): “21Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng Ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào nước Thiên Đàng đâu; nhưng chỉ kẻ nào làm theo ý muốn của Cha Ta ở trên trời mà thôi. 22Ngày đó, sẽ có nhiều người thưa cùng Ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri sao? Nhân danh Chúa mà trừ quỉ sao? Và lại nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao? 23Khi ấy, Ta sẽ phán rõ cùng họ rằng: Hỡi kẻ làm gian ác, Ta chẳng biết các ngươi bao giờ, hãy lui ra khỏi Ta!” (Ma. 7:21-23). Đoạn văn Kinh Thánh mà chúng ta đang học cho biết rằng đám đông dân chúng không phải chỉ biết tung hô suông mà họ biết trải bày những điều tốt họ có để nghênh đón Đức Chúa Jêsus: “Nhiều người trải áo mình trên đường; lại có kẻ rải nhánh cây chặt trong đồng ruộng” (C. 8). Đó là việc đã diễn ra hơn hai mươi thế kỷ trước, còn chúng ta ngày nay thì sao? Trước hết, cần nên nhận xét rằng dầu dưới hình thức nào thì sự ngợi khen Chúa cũng đều có tính chất là một món quà mà những người biết ơn Ngài muốn dâng lên: “9Nhưng anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân hánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài. 10Anh em ngày trước không phải là một dân, mà bây giờ là dân Đức Chúa Trời, trước không được thương xót, mà bây giờ được thương xót” (1Phi. 2:9). Động từ “rao giảng” bằng Tiếng Hy lạp được dùng trong câu Kinh Thánh này (Gk. exaggello) nói về hành động phô bày ra để cho mọi người đều được biết. Sự phô bày ấy có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau: Hành vi, cử chỉ, lời nói, chữ viết, các ký hiệu giúp cho việc hát hay múa, các hình tượng biểu đạt văn học, nghệ thuật như kịch nghệ, phim ảnh,… Nói chung là bất cứ hình thái truyền thông nào cũng đều có thể được Dân Chúa sử dụng cả, và đó là phận sự của Dân Ngài. Thế nhưng, điều gì cần phải được “rao giảng”? Đó chính là sự “nhân đức” của Đức Chúa Trời, Đấng đã thương xót mà cứu chuộc để chúng ta được trở nên Dân Ngài. Thật ra, cách hiệu quả nhất cho việc “rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi” chúng ta “ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài” chính là việc sống một đời sống thể hiện được những điều ấy: “13Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài. 14Phàm làm việc gì chớ nên lằm bằm và lưỡng lự, 15hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian” (Phil. 3:13-15). Bằng việc trải áo của mình, cũng như “rải nhánh cây chặt được trong đồng ruộng”, người ta muốn tỏ bày thái độ trọng thị như ngày nay người ta trải thảm đỏ để nghênh đón các nguyên thủ quốc gia. Để thực sự tung hô “Hôsana” đón mừng, tán tụng Cứu Chúa yêu dấu, chúng ta đừng làm như dân làng trong câu chuyện kể trên. Đừng bước lên đỉnh cao của cầu thang, đưa tay cầm cốc lên thật tỏ tường, nhưng rồi lại trút nước lã vào thùng! Chúng ta hoàn toàn được phép dùng bông trái của môi miệng để ngợi khen Chúa, nhưng tấm lòng phải chân thật để chúng ta cũng còn có thể tìm được những điều gì đó từ trong đời sống của chúng ta, đem trải ra, dâng lên mà tôn vinh Ngài. Hãy nhắm mắt lại, tưởng tượng Chúa chúng ta lúc này đang cỡi lừa đi trên đường ngoài kia và đang được mọi người tán tụng, tung hô. Biết được như thế, chúng ta ai nấy đều mừng rỡ cùng nhau chạy ra đón Ngài. Ngoài đó, ai nấy đều có ít nhất một điều tốt trải bày ra cho Chúa thấy nhằm làm cho Ngài đẹp ý. Khi đi ngang qua, Chúa nhìn và hỏi mỗi người chúng ta: “Con đã có gì để trải bày ra, đón mừng Ta chưa?” Mỗi người chúng ta sẽ thưa lại với Chúa như thế nào? Trong mùa “Thương Khó_Phục Sinh” này, chúng ta đừng quên: Vốn đã được cứu chuộc, đời sống chúng ta phải là đời sống biết ơn, ngợi khen Ngài; và Ngợi khen Chúa là dâng cho Chúa một lễ vật từ trong chính đời sống của mình. Vâng, xin được có lời kết như thế này: Lễ vật dâng lên Chúa có thể là lời ngợi khen bằng môi miệng nhưng nhất thiết phải có một đời sống ngợi khen vì “Anh em ngày trước không phải là một dân, mà bây giờ là dân Đức Chúa Trời, trước không được thương xót, mà bây giờ được thương xót”. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“ĐỂ NGHE ĐƯỢC TIẾNG PHÁN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI” (Giô. 1:1-9) “Quyển sách Luật Pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước.” (Giô. 1:6) Chúng ta nghe được tiếng gọi từ phía nào thì sẽ đi về phía ấy. Nếu chúng ta chỉ nghe tiếng nói của xúc cảm mình, chúng ta vẫn cứ còn lang thang trong hoang mạc thuộc linh và là Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng. Trong một tình trạng như thế, chúng ta dễ nghe theo tiếng thì thầm của kẻ thù thuộc linh, và chúng ta sẽ bị lung lạc. Một khi bị cuốn hút vào sự lung lạc, nhất định chúng ta sẽ bị bối rối, mất phương hướng, và nhất định sẽ lạc đường. Chỉ khi nào chúng ta biết thường xuyên nghe theo tiếng phán của Đức Chúa Trời, chúng ta mới có đủ dũng khí để làm theo ý muốn của Ngài, thắng vượt được mọi sự bất cập, tiến lên trong chiến thắng và sự chinh phục. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng chúng ta đang ở trong một trận chiến thuộc linh mà chỉ có thể chiến đấu bằng những vũ khí thuộc linh. Để có thể nắm vững chiến lược, chiến thuật, phương án tác chiến, chúng ta cần phải thường xuyên và liên tục giữ liên lạc với vị Tổng Tư Lệnh của chúng ta là Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy cùng nhau xem xét những gì Đức Chúa Trời phán với Giôsuê để tìm ra bài học cho mình. I. “HÃY ĐỨNG DẬY ĐI” (C. 1-2) Từ đầu Sách Giôsuê, đã có lời phán rằng “Môise, tôi tớ ta, đã chết; bây giờ ngươi và cả dân sự nầy hãy đứng dậy đi…” (C. 2). Cho đến khi Môise qua đời, Dân Sự vẫn còn mơ hồ về mục tiêu chung của mình là tiến vào Đất Hứa. Tâm trạng phổ biến của Dân Sự là vẫn chưa thấy rõ vì sao họ phải tiếp tục gian nan trong con đường mà Môise đã dẫn họ đi. Đức Chúa Trời không hề có ý định cứ để họ lang thang trong hoang mạc. Thật ra, Đức Chúa Trời đã dành sẵn cho họ nhiều điều tốt hơn. Đức Chúa Trời đã dành cho họ nhiều điều đáng ước ao hơn là một đời sống đầy truân chuyên, rất đáng chán trong hoang mạc. Tại mọi thời điểm, Dân Chúa đều luôn phải thực hiện một sự chọn lựa: Họ phải quyết định hoặc cứ sống với những gì hiện có hoặc đi theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời và sẽ hoàn thành những việc lớn lao theo ý muốn của Ngài. Chúng ta ngày nay cũng vậy. Lệnh truyền rằng “ Hãy đứng dậy đi…” vẫn còn có giá trị đối với chúng ta. Chúng ta phải biết “đứng dậy” khỏi các cảm xúc đang thắng thế của mình. Ngày nay chúng ta cũng phải đứng trước một sự chọn lựa tương tự như sự chọn lựa của Dân Sự ngày xưa. Câu hỏi mà chúng ta phải tự vấn phải là “Liệu chúng ta mới chỉ biết thỏa lòng với những kinh nghiệm mà người khác đã từng có được với Đức Chúa Trời hay chúng ta đang khát khao tự khám phá được những điều gì đó có kết quả trong cõi đời đời? Liệu chúng ta có đang thực sự tiến lên để dành những chiến thắng thuộc linh trong miền Đất Hứa mà Đức Chúa Trời đã dự ứng hay không?” Nếu chúng ta chỉ biết thỏa lòng với hiện trạng thuộc linh của mình, chúng ta phải thấy được hậu quả đáng buồn của việc ấy. Nếu chúng ta chỉ biết giữ nguyên trạng thuộc linh của mình, chẳng trước thì sau chúng ta cũng sẽ rơi vào trạng thái chán nản của Dân Sự ngày xưa khi lang thang trong đồng vắng. Khó có thể hiểu hết được vì sao người ta cứ mãi dậm chân tại chỗ trên phương diện thuộc linh; nhưng chúng ta biết chắc có sự chọn lựa cá nhân trong việc ấy. Nếu chúng ta muốn biết chúng ta đang ở đâu trên phương diện thuộc linh, hãy chú ý những hiện tượng sau đây của việc còn sống trong hoang mạc thuộc linh: (1) Bất An Trong hoang mạc, Dân Sự không hề có nơi ở ổn định. Dân Sự không thể nào biết ngày mai mình sẽ đến đâu, ở đâu. Các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng sẽ cứ bất an trong thân thể, tâm trí, và tâm linh. Về nguyên tắc, không hề có Cơ Đốc Nhân bình an trong hoang mạc thuộc linh. (2) Bất Mãn Các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng thường kêu ca, than phiền Đức Chúa Trời và người chăn bầy của Ngài. Đối với những người này, dầu Đức Chúa Trời cung ứng bao nhiêu cũng không đủ. Các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng luôn phải bận tâm về những lo toan riêng của họ và tỏ ra không đủ sức cho trận chiến thuộc linh. Về nguyên tắc, không hề có Cơ Đốc Nhân thật trong hoang mạc thuộc linh. (3) Không Bông Trái Ngày xưa, Dân Sự đã từng chiến đấu và chiến thắng một số trận chiến nhưng họ đã không dành được lợi thế và lãnh thổ đối với kẻ thù. Những chiến trận của các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng hầu như mang đặc trưng của sự manh động hơn là sự chiến đấu, chiến thắng, và chinh phục. Về nguyên tắc, không hề có Cơ Đốc Nhân đầy dẫy bông trái trong hoang mạc thuộc linh. (4) Tiêu Cực Đối với các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng, tính tiến công rất thấp. Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng được tiêu biểu bằng những gì họ không làm: Không hút, không uống, không dự vào,… Đời sống của họ mang tính chất chung chung, có rất ít tính đặc sắc. Đời sống của các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng chỉ đáng kể ở những gì họ kiêng giữ chứ không phải ở những gì họ tự thân khám phá được. Về nguyên tắc, không hề có Cơ Đốc Nhân tích cực trong hoang mạc thuộc linh. (5) Dao Động Đem Dân Sự ra khỏi Ai Cập thì dễ nhưng làm cho Ai Cập ra khỏi Dân Sự là một sự thách thức lớn lao. Việc đem những đời sống thiếu phương hướng ra khỏi hoang mạc thuộc linh khá giống với việc ngồi tàu chạy vòng vòng trong công viên. Nếu công việc hanh thông, người ta dễ dàng cảm thấy tự tin, vững vàng. Thế nhưng khi tình hình trở nên xấu, người ta bắt đầu nhớ lại “Xứ Êdíptô, khi còn ngồi kề nồi thịt và ăn bánh chán chê” (Xuất. 16:3). Trên một phương diện, các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng khá giống với một nhiệt kế cứ khi trồi, khi sụt theo nhiệt độ bên ngoài. Về nguyên tắc, không hề có Cơ Đốc Nhân ổn định trong hoang mạc thuộc linh. Một con tàu nếu cứ bỏ neo đứng yên trong bến cảng thì sẽ được an toàn, nhưng một con tàu không đạp sóng, lướt gió, vượt đại dương thì không còn là một con tàu nữa; và rồi nó sẽ rỉ sét, mục nát một cách vô dụng. Đời sống của các Cơ Đốc Nhân cũng vậy. Đức Chúa Trời có chương trình phong phú cho mỗi Cơ Đốc Nhân tự khám phá. Đức Chúa Trời muốn mỗi người chúng ta “Hãy đứng dậy đi” để tiến vào một xứ “Đẹp đẽ và rộng rãi, đượm sữa và mật” (Xuất. 3:8) chứ không thỏa lòng với trạng thái tiềm sinh thuộc linh trong hoang mạc. Đức Chúa Trời muốn chúng ta hãy bước ra khỏi sự cầm buộc của cảm xúc để tiến lên phía trước theo đức tin. Ngài muốn đời sống thuộc linh chúng ta có nhiều đức tin và có ít cảm xúc hơn! Ngay cả khi đã có ý thức và quyết định “Hãy đứng dậy đi”, người ta vẫn còn khả năng mắc lỗi “đi giật lùi”. Có quá nhiều vấn vương khiến họ cứ ngoái mặt lại nhìn vào quá khứ nên họ không làm được điều Phaolô đã kinh nghiệm: “Tôi cứ làm một điều: Quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Phil. 3:14). Việc đáp lại mệnh lệnh “Hãy đứng dậy đi” đòi hỏi chúng ta phải có một sự chọn lựa: Chúng ta phải chọn tiến lên phía trước theo tiếng phán của Đức Chúa Trời, và sẽ nhận được quyền năng dẫn dắt không rời của Đức Chúa Trời theo như lời Ngài phán hứa trong Kinh Thánh: “Vậy, hễ những người trọn vẹn trong chúng ta, phải có ý tưởng đó; và nếu anh em tưởng đàng khác, Đức Chúa Trời cũng sẽ lấy sự đó soi sáng cho anh em” (Phil. 3:15). II. “HÃY VỮNG LÒNG BỀN CHÍ” (C. 3-7) Sau khi Môise qua đời, Đức Chúa Trời cần một người đưa Dân Sự tiến lên phía trước, và người ấy chính là Giôsuê. Giôsuê là một mẫu người không chịu thỏa lòng với việc chỉ ngồi yên trong sự an nhàn. Giôsuê muốn làm một điều gì đó giàu ý nghĩa hơn cho Đức Chúa Trời. Chỗ dựa cho cả Giôsuê lẫn Dân Sự là lời hứa của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời hứa gì cho Dân Sự ngày xưa và cho các Cơ Đốc Nhân ngày nay? Phải chăng Ngài chỉ hứa sự giàu có? Hay chỉ là sự khỏe mạnh? Hay chỉ là quyền năng? Hay là tất cả những điều vừa kể? Để tìm được lời giải đáp, chúng ta phải xem lại Canaan có ý nghĩa như thế nào đối với Dân Sự Đức Chúa Trời: Canaan là sản nghiệp của Dân Chúa, đó là lời Đức Chúa Trời đã hứa với Ápraham và hậu tự Ápraham trong Sách Sáng Thế Ký: “Ta là Đức Giêhôva, Đấng đã dẫn ngươi ra khỏi xứ Urơ, thuộc về xứ Canhđê, để ban cho ngươi xứ nầy làm sản nghiệp” (Sáng. 15:7). Có người giải nghĩa rằng lời hứa này chỉ dành riêng cho Ysơraên, và đã được hoàn nghiệm khi Giôsuê lãnh đạo Ysơraên tiến vào, chinh phục được Canaan. Có người lại cho rằng Canaan là một thực thể trên Thiên Đàng: Sau khi đã trải qua đời này rồi, Dân Chúa mới nhận được xứ ấy. Xứ Canaan là một thực thể địa cầu mà Ysơraên đã chinh phục và sẽ được khôi phục lại cho Ysơraên khi Đức Chúa Jêsus tái lâm. Sẽ có Giêrusalem mới, vì vậy cũng sẽ có Canaan hiểu theo nghĩa một thực thể Thiên Đàng trong cõi đời đời. Mặt khác, dưới Định Kỳ Ân Điển, Cananan cũng còn là hình bóng của đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh, là đời sống mà Đức Chúa Trời muốn tất cả các Cơ Đốc Nhân phải có. Đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh không phải chỉ dành riêng cho một số người nào mà là cho tất cả các Cơ Đốc Nhân, tức là các thánh đồ của Đức Chúa Trời: “Môise, tôi tớ Ta, đã chết; bây giờ ngươi và cả Dân Sự nầy hãy đứng dậy đi qua sông Giôđanh, đặng vào xứ mà Ta ban cho dân Ysơraên” (C. 3). Động từ sử dụng cho phần cuối của câu Kinh Thánh này ở thì quá khứ: Đã ban. “Xứ” đã được ban cho Ysơraên, giống như đời sống mới trong Đức Chúa Jêsus đã được dành sẵn cho những người tin theo Ngài mà không phụ thuộc vào sức riêng của mỗi người. “Phàm nơi nào bàn chân các ngươi đạp đến, thì Ta ban cho các ngươi, y như Ta đã phán cùng Môise…” (C. 4-6) Hàm ý của những lời phán hứa này là Cơ Đốc Nhân có thể có tất cả những gì họ biết nhận lấy trong và qua Đức Chúa Jêsus. Chúng ta có thể có được mọi chiều kích của sự sống đời đời trong Cứu Chúa của chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ nhận được nhiều hơn những gì vốn sẵn có trong Đức Chúa Jêsus rồi. Như vậy, chúng ta có thể có tất cả những điều đáng mong ước nếu chúng ta biết nhận lãnh; và như vậy, nếu chúng ta còn ở trong một tình trạng chưa xứng hiệp, điều ấy có nghĩa rằng chúng ta không thực sự khát khao có đầy trọn những gì vốn đã được Đức Chúa Trời dành sẵn cho chúng ta. Ngày nay, trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời, không có lý do chính đáng cho các tín hữu phải phân vân, lo lắng nếu họ biết bước đi theo tiếng phán của Đức Chúa Trời bởi sự dắt dẫn của chính Ngài qua các nhà lãnh đạo thuộc linh trong Hội Thánh. Mệnh lệnh “Hãy vững lòng bền chí” dành cho tất cả chúng ta, cả những thuộc viên lẫn các lãnh đạo Hội Thánh. Một em bé đến tham quan tượng đài Tổng Thống Washington, thấy có người lính gác đứng cạnh, em tiến đến nói với người ấy: - Thưa ông, em muốn mua tượng đài này! - “Em có được bao nhiêu tiền”, người lính gác hỏi em bé. - “Ba mươi lăm xu”, em bé trả lời. Nghe nói thế, người lính gác này giải thích: - Em cần phải hiểu ba điều sau đây: (1) Thứ nhất, ba mươi lăm xu không đủ để mua tượng đài này; thật ra, đến ba mươi lăm triệu đôla cũng không đủ để mua. (2) Thứ hai, tượng đài của Tổng Thống Washington cũng không phải dành để bán. Và, (3) thứ ba, nếu em thực sự là một công dân Hoa Kỳ, tượng đài này vốn đã là của em rồi, không cần phải mua! Trong cương vị Cơ Đốc Nhân, đôi khi chúng ta cũng không nhận thức được một cách đúng đắn mối quan hệ giữa chúng ta với Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Chúng ta chưa biết tin và nhận lấy bằng sự vâng lời Đức Chúa Trời mà vẫn cứ còn xin những điều vốn đã sẵn dành cho chúng ta. Hãy chú ý lời của Sứ Đồ Phaolô trong Kinh Thánh: “Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời” (Êph. 1:3). Bí quyết để bước đi trong phước hạnh của Đức Thánh Linh chỉ đơn giản là vâng theo lời phán thành văn của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh. Những tấm lòng vâng lời một cách vững lòng bền chí có tác dụng đem lại sự ban cho quyền năng Đức Thánh Linh, và đó chính là đời sống trong miền Đất Hứa dưới Định Kỳ Ân Điển hiện nay. III. “ĐỨC CHÚA TRỜI NGƯƠI VẪN Ở CÙNG NGƯƠI” (C. 8-9) Bí quyết để được ở trong miền Đất Hứa thuộc linh của Đức Chúa Trời là vừa đứng vững trên lời hứa, vừa ở trong sự hiện diện của Ngài. Trong phân đoạn Kinh Thánh này, có đến ba lần Đức Chúa Trời phán truyền Giôsuê “Hãy vững lòng bền chí” (C. 6, 7, 9). Tại sao? Đức Chúa Trời phán “Hãy vững lòng” có nghĩa là Ngài thấy Giôsuê và Dân Sự cảm biết mình yếu đuối, sợ hãi. Đức Chúa Trời phán “Hãy bền chí” có nghĩa là Ngài thấy ở Giôsuê và Dân Sự chưa có được một sự nhìn nhận nghiêm túc và chưa có được một quyết tâm kiên định để hoàn thành sự kêu gọi Thiên Thượng. “Hãy vững lòng bền chí” vẫn còn là một sự khích lệ dành cho tất cả chúng ta ngày nay. Thử hỏi ai trong chúng ta là người không cảm thấy yếu đuối, sợ hãi, thiếu kiên định khi hầu việc Đức Chúa Trời? Đã biết bao lần chúng ta do dự, khước từ đối với tiếng phán của Ngài? Chúng ta thoái thác Đức Chúa Trời mà không hề nhớ những lẽ thật Kinh Thánh qua lời của Sứ Đồ Phaolô: “Chúng tôi đựng của quí nầy trong chậu bằng đất, hầu cho tỏ quyền phép lớn dường ấy là bởi Đức Chúa Trời mà ra, chớ chẳng phải bởi chúng tôi” (2Cô. 4:7). “Của quí” là Đức Thánh Linh và Tin Lành của Đức Chúa Jêsus. “Chậu bằng đất” là chúng ta. Đức Chúa Trời đã đẹp ý chọn sử dụng cái yếu, cái tầm thường như chúng ta để trao cho chúng ta quyền phép Đức Thánh Linh của Ngài. Đức Chúa Trời hiện diện trong chúng ta bởi Đức Thánh Linh của Ngài để chúng ta tôn qui vinh hiển cho Ngài. Đức Chúa Trời phán với Giôsuê và Dân Sự rằng “Hãy vững lòng bền chí” vì Ngài ở cùng họ. Đối với chúng ta cũng vậy, Đức Chúa Trời không bao giờ đòi hỏi chúng ta phải một mình làm bất cứ việc gì cả. Có chăng chỉ là chúng ta xao lãng Ngài, không biết ở trong sự hiện diện của Ngài để vâng lời Ngài mà thôi. Về phần Đức Chúa Trời, Ngài không bao giờ thay đổi về lời hứa ở cùng chúng ta; Đức Chúa Jêsus phán: “19Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báptêm cho họ, 20và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà Ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Ma. 28:19-20). Có một bộ tộc thổ dân Châu Mỹ có một phong tục thực tập lòng can đảm cho các thiếu niên thật độc đáo. Ngay đêm đầu tiên một nam thiếu niên bước vào tuổi mười ba, người ấy sẽ được đem bỏ vào rừng già một mình để sống ở đó suốt một đêm. Cho đến đêm thử thách ấy, các thiếu niên luôn được ở dưới sự bảo bọc của gia đình, chưa bao giờ phải một mình qua đêm ở đâu cả. Thế nhưng vào đêm thử thách, họ được gia đình bịt kín mắt, đem đến một khu rừng già xa lạ rồi thả ra. Khi người nhà bỏ đi rồi, lột khăn bịt mắt ra, người thiếu niên chỉ thấy đêm đen dày đặc, đưa tay lên tận mắt cũng chẳng thấy gì. Lang thang trong rừng, người thiếu niên được thử thách phải sống những giờ phút hết sức căng thẳng: Chỉ cần tiếng nhánh cây khô gãy “rắc” dưới chân cũng khiến họ hình dung ra hình ảnh một con thú dữ nào đó đang rình rập, sẵn sàng lao ra tấn công bất cứ lúc nào. Nghe tiếng thú dữ gầm, rống xa xa, họ tưởng chừng như mình sẽ là con mồi tiếp theo của chúng trong giây lát, và cái chết sẽ đến không sao tránh thoát. Mỗi lần tiếng gió lao xao trong cành lá, họ sợ dựng tóc gáy hoang mang không biết hiểm họa nào sẽ xảy đến… Cứ thế suốt một đêm dài là một cực hình tưởng chừng không sao chịu nổi. Chỉ một đêm mà tưởng chừng như vô tận; thế nhưng cái đêm kinh hoàng ấy rồi cũng trôi qua. Và, ngay khi những tia sáng đầu tiên xuất hiện - còn nhạt mờ cho đến nỗi chưa giúp phân biệt được màu của lá, của hoa - người thiếu niên được thử thách đã phải ngạc nhiên hết sức khi thấy thấp thoáng trong ánh sáng lờ mờ, yếu ớt ấy một bóng người với đầy đủ cung tên, gươm giáo đang bám theo mình trong một khoảng cách không xa. Đó chính là cha của người được thử thách, ông đã bám sát theo đứa con để sẵn sàng bảo vệ trong suốt đêm qua… Đức Chúa Trời là Đấng kêu gọi chúng ta bước ra khỏi hoang mạc thuộc linh trong thế gian này cũng luôn luôn ở bên cạnh chúng ta như thế. Ngài là Đức Chúa Trời đã truyền phán cho chúng ta, nhưng đồng thời Ngài cũng là Đức Chúa Trời kết ước với chúng ta: “Hãy vững lòng bên chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng; vì Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi” (C. 9). Đức Chúa Trời của Môise, Đức Chúa Trời của Giôsuê cũng chính là Đức Chúa Trời của chúng ta ngày nay! Kinh Thánh luôn luôn so sánh sự bước đi của Cơ Đốc Nhân với chiến trận thuộc linh. Để làm một chiến sĩ khôn ngoan, chúng ta phải biết tự vũ trang cho mình một cách thỏa đáng. Tuy nhiên, vũ khí của chúng ta sẽ trở nên vô dụng nếu kênh thông tin_liên lạc giữa chúng ta với Tổng Tư Lệnh của chúng ta là Đức Chúa Trời bị nhiễu. Điều bắt buộc là chúng ta phải nghe cho được tiếng phán của Đức Chúa Trời. Thế nhưng, để nghe cho được tiếng phán của Đức Chúa Trời, chúng ta phải biết phân biệt: (1) Tiếng của Satan là kẻ thù của chúng ta gầm rống như sư tử (1Phi. 5:8). Tiếng của Satan đầy dọa dẫm, dễ làm cho chúng ta khiếp nhược. Nếu chúng ta bị cuốn theo tiếng Satan, chúng ta sẽ bị tê điếng, không sao tiến lên phía trước được. (2) Tiếng của dân bản địa trong “xứ” là dân mà chúng ta phải chiến đấu để chiến thắng và chinh phục. “Xứ” là thế gian này, là nơi không muốn ánh sáng của Tin Lành soi rọi vào vì nó sẽ làm phơi bày tội lỗi của họ ra. Vì thế, nếu chúng ta nghe theo tiếng của người thế gian, chúng ta sẽ đánh mất phương hướng, bỏ rơi sự kêu gọi và chức vụ đã được trao ban cho chúng ta. (3) Cũng còn có tiếng huyên náo trong chính trại quân của chúng ta là Hội Thánh nữa! Tiếng này có nhiều giọng khác nhau: Giọng ganh tị, giọng mạ lị, giọng chia rẽ, và cả giọng kiêu ngạo của chính xúc cảm của bản thân… Nếu nghe theo các giọng này, chúng ta dễ bị tụt hậu, thối lui, hoặc bỏ cuộc. Chỉ có duy nhất một loại tiếng có thẩm quyền tối hậu đối với chúng ta là tiếng phán của Đức Chúa Trời qua Lời Ngài trong Kinh Thánh. Tiếng phán của Đức Chúa Trời mạnh nhưng mang tính yên ủi. Tiếng phán của Đức Chúa Trời đanh thép nhưng đầy yêu thương. Đức Chúa Trời truyền cho chúng ta phải có dũng khí, phải biết nương cậy Ngài không thôi vì Ngài luôn ở với chúng ta. Với sự ở cùng của Đức Chúa Trời trong chúng ta, chúng ta sẽ vô địch, chúng ta sẽ không bao giờ thất bại nếu chúng ta biết kiên trung vâng theo tiếng phán của Ngài: “Quyển sách Luật Pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước” (C. 8). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“ĐỂ ĐƯỢC ĐỨC CHÚA TRỜI BAN PHƯỚC” (Thi. 1:1-3) “Phước cho người nào chẳng theo mưu kế của kẻ dữ,_Chẳng đứng trong đường tội nhân,_Không ngồi chỗ của kẻ nhạo báng.” (Thi. 1:1) Kinh Thánh phán: “1Phước cho người nào chẳng theo mưu kế của kẻ dữ,_Chẳng đứng trong đường tội nhân,_Không ngồi chỗ của kẻ nhạo báng;_2Song lấy làm vui vẻ về Luật Pháp của Đức Giêhôva,_Và suy gẫm Luật Pháp ấy ngày và đêm._3Người ấy sẽ như cây trồng gần dòng nước,_Sanh bông trái theo thì tiết,_Lá nó cũng chẳng tàn héo;_Mọi sự người làm đều sẽ thạnh vượng.” (Thi. 1:1-3) Để được Đức Chúa Trời ban phước, theo Lời Kinh Thánh, chúng ta phải sống theo một số điều nhất định nào đó và phải tránh xa những điều nhất định nào đấy! Người muốn được Đức Chúa Trời ban phước không thể bị tìm thấy giữa vòng những người đi theo con đường chống nghịch lại Đức Chúa Trời, không biết kính sợ Đức Chúa Trời, tự đặt ý muốn riêng của mình cao hơn Lời Ngài; trái lại, người muốn được Đức Chúa Trời ban phước phải biết sống một cách khôn ngoan trong mối tương giao mật thiết với Ngài biểu hiện qua việc yêu thích Lời Ngài. A. TRÁNH ĐIỀU PHẢI TRÁNH (C. 1). “Phước cho người nào chẳng theo mưu kế của kẻ dữ,_Chẳng đứng trong đường tội nhân,_Không ngồi chỗ của kẻ nhạo báng.” 1. Người được Đức Chúa Trời ban phước trước hết là người biết ly khai thế gian, tức không sống theo các nguyên tắc của thế gian. Chúng ta phải tránh xa các lời khuyên giục của “kẻ dữ” là người không tin kính Đức Chúa Trời. Chúng ta phải sống theo các nguyên tắc khác với các nguyên tắc trong thế gian này. “Kẻ dữ” (Hb. rasah) được phối hợp từ hai nghĩa khác nhau. Nghĩa thứ nhất nói về trạng thái đạo đức buông thả, và nghĩa thứ nhì nói về việc không chịu ràng buộc với Đức Chúa Trời. “Kẻ dữ” là người không chịu phục tùng dưới các huấn mệnh của Đức Chúa Trời mà chỉ sống theo sự thôi thúc của xúc cảm và sự tham muốn cá nhân mà thôi. “Kẻ dữ” là người không sống theo sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh qua Lời Kinh Thánh. Chúng ta, Cơ Đốc Nhân, không được phép mắc mướu gì với đường lối của “kẻ dữ”. Kinh Thánh dạy dỗ chúng ta nhiều điều về những sự chúng ta phải sống theo: (1) Chúng ta phải có lòng kỳ vọng nơi Đức Chúa Trời: “Vừa buổi sáng, xin cho tôi nghe sự nhân từ Chúa,_Vì tôi để lòng trông cậy nơi Chúa;_Xin chỉ cho tôi biết con đường phải đi,_Vì linh hồn tôi ngưỡng vọng Chúa.” (Thi. 143:8) (2) Chúng ta phải biết sống theo Lẽ Thật: “Hỡi Đức Giêhôva, xin hãy chỉ dạy cho tôi biết đường lối Ngài,_Thì tôi sẽ đi theo sự chân thật của Ngài;_Xin khiến tôi một lòng kính sợ danh Ngài.” (Thi. 86:11) (3) Lời dạy của Sứ Đồ Phaolô về việc chúng ta phải sống như thế nào thật rõ ràng: “1Vậy, tôi là kẻ tù trong Chúa, khuyên anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với chức phận mà Chúa đã gọi anh em, 2phải khiêm nhường đến điều, mềm mại đến điều, phải nhịn nhục, lấy lòng thương yêu mà chìu nhau, 3dùng dây hòa bình mà giữ gìn sự hiệp một của Thánh Linh.” (Êph. 4:1-3) (4) Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta phải sống dưới sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh: “…Hãy bước đi theo Thánh Linh, chớ hề làm trọn những điều ưa muốn của xác thịt.” (Gal. 5:16) Chỉ khi nào biết thuận phục theo tiếng phán của Đức Thánh Linh người ta mới có thể tránh khỏi “mưu kế của kẻ dữ” và mới được Đức Chúa Trời ban phước. 2. Người biết ly khai với thế gian sẽ không “đứng trong đường tội nhân”. “Tội nhân” (Hb. chatta) nói về người “thiếu điểm”, không đạt “tiêu chuẩn” được đề ra theo ý chỉ tốt lành của Đức Chúa Trời. “Tiêu chuẩn” là Luật Pháp của Đức Chúa Trời, “tội” là sự vi phạm Luật Pháp của Ngài. Cả nhân loại đều vi phạm Luật Pháp của Đức Chúa Trời, chính vì thế mà Đức Chúa Jêsus đã phải hy sinh đền tội thay trên Thập Tự Giá cho cả nhân loại. Dầu vậy, từ liệu “tội nhân” được sử dụng ở đây nói về người chủ tâm chọn cho mình một lối sống nghịch lại với ý chỉ của Đức Chúa Trời. “Đứng” nói về thái độ của một người đối với Đức Chúa Trời; vậy, Cơ Đốc Nhân phải “đứng” như thế nào? (1) Phải biết kính sợ Đức Chúa Trời: “Khắp thiên hạ khá kính sợ Đức Giêhôva._Các dân thế gian hãy kinh khủng Ngài.” (Thi. 33:8) (2) Phải giữ vững đức tin đặt nơi Đức Chúa Trời: “Anh em hãy tỉnh thức, hãy vững vàng trong đức tin, hãy dốc chí trượng phu và mạnh mẽ.” (1Cô. 16:13) (3) Phải có mối thông công lành mạnh với các tín hữu khác: “…Anh em hãy hiệp ý với nhau, đồng tình yêu thương, đồng tâm, đồng tư tưởng…” (Phil. 2:2) “Chẳng đứng trong đường tội nhân” tất sẽ được đứng trong đường lối, Luật Pháp của Đức Chúa Trời. Đó là chúng ta phải có thái độ kính sợ Đức Chúa Trời, vững vàng trong đức tin, và hiệp thông với các Cơ Đốc Nhân khác. 3. Người biết ly khai với thế gian sẽ “không ngồi chỗ của kẻ nhạo báng”. “Ngồi” (Hb. mowshab) có nghĩa là ở chung chỗ. “Ngồi” nói về trạng thái, về tình trạng. Để được Đức Chúa Trời ban phước, người biết ly khai thế gian cũng sẽ đồng thời không để mình vướng víu với tình trạng không đẹp ý Đức Chúa Trời của những người chưa được cứu. “Nhạo báng” là chế diễu một điều gì đó vì xem thường. “Kẻ nhạo báng” nói về những người xem thường Đức Chúa Trời và việc thuộc về Đức Chúa Trời, coi trọng sự thuộc thể mà chế diễu sự thuộc linh. Khi một người biết ly khai thế gian, cả ba phương diện này sẽ được đồng thời ly khai: “… mưu kế của kẻ dữ,_... đường tội nhân,_... chỗ của kẻ nhạo báng.”. Chúng ta không thể nào nhận được phước hạnh từ nơi Đức Chúa Trời trong một trạng thái vẫn còn vướng bận trong thế gian. Tuy nhiên người ta sẽ không thể tránh được những điều phải tránh nếu không chọn đúng được điều phải theo: Đó là biết dầm thấm trong Lời Đức Chúa Trời. B. THEO ĐIỀU PHẢI THEO (C. 2) “Song lấy làm vui vẻ về Luật Pháp của Đức Giêhôva,_Và suy gẫm Luật Pháp ấy ngày và đêm.” “Lấy làm vui vẻ về Luật Pháp của Đức Giêhôva” có nghĩa là lấy Lời Kinh Thánh làm đối tượng của niềm vui của mình. Người được Đức Chúa Trời ban phước là người có lòng thỏa vui đối với Lời Kinh Thánh và tìm được mọi sự mình yêu thích trong Lời Kinh Thánh. “Lấy làm vui vẻ về Luật Pháp của Đức Giêhôva” là một tiến trình hành động chứ không phải chỉ là một sự biểu hiện của cảm xúc. Người ta chỉ có thể “lấy làm vui vẻ về Luật Pháp của Đức Giêhôva” khi họ đã được Đức Thánh Linh chứng giải về tội lỗi và họ đã ly khai với tội lỗi và thế gian để trở lại với Đức Chúa Jêsus. Chỉ khi nào người ta chịu quay lưng đối với tội lỗi thì Lời Kinh Thánh mới có thể chiếm chỗ trong đời sống của họ được: “1Vậy anh em đã từ bỏ mọi điều độc ác, mọi điều gian giảo, mọi thứ giả trá, lòng ghen ghét và sự nói hành, 2thì hãy ham thích sữa thiêng liêng của Đạo, như trẻ con mới đẻ vậy, hầu cho anh em nhờ đó lớn lên mà được rỗi linh hồn, 3nếu anh em đã nếm biết Chúa là ngọt ngào.” (1Phi. 2:1-3) Vị giác về Lời Chúa sẽ trở nên nhạt nhẽo nếu Cơ Đốc Nhân không có phương pháp đúng để tự dầm thấm mình trong Lời Kinh Thánh, tránh xa mọi lôi cuốn uế tục của đời này. Chỉ khi nào chúng ta biết đặt mình dưới sự ảnh hưởng của Lời Chúa thì chúng ta mới thoát khỏi được các ảnh hưởng tà ác của thế gian. Việc “lấy làm vui vẻ về Luật Pháp của Đức Giêhôva” đòi hỏi sự tham gia của ý chí cá nhân: “Tôi đã giấu Lời Chúa trong lòng tôi,_Để tôi không phạm tội cùng Chúa.” (Thi. 119:11) “Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi,_Ánh sáng cho đường lối tôi.” (Thi. 119:105) “Lấy làm vui vẻ về Luật Pháp của Đức Giêhôva” còn có nghĩa chăm chỉ suy gẫm Lời Kinh Thánh. Suy gẫm (Hb. hagah) là suy đi nghĩ lại về sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời và chịu để cho các sự dạy dỗ ấy định hình đời sống của chúng ta: “Hỡi Đức Giêhôva, xin chỉ dạy tôi con đường luật lệ Chúa,_Thì tôi sẽ giữ lấy cho đến cuối cùng.” (Thi. 119:33) “Xin chớ cất hết lời chân thật khỏi miệng tôi;_Vì tôi trông cậy nơi mạng lịnh Chúa.” (Thi. 119:43) Để nhận được sự dạy dỗ, không thể không suy gẫm Lời Chúa (Châm. 4:20-21). Chúng ta chỉ có thể tìm thấy sự dạy dỗ của Lời Chúa trong ý thức nương cậy và tinh thần cầu nguyện. Mặc dầu đã có lời hứa của Đức Chúa Trời cho Tiên Tri Êli rằng Ngài sẽ ban mưa (1Vua. 18:1) nhưng Êli đã phải đánh hạ các tiên tri của Baanh (1Vua. 18:40), phải dốc lòng cầu nguyện (1Vua. 18:42), và phải trông chừng đến lần thứ bảy (1Vua. 18:44) mới bắt đầu thấy có dấu hiệu của mưa! Đức Chúa Trời muốn định hình chúng ta cho tương thích với các phước hạnh của Ngài, do đó, hễ chúng ta biết để cho Lời Ngài định hình chúng ta thì phước hạnh của Ngài cũng sẽ đến trên đời sống của chúng ta. C. ĐƯỢC ĐIỀU PHẢI ĐƯỢC (C. 3) “Người ấy sẽ như cây trồng gần dòng nước,_Sanh bông trái theo thì tiết,_Lá nó cũng chẳng tàn héo;_Mọi sự người làm đều sẽ thạnh vượng.” Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, “cây” luôn được dùng để nói về sự kết quả. Cũng giống như đời sống thực vật của cây cần đến nước, đời sống thuộc linh của chúng ta cần có nguồn cung ứng dồi dào từ những sự thuộc về Đức Chúa Trời. Nguồn cung ứng của Đức Chúa Trời cho chúng ta là Lời Ngài trong Kinh Thánh, Thánh Linh Ngài trong đời sống chúng ta, Ân Điển Ngài đã cứu chuộc chúng ta, và địa vị công nghĩa mà Ngài đã qui kết cho chúng ta. Cơ Đốc Nhân là cây “trồng (lại)” (Hb. shathal) để được thuần hóa và kết quả! Cây “trồng lại” là cây được di thực từ một môi trường này đến một môi trường khác. Về bản chất, Cơ Đốc Nhân đã được dời từ quỉ quốc của Satan vào Vương Quốc của Đức Chúa Jêsus. Một khi biết ly khai với thế gian, chịu dầm thấm trong Lời Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ là “cây” được Đức Chúa Trời di thực đến môi trường Ngài đã định sẵn trong Con Ngài để chúng ta kết quả cho sự vinh hiển của Ngài. Đức Chúa Trời không hề có một chương trình nào để Cơ Đốc Nhân vừa lún sâu trong thế gian vừa vui hưởng phước hạnh của Ngài! Phước hạnh của Đức Chúa Trời luôn ở trong môi trường của Đức Chúa Trời và thuộc về những ai ở trong môi trường ấy. Phước hạnh cho Cơ Đốc Nhân không thể tìm được trong thế gian, do đó chỉ khi nào Cơ Đốc Nhân biết ly khai thế gian để tuân thủ tiếng phán của Đức Chúa Trời họ mới nhận được phước hạnh của Ngài. Bỏ đi cách ứng xử và hành sử của thế gian để sống một cách đầy nhiệt tâm theo các sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh là con đường đem Cơ Đốc Nhân đến với phước hạnh của Đức Chúa Trời. Cơ Đốc Nhân là “cây” đã được Đức Chúa Trời di thực từ môi trường thế gian vào môi trường của Ngài để họ có đời sống thạnh vượng cho sự vinh hiển của Ngài. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“ĐỨC CHÚA JÊSUS LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI” (Gi. 1:1) “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.” (Gi. 1:1) Hoạt động trong xã hội loài người có thiên hình, vạn trạng; xã hội mà chúng ta đang sống rất đa dạng, phong phú. Đêm nay, vào giờ này, giữa khi chúng ta nhóm nhau lại ở đây để kỷ niệm Lễ Giáng Sinh của Đức Chúa Jêsus Christ thì vẫn có vô số người đang theo đuổi hết mình đối với những gì họ say mê… Dầu vậy, Lời Kinh Thánh cho biết rằng Đức Chúa Trời đòi hỏi trách nhiệm cá nhân của mỗi người trên lối sống của mình. Đây là một sự thật, và cách duy nhất để giải quyết cho vấn đề này là nhận thức được rằng hài nhi Jêsus đã giáng sinh năm nào chính là Đấng Cứu Chuộc cho nhân loại, và tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình. Chỉ khi nào người ta đã được xưng công nghĩa bởi Đức Chúa Trời nhờ công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus trên Thập Tự Giá, người ta mới có thể thực sự được ở trong trạng thái bình an viên mãn vì nợ tội đã được trả, án tội đã được tha, và ách tội đã được thoát. I. “ĐẠO” TRONG VĂN HÓA ĐÔNG PHƯƠNG Ngay từ lời đầu tiên của Sách Sáng Thế Ký, lẽ thật về Cuộc Sáng Tạo vũ trụ đã được bày tỏ: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.” (Sáng. 1:1) Thế rồi lịch sử đã lặp lại theo một cách mới và ý nghĩa mới khi Sách Tin Lành Giăng bày tỏ về sự khởi đầu của chương trình tái tạo nhân loại, chương trình cứu chuộc hoàn hảo của Đức Chúa Trời, công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus trên Thập Tự Giá ở đồi Gôgôtha: “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.” (Gi. 1:1) “Ngôi Lời” được nói đến ở đây là “Đạo”, và ý nghĩa sâu xa của câu Kinh Thánh này là như thế này: “Đạo” chân thực vốn có từ khởi nguyên của giòng thời gian, “Đạo” chân thực phải khởi nguyên từ Đức Chúa Trời, và “Đạo” chân thực duy nhất chính là nguyên thể Đức Chúa Trời”. Quan niệm văn hóa Đông Phương về “đạo” tạo ra ít nhiều khó khăn cho việc hiểu về “Đạo” theo Kinh Thánh! Trước hết, theo cách hiểu Đông Phương, “đạo” luôn luôn gắn liền với “giáo”, và được gọi chung là “đạo giáo”. Quan niệm Đông Phương cho rằng chức năng chủ yếu của “đạo” là “giáo”, tức là “đạo” chỉ nhằm dạy (“giáo”: dạy) cho con người biết từ bỏ điều ác, làm theo điều thiện là chính. Dẫn xuất từ một cách hiểu như thế, người ta thường hiểu một cách chung chung rằng “đạo nào cũng tốt!”, sống theo “đạo” nào cũng được cả, không thành vấn đề! Thậm chí, có người còn cho rằng mỗi người có phận sự phải trung thành với loại tôn giáo vốn có của địa phương mình sống chứ không cần gì phải thay đổi! Tiến xa hơn thế, có người suy luận rằng Cơ Đốc Giáo là ngoại lai, là non trẻ,… Thật ra, cách nghĩ này thể hiện một tầm nhìn tù túng, đồng hóa “Đạo” của Đức Chúa Trời với “đạo giáo” của thế gian làm một; chưa phân biệt được giữa “Thiên Đạo” với “nhân đạo”. II. DẦU “NHÂN ĐẠO” CÓ NHIỀU, “THIÊN ĐẠO” CHỈ CÓ MỘT Trên phương diện xã hội học, tôn giáo cổ xưa nhất ở Đông Phương là Ấn Độ Giáo. Ấn Độ Giáo là một hệ thống tín ngưỡng dựa trên sự dạy dỗ của kinh Veda mà người Ấn Độ cổ đại đã được biết từ xa xưa. Kinh Veda được người Aryan du nhập vào nước Ấn Độ theo bước chân xâm lược của họ vào khoảng năm 1200 TC. Triết lý của kinh Veda được gọi là Upanishads, một hệ thống triết học lấy tư duy của con người làm đối tượng nghiên cứu, nhằm mục đích khám phá các nguyên lý giúp cho con người thoát khỏi phạm trù luân hồi. Ấn Độ Giáo nguyên thủy gọi thực thể tối cao của mình là Brahman, một biến thể thăng hoa của linh hồn con người, gọi là Atman. Kinh Veda dạy rằng mọi tạo vật đều phải chu chuyển theo một chu kỳ luân hồi hầu như vô tận, và chu kỳ ấy chỉ có thể dừng lại khi nào cá nhân đạt được một sự tự thức thuộc linh gọi là “giác ngộ”… Ấn Độ Giáo là một nổ lực của con người để giải thoát cho con người khỏi thân phận làm người. Theo giòng thời gian, Ấn Độ Giáo đã được pha trộn vào chủ nghĩa dân tộc của người Ấn Độ, trở thành một thế lực chính trị hùng hậu trong sinh hoạt chính trị, xã hội của nước Ấn Độ ngày nay. Cây “cổ thụ” tôn giáo thứ nhì của Đông Phương là Phật Giáo mà nhà sáng lập là Siddhartha Gautama (tức là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni). Siddhartha Gautama sinh năm 563 TC., viên tịch năm 483 TC. Siddhartha Gautama được tôn xưng là Buddha (tức là “Phật”, có nghĩa là “giác ngộ”). Theo truyền thuyết, Siddhartha Gautama đã rời bỏ cuộc sống giàu sang của hoàng triều vào năm 30 tuổi, tự kết ước tu thân, ép xác để trầm tư mặc tưởng và cuối cùng đã đạt được “giác ngộ” ở mức hoàn thiện. Sự dạy dỗ của Siddhartha Gautama đặt căn bản trên “Tứ Diệu Đề” và “Bát Chính Đạo”, mục tiêu của Phật Giáo là giúp con người đạt được một trạng thái gọi là Nirvana (nhập “Niết Bàn”?). Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là một trong các lời dạy dỗ của Siddhartha Gautama là như thế này: “Ta chỉ đường cho chúng sinh đến với chân lý chứ Ta không phải là chân lý ”. “Khổng Giáo” ban đầu không phải là một tôn giáo, dầu rằng ngày nay nhiều người cho rằng đó là một tôn giáo. Dầu vậy, trong văn hóa vùng chúng ta đang sống, các sự dạy dỗ của “Khổng Giáo” có một tầm ảnh hưởng tương đương với Phật Giáo. Người sáng lập “Khổng Giáo” là Đức Khổng Tử (Kong Fu-Zi), sinh năm 551 TC., chết năm 479 TC., là người nước Lỗ lúc bấy giờ (nay thuộc địa phận tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Sự dạy dỗ của Khổng Tử thiên về thực dụng, là một hệ thống triết học thực hành chứ không phải là sự giáo dục tôn giáo. Phương hướng dạy dỗ của Khổng Tử nhằm giúp con người tiếp cận được sự hòa hợp xã hội, mưu cầu đời sống an lành, có lợi, và có ích. “Khổng Giáo” rất chú trọng việc hoàn thành các nghĩa vụ cá nhân đối với cộng đồng (của xã hội Đông Phương cổ đại). Mục tiêu dạy dỗ của Khổng Tử khá minh bạch, có thể được tóm tắt trong chín chữ làm phương châm: “Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ”. Khi được các môn đệ hỏi về “Đạo”, Khổng Tử cho biết rằng “đạo khả đạo phi thường đạo…” (“đạo” mà người ta có thể thiết lập được thì chưa phải là “Đạo”), và kết luận rằng “đạo xuất ư thiên” (“Đạo” chân thực phải khởi nguyên từ “Trời”)! Tri giác của con người nhiều khi ở trong trạng thái ngộ nhận. Chẳng hạn, người ta bị các con số dẫn đến những ý niệm sai lầm: Ấn Độ Giáo:1.200 TC., Phật Giáo: 483 TC., Khổng Giáo: 479 TC. Tất cả đều “TC.”! Trông có vẻ như Đức Chúa Jêsus so với các tôn giáo kia thì chỉ là một Giáo Chủ “sinh sau, đẻ muộn”! Sự thật không phải như vậy! Kinh Thánh phán: “1Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời… 14Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con Một đến từ nơi Cha.” (Gi. 1:1, 14) Kinh Thánh tỏ cho biết rằng Đức Chúa Jêsus là thực thể của “Đạo” chân thực, Ngài thuộc về Đức Chúa Trời Ba Ngôi, và Ngài là một Ngôi trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Dầu rằng Đức Chúa Jêsus đã mặc lấy nhân trạng theo thời điểm của Đức Chúa Trời để bày tỏ Đức Chúa Trời, và thi hành chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời cho nhân loại, nhưng chính Ngài là Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng “TỰ HỮU, HẰNG HỮU”. Kinh Thánh gọi Ngài là Con Một Đức Chúa Trời. “Con Một” là một từ liệu Hylạp nói cho biết rằng Ngài là phiên bản của Đức Chúa Trời trên trần gian, là sự thể hiện của tự thân Đức Chúa Trời trên trần gian. Ngài là Đức Chúa Trời đến trần gian để cứu người trần gian theo chương trình tối cao của Đấng Tối Cao: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” (Gi. 3:16) “4Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới Luật Pháp, 5để chuộc những kẻ dưới Luật Pháp, và cho chúng ta được làm con nuôi Ngài.” (Gal. 4:4-5) Brahman của Ấn Độ Giáo chung cuộc chỉ là một biến tướng của linh hồn con người khi nắm bắt được các nguyên lý để nhờ đó mà thoát kiếp luân hồi. Nirvana là một trạng thái mà Phật Giáo dạy rằng người ta có thể nhờ “tu” mà đạt được. “Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ” là lý tưởng mà “Khổng Giáo” dạy dỗ,… Tất cả các tôn giáo của đời này đều thuộc phạm trù “nhân đạo”, tức là đạo do con người thiết lập. Chính Đức Khổng Tử cũng đã nhận thức được rằng “đạo khả đạo phi thường đạo…”. Đức Khổng Tử đã cảm nhận một cách vô thức rằng “đạo xuất ư thiên”, đúng như Lời Kinh Thánh phán cho biết rằng Cơ Đốc Giáo mới là “Thiên Đạo”: “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.” (Gi. 1:1) Đức Chúa Jêsus không phải là Giáo Chủ “sinh sau, đẻ muộn” của một tôn giáo “sinh sau, đẻ muộn” như người ta ngộ nhận, vì Ngài là Đức Chúa Trời. Đức Chúa Jêsus chẳng những chỉ đường cho con người đến với chân lý mà chính Ngài là Con Đường để đi đến chân lý, Ngài chính là Thực Thể có thể tiếp cận được của Chân Lý, và Ngài chính là Sự Sống đích thực, vì Ngài là Đức Chúa Trời. Đức Chúa Jêsus phán: “Ta là Đường Đi, Lẽ Thật, và Sự Sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha.” (Gi. 14:6) Hãy đến với Đức Chúa Jêsus. Hãy tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình. Tiếp nhận Đức Chúa Jêsus là tiếp nhận chính Đức Chúa Trời, là tiếp nhận Sự Sống đích thực từ Đấng Sống. Hãy tiếp nhận Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và Chúa để nợ tội được trả, án tội được tha, và ách tội được thoát! Hãy tiếp nhận Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và Chúa để được ở trong trạng thái bình an viên mãn vì có được chính Đức Chúa Trời trong đời sống mình. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“ĐỂ ĐỜI SỐNG THỊNH VƯỢNG” (Phil. 1:1-11) “Tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn cho đến ngày của Đức Chúa Jêsus Christ” (Phil. 1:6) Đức Chúa Jêsus đã đến thế gian để người tin Ngài “được sự sống, và được sự sống dư dật” (Gi. 10:10). Một đời sống Cơ Đốc chỉ đẹp nếu đời sống ấy thịnh vượng một cách hợp Kinh Thánh. Sự thịnh vượng theo Kinh Thánh không chỉ là sự thịnh vượng thuộc thể mà trước hết phải là sự thịnh vượng thuộc linh: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, tôi cầu nguyện cho anh được thạnh vượng trong mọi sự, và được khỏe mạnh phần xác anh cũng như đã được thạnh vượng về phần linh hồn anh vậy.” (3Gi. 1:2) Kinh Thánh nghiêm trách những đời sống không thịnh vượng được trên phương diện thuộc linh, kể họ như “đám mây không nước, theo gió đưa đi đây đó; như cây tàn mùa thu, không có trái…; như sóng cuồng dưới biển, sôi bọt ô uế của mình; như sao đi lạc…” (Giu. 1:12, 13). Đức Chúa Trời muốn chúng ta có một đời sống thịnh vượng là đời sống hoàn thành sự kêu gọi của Ngài đối với chúng ta, chúng ta biết sống chấp nhận tha nhân như họ hiện có, chúng ta biết phát triển tình yêu thương, và chúng ta thực sự được trưởng thành thuộc linh. I. PHẢI SỐNG PHÙ HỢP CHỨC PHẬN MÌNH Mọi sự đều phải có xuất phát điểm của nó, đời sống Cơ Đốc cũng thế. Trong đại gia đình của Đức Chúa Trời là Hội Thánh, không ai là người vô phận sự cả. Mỗi người đều có sự kêu gọi, hoặc là sự kêu gọi đặc biệt, hoặc là sự kêu gọi phổ quát: “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người cho ai nấy đều được sự ích chung.” (1Cô. 12:7) Mỗi Cơ Đốc Nhân đều phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chính: (1) Sống đời sống tăng trưởng, và (2) Sống đời sống gây dựng: “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời.” (1Phi. 4:10) Lời mở đầu của Sách Philíp vẽ nên một bức tranh đẹp về sự kết hợp chức phận và thế hệ trong thẩm quyền Thiên Thượng: “Phao Lô và Timôthê, tôi tớ của Đức Chúa Jêsus Christ, gởi cho hết thảy các thánh đồ trong Đức Chúa Jêsus Christ, ở thành Philíp, cùng cho các Giám Mục và các Chấp Sự.” (Phil. 1:1) Hội Thánh của Đức Chúa Trời là một hợp thể thống nhất một cách hài hòa dưới sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh để ai nấy đều có thể “được Ân Điển và sự bình an ban cho bởi Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, và bởi Đức Chúa Jêsus Christ!” (Phil. 1:2). Do đó, mỗi thành viên trong Hội Thánh phải sống phù hợp theo chức phận mà Đức Chúa Trời đã gọi: “Hỡi anh em, ai nấy khi được gọi ở đấng bậc nào, thì phải cứ ở theo đấng bậc ấy trước mặt Đức Chúa Trời.” (1Cô. 7:24) “Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen.” (1Phi. 4:11) II. PHẢI SỐNG NHÌN NHẬN THA NHÂN Trong cương vị Sứ Đồ, Phaolô viết cho các tín hữu ở Hội Thánh Philíp rằng “tôi nhớ đến anh em”. Điều này nói lên thái độ nhìn nhận tha nhân của vị Sứ Đồ này cùng với bông trái của thái độ ấy cặp theo: “3Mỗi khi tôi nhớ đến anh em, thì cảm tạ Đức Chúa Trời tôi, 4và mỗi khi cầu nguyện, tôi hằng cầu cho anh em cách hớn hở.” (Phil. 1:3-4) Điều khiến cho Sứ Đồ Phaolô có thể luôn luôn cưu mang các tín hữu của mình trong lòng và tự giác cầu nguyện cho họ là sự nhận thức rằng họ là “anh em”, tức là có cùng chung huyết thống Jêsus mà ông là người đã được Đức Chúa Trời sử dụng để đem họ về trở lại với Ngài. Thật vậy, Hội Thánh Philíp là Hội Thánh đầu tiên mà Sứ Đồ Phaolô đã mở được trên đất Châu Âu (Công. 16:9-40) với người tín hữu đầu tiên là Liđi là người “làm nghề buôn hàng sắc tía” (Công. 16:14). Mối quan hệ giữa Sứ Đồ Phaolô với các tín hữu ở Hội Thánh Philíp là mối quan hệ được Đức Chúa Trời ban cho và dắt dẫn đã lâu ngày: “9Đương ban đêm, Phaolô thấy sự hiện thấy, có một người Maxêđoan đứng trước mặt mình, nài xin rằng: Hãy qua xứ Maxêđoan mà cứu giúp chúng tôi. 10Phaolô vừa thấy sự đó rồi, chúng ta liền tìm cách qua xứ Maxêđoan, vì đã định rằng Đức Chúa Trời gọi chúng ta rao truyền Tin Lành tại đó.” (Công. 16:9-10) Sứ Đồ Phaolô cho biết ông hằng coi trọng các tín hữu ở Hội Thánh Philíp và họ đã đem lại cho ông sự vui thỏa trong Đức Chúa Trời. Sứ Đồ Phaolô kể các tín hữu ở Hội Thánh Philíp như những người đồng công trong việc rao truyền Tin Lành của Đức Chúa Jêsus. Các tín hữu ở Hội Thánh Philíp đã đóng góp vào công cuộc rao truyền Tin Lành của Sứ Đồ Phaolô bằng những sự giúp đỡ cần thiết hàng ngày khi ông hầu việc Chúa ở đó cũng như những sự đóng góp tài chánh khi vị Sứ Đồ này bị giam cầm: “Vì cớ từ buổi ban đầu cho đến bây giờ, anh em đã được thông công trong sự tấn tới của đạo Tin Lành.” (Phil. 1:5) Đến như Sứ Đồ Phaolô mà còn biết hàm ân các tín hữu của mình, vậy chúng ta là ai mà sống dửng dưng, phủ nhận tha nhân? Thái độ nhìn nhận tha nhân là điều không thể thiếu trong đời sống Cơ Đốc. Đối với Đức Chúa Trời, không hề có một cá nhân nào là tuyệt đối vô giá trị để chúng ta có thể phủ nhận họ hoàn toàn; bằng chẳng vậy, Đấng Christ đã không vì mọi người mà chịu chết (Hê. 2:9; Rô. 10:13). Biết nhìn nhận tha nhân chúng ta mới có thể biết ơn Đức Chúa Trời về sự hiện diện của họ trong đời sống của chúng ta (Rô. 8:28), và từ đó chúng ta mới có thể hết lòng cầu nguyện cho họ được. Mặt khác, khi nặng mang thái độ phủ nhận, chúng ta chẳng những không phản ánh được sự vinh hiển của Đức Chúa Trời mà còn tự làm cho nhận thức của mình thành què quặt, đồng thời khiến cho tình yêu thương trong chúng ta trở thành thui chột hoặc méo mó, lệch lạc. Thái độ phủ nhận là “bà đỡ” cho thái độ thù hận ra đời! III. PHẢI SỐNG PHÁT TRIỂN YÊU THƯƠNG Biết nhìn nhận tha nhân, chúng ta sẽ có cơ hội để thực hiện một sự xác lập vững chắc cho sự phát triển yêu thương: “Tôi nghĩ đến hết thảy anh em dường ấy, là phải lắm; vì anh em ở trong lòng tôi, dầu trong vòng xiềng xích tôi, hoặc trong khi binh vực và làm chứng đạo Tin Lành, thì anh em cũng có dự phần Ân Điển đã ban cho tôi.” (Phil. 1:7) Sự nhìn nhận tha nhân sẽ mở cửa cho lòng chúng ta tiếp nhận họ như họ vốn có. Thế nhưng nền bền vững duy nhất cho tình yêu thương phải là “lòng yêu dấu của Đức Chúa Jêsus” (C. 8, Gk. splagchnon). Thật vậy, “tình yêu thương” (Gk. agape) là bông trái của Đức Thánh Linh (Gal. 5:22-23), đó là kết quả của sự vận hành của quyền năng Đức Chúa Trời trong đời sống người tin. “Tình yêu thương” chỉ có thể được duy trì, phát triển trong quyền năng Đức Chúa Trời nhờ đức thành tín của Ngài mà thôi: “Đức Chúa Trời cũng chứng rằng tôi lấy lòng yêu dấu của Đức Chúa Jêsus mà tríu mến anh em.” (Phil. 1:8) Chính nhờ đức thành tín của Đức Chúa Trời mà chúng ta mới có thể trung tín đối với Ngài khi chúng ta biết hết lòng thuận phục Ngài. Điều mà Sứ Đồ Phaolô nghĩ đến ở đây là đức trung tín của các tín hữu ở Philíp. Vị Sứ Đồ này tỏ ra đầy tự tin rằng anh chị em của mình trong Hội Thánh sẽ cứ còn sống nương cậy Chúa cho đến cuối cùng. Sự tin tưởng ấy của Sứ Đồ Phaolô không đặt ở họ, cũng không cậy ở mình, mà là ở sự thành tín của Đức Chúa Trời. “Tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn cho đến ngày của Đức Chúa Jêsus Christ.” (Phil. 1:6) Nơi chúng ta đặt cơ sở cho các mối quan hệ sẽ quyết định chất lượng của các mối quan hệ ấy. Phần lớn các trục trặc về quan hệ có nguyên nhân ở chỗ chúng ta đặt lòng tin của mình nhầm nơi. Nhìn nhận sự tốt đẹp có ở tha nhân và đặt lòng tin cậy ở tha nhân là hai việc hoàn toàn khác nhau. Chúng ta không thể nương cậy nơi loài người, kể cả tự thân chúng ta, không phải là vì họ không có gì tốt đẹp mà là vì họ không đủ năng lực để làm cho trọn “việc lành”, tức làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Để sống phát triển yêu thương, hai yếu tố then chốt là chấp nhận tha nhân và nương cậy Đức Chúa Trời, vì sự yêu thương thật chỉ đến với chúng ta trong sự thông hiểu Ngài: “Lại, điều tôi xin trong khi cầu nguyện, ấy là lòng yêu thương của anh em càng ngày càng chan chứa hơn, trong sự thông biết và sự suy hiểu.” (Phil. 1:9) Trên một phương diện, sống phát triển tình yêu thương không phải là sự thể hiện của năng lực bản thân mà là thực hiện theo sự kêu gọi Thiên Thượng: “Tôi cứ làm một điều: Quên lửng sự ở đằng sau mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ.” (Phil. 3:14) IV. PHẢI SỐNG TĂNG TRƯỞNG THUỘC LINH Người biết sống phát triển yêu thương sẽ là người có khả năng cao nhất để tăng trưởng thuộc linh vì “4Tình yêu thương hay nhịn nhục; tình yêu thương hay nhân từ; tình yêu thương chẳng ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo, 5chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ, 6chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong Lẽ Thật. 7Tình yêu thương hay dung thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, nín chịu mọi sự. 8Tình yêu thương chẳng hề hư mất bao giờ…” (1Cô. 13:4-8a). Kinh Thánh phán cho chúng ta biết rằng non trẻ về tình yêu thương cũng chính là non trẻ thuộc linh: “Khi tôi còn là con trẻ, tôi nói như con trẻ, tư tưởng như con trẻ, suy xét như con trẻ; khi tôi đã thành nhân, bèn bỏ những điều thuộc về con trẻ.” (1Cô. 13:11) Đời sống Cơ Đốc là đời sống yêu thương bằng quyền năng của Đức Chúa Trời. Do đó, sống phát triển yêu thương sẽ giúp đem lại đời sống tăng trưởng thuộc linh vì “tình yêu thương” chính là bông trái của đời sống thuộc linh chân thực… “[9Lại, điều tôi xin trong khi cầu nguyện, ấy là lòng yêu thương của anh em càng ngày càng chan chứa hơn, trong sự thông biết và sự suy hiểu,]10để nghiệm thử những sự tốt lành hơn, hầu cho anh em được tinh sạch không chỗ trách được, cho đến ngày Đấng Christ, 11được đầy trái công bình đến bởi Đức Chúa Jêsus Christ, làm cho sáng danh và ngợi khen Đức Chúa Trời.” (Phil. 1:10-11) Có nhiều cách hiểu khác nhau về đời sống thịnh vượng nhưng một đời sống thịnh vượng hợp với sự dạy dỗ của Kinh Thánh không thể thiếu các phương diện vừa được xem xét. Một đời sống thịnh vượng phải bắt đầu từ chức phận đã được gọi của mình và phát huy được tác dụng gây dựng của chức phận ấy. Đời sống thịnh vượng có dấu hiệu qua việc “người nầy người khác phải tiếp đãi nhau, chớ có cằn rằn” (1Phi. 4:9). Đời sống thịnh vượng biểu hiện tập trung ở đức trung tín trong tình yêu thương nhờ sự thành tín của Đức Chúa Trời để đạt đến mức trưởng thành thuộc linh theo ý chỉ “tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn” của Ngài (Rô. 12:2). Đời sống thịnh vượng là đời sống có khả năng “làm cho sáng danh và khen ngợi Đức Chúa Trời.” (Phil. 1:11). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“ĐỂ CÓ THỂ YÊU MÀ KHÔNG LO SỢ” (1Gi. 4:17-18) “Vì Đức Chúa Trời chẳng ban cho chúng ta tâm thần nhút nhát, bèn là tâm thần mạnh mẽ, có tình yêu thương và dè giữ.” (2Ti. 1:7) Hay lo sợ là một điều đã trở thành thâm căn cố đế trong tâm trí con người. Ngay sau khi phạm tội, loài người đã bắt đầu biết lo sợ: “9Giêhôva Đức Chúa Trời kêu Ađam mà phán hỏi rằng: Ngươi ở đâu? 10Ađam thưa rằng: Tôi có nghe tiếng Chúa trong vườn, bèn sợ…” (Sáng. 3:9-10). Nhìn đâu chúng ta cũng đều thấy dấu vết của nỗi lo sợ. Từ sợ sâu, sợ chuột cho đến sợ ác thú, sợ chiến tranh… Leo lên cây cao cũng sợ mà xuống dưới giếng sâu cũng sợ… Náo nhiệt quá nên sợ đã đành nhưng tĩnh lặng quá cũng khiến cho có người sợ… Ngay cả việc đến nhóm lại với Hội Thánh cũng lắm nỗi sợ: Sợ bị làm khó dễ đã đành nhưng cũng còn sợ những người hay nói hành,… Sợ bị phác giác những điều muốn giấu,… Sợ phải thay đổi những thói quen xấu cho hợp với sự dạy dỗ của Kinh Thánh,… Sợ phải tiếp xúc với những người mình không thích hoặc không thích mình,… Sợ phải dâng hiến cho Hội Thánh nữa!... “Lo sợ” là một phần tất yếu trong bản chất và điều kiện của con người thiên nhiên, nhưng Đức Tin lại là điều vốn thiếu trong con người thiên nhiên. “Sự lo sợ” đối lập với Đức Tin vì nó có tác dụng ngăn trở Đức Tin đến độ có thể làm cho Đức Tin trở thành “nghẹt ngòi” (Ma. 13:22). Một tấm lòng đầy dẫy “sự lo sợ” được Đức Chúa Jêsus kể như “bụi gai”, vì vậy “lo sợ” là điều trái với ý muốn tốt đẹp của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời muốn Dân Ngài chớ sợ mà hãy tin, Ngài muốn Dân Ngài hãy yêu thương mà đừng sợ: “Đừng sợ, hãy tin mà thôi…” (Lu. 8:50). “Quyết chẳng có điều sợ hãi trong sự yêu thương, nhưng sự yêu thương trọn vẹn thì cất bỏ sự sợ hãi; vì sự sợ hãi có hình phạt, và kẻ đã sợ hãi thì không được trọn vẹn trong sự yêu thương” (1Gi. 4:18). I. SỰ LO SỢ VÀ SỰ DÀY VÒ, ĐAU KHỔ… Trong phân đoạn Kinh Thánh này, từ liệu “sợ hãi” (# “lo sợ”) được sử dụng đến bốn lần. Đây sẽ là một chi tiết quan trọng giúp cho chúng ta có thể hiểu được sự dạy dỗ của Lời Đức Chúa Trời trong đoạn văn Kinh Thánh này. “Sự sợ hãi” được dùng ở đây là một từ liệu Hylạp (Gk. phobos) có nghĩa là “lo sợ”, “bị ám ảnh”. “Sự ám ảnh” được định nghĩa là “Một nỗi lo lắng dai dẳng, cao độ, và vô lý trên tâm trí của một người; chi phối trên nhiều phương diện của đời sống người ấy ở nhiều cấp độ khác nhau”. Sự lo sợ mà Lời Kinh Thánh nhắc đến ở đây nói về sự ám ảnh làm cho người ta phản ứng theo những cách thế khiến cho đời sống người ấy chuyển biến theo những phương hướng nguy hiểm. Sự lo sợ có thể kiềm tỏa cả đời sống của một người, có thể phá hỏng các mối quan hệ liên cá nhân của người ấy, thậm chí tác hại trên sức khỏe của tâm hồn và thân thể của họ nữa. Nỗi khổ mà sự lo sợ đem lại là sự đau đớn cả vật chất lẫn tinh thần. Sự lo sợ trong đời sống Cơ Đốc Nhân là hậu quả của việc dựa vào sức riêng thay vì phải nương cậy quyền năng Đức Chúa Trời. Người ta không thể thi hành mệnh lệnh yêu thương một cách trọn vẹn được chỉ vì người ta chưa thực sự sống bằng sự yêu thương của Đức Chúa Trời: “Chúng ta đã biết và tin Sự Yêu Thương của Đức Chúa Trời đối với chúng ta. Đức Chúa Trời tức là Sự Yêu Thương, ai ở trong Sự Yêu Thương, là ở trong Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời ở trong người ấy” (1Gi. 4:16). Nếu chúng ta biết nương cậy Đức Chúa Trời, và trung tín với Nguyên Tắc Yêu Thương của Ngài, chúng ta sẽ nhận ra được rằng chẳng có điều gì đáng cho chúng ta sợ hãi, tức là chẳng còn điều gì có thể ám ảnh chúng ta được. Chúng ta phải chịu bao nhiêu điều khó khăn chỉ vì chúng ta cứ loay hoay với các nan đề của cuộc sống bằng chính sức riêng và sự khôn ngoan riêng của mình. Dầu vậy, trong chúng ta không ai là không nhận ra được rằng việc sống thiếu nương cậy Đức Chúa Trời chỉ khiến cho chúng ta bị giam cầm trong sự lo sợ mà thôi. II. SỰ YÊU THƯƠNG VÀ SỰ LÀNH MẠNH CỦA TÂM HỒN… Sự dày vò, đau khổ… nhất là trên phương diện tinh thần, là sản phẩm của sự lo sợ; nhưng trái lại, sự yêu thương sẽ giúp gắn chặt Cơ Đốc Nhân với quyền năng của Đức Chúa Trời và đem lại cho họ sự lành mạnh trong tâm hồn. Xét về chiều sâu của tâm lý con người, khi “lo sợ” về một điều gì đó thì thường thường là vì người ta đã “biết mùi” điều mà họ đang lo sợ rồi. Trên phương diện thần kinh học, cảm giác “lo sợ” đến từ trạng thái bất an của tâm trí được khơi gợi bởi kinh nghiệm quá khứ. Về mặt căn bản, “sự lo sợ” không phải được trực tiếp tạo ra bởi cảnh giới chung quanh chúng ta mà là bởi tâm trí của chúng ta còn ngoại giới chỉ giữ vai trò của nhân tố kích thích, tác động mà thôi. “Sự lo sợ” là dấu hiệu của trạng thái bất ổn tinh thần, tức tình trạng tâm trí “có vấn đề”. Phần lớn chúng ta đều có thể dễ dàng nhận ra rằng nguyên nhân chính khiến cho chúng ta cứ bước đi khập khiễng giữa cuộc đời này là vì chúng ta đã từng phải chịu đau đớn bởi sự hoành hành của các thương tích tâm lý quá khứ. Tâm trí của chúng ta bất an, chúng ta bị ám ảnh, chúng ta sợ hãi. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời hứa cho Dân Ngài một tâm hồn lành mạnh, Ngài muốn Dân Ngài ở trong Sự Yêu Thương của Ngài, gắn chặt với quyền năng của Ngài. Đức Chúa Trời muốn Dân Ngài cứ bước đi một cách hiên ngang, sống đắc thắng giữa giòng đời, không sợ hãi, không rúng động: “Vì Đức Chúa Trời chẳng ban cho chúng ta tâm thần nhút nhát, bèn là tâm thần mạnh mẽ, có tình yêu thương và dè giữ” (2Ti. 1:7). III. SỰ YÊU THƯƠNG VÀ QUYỀN NĂNG ĐỨC CHÚA TRỜI… Câu hỏi mà Cơ Đốc Nhân phải đặt ra cho mình là “Phải làm thế nào để phục hồi cho chúng ta ‘tâm thần mạnh mẽ, có tình yêu thương và dè giữ’?”. Phận sự của mỗi người chúng ta là phải biết làm cách nào để lấy lại sự lành mạnh cho tấm lòng đã từng chịu nhiều thương tích tệ hại bởi sự công kích của các kẻ thù thuộc linh. Phận sự của chúng ta là phải tìm ra nguyên tắc Kinh Thánh cho vấn đề này. Chúng ta chỉ có thể bắt đầu thu hồi lại những gì mà Ma Quỉ đã cướp mất bằng việc nhận thức rõ về chân giá trị của chúng ta theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã không tạo dựng để chúng ta trở thành những nô lệ truyền kiếp, mà là để chúng ta trở nên những người nam, người nữ mạnh mẽ và dũng cảm nhờ quyền năng của Sự Yêu Thương của Ngài, làm khí cụ yêu thương cho Ngài. Tuy nhiên, thay vì dũng cảm và mạnh mẽ, chúng ta thường lo sợ đủ thứ mà lại không kính sợ chính Đức Chúa Trời. Thay vì sống đúng theo trật tự mà Đức Chúa Trời đẹp ý, chúng ta lại đảo ngược trật tự ấy, và phải chịu lấy hậu quả thảm thương. Để thoát khỏi “sự lo sợ”, điều căn bản là chúng ta phải “kính sợ” Đức Chúa Trời. Điểm nổi bật của sự kính sợ Đức Chúa Trời là một khi thực lòng kính sợ Ngài, người ta chẳng còn biết lo sợ gì khác cả (Oswald Chambers). Kinh Thánh phán: “Sự kính sợ Đức Giêhôva là khởi đầu sự tri thức…” (Châm. 1:7). “Sự kính sợ” Đức Giêhôva (Hb. yir’ah) hoàn toàn khác với “sự sợ hãi” (Hb. yare, Gk. phobos, “sự lo sợ”), đó là sự khác nhau giữa hành động tôn kính với hành động lo lắng. Sự kính sợ Đức Chúa Trời là một loại “sợ” được dầm thấm trong tình yêu thương và lòng nương cậy. Loại “lo sợ” mà người ta thường có là một loại “sợ” bị liên lỉ gặm nhấm bởi sự ám ảnh và lòng lo lắng. Chúng ta “lo sợ” vì chúng ta thiếu lòng “kính sợ”, thiếu sự kỳ vọng nơi tình yêu thương bất bại của Đức Chúa Trời (1Cô. 13:8). Khi không có niềm kỳ vọng nơi tình yêu thương của Đức Chúa Trời, người ta chưa có sự kết nối với Ngài cho nên họ thiếu Ngài; vì vậy, họ thiếu tình yêu thương của Ngài, thiếu quyền năng của tình yêu thương của Ngài, và thiếu năng lực để sống phản ánh tình yêu thương của Ngài; mặc nhiên người ta trở thành nô lệ của “sự lo sợ”. Giữa vòng chúng ta, có nhiều người không thật sự kính sợ Đức Chúa Trời, dầu rằng tất cả chúng ta đều thờ phượng Đức Chúa Trời. Satan đặt trong lòng chúng ta sự lừa dối lâu đời của nó rằng Đức Chúa Trời xem thường chúng ta, Ngài không màng đến chúng ta. Với một sự nhận thức như thế, chúng ta thiếu kém về lòng trông cậy nơi Đức Chúa Trời, rơi vào trạng thái lo sợ, và hậu quả là chúng ta cứ đi lòng vòng trong cuộc đời để tìm đường tự cứu. Thế nhưng, càng loay hoay, càng tự xoay xở, chúng ta càng nhận ra được rằng mình là nhỏ bé và bất năng. Cảm thức nhỏ bé và bất năng là một con dao hai lưỡi đối với mỗi người: Nó có thể dẫn chúng ta đến những sự lo sợ mới nguy hại hơn, nhưng đồng thời nó cũng có thể thức tỉnh để chúng ta quay lại với sự kính sợ Đức Chúa Trời và rồi mọi sự sẽ được giải quyết: “7Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em. 8Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; 9hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:7-10). IV. SỰ YÊU THƯƠNG THỰC HÀNH… Trong Tiếng Hylạp, “sự yêu thương”, “tình yêu thương”, hay “yêu thương” có các ý nghĩa và mức độ khác nhau. Tuy nhiên, ý nghĩa của Sự Yêu Thương Cơ Đốc được trực tiếp rút ra từ sự khải thị của Đức Chúa Trời trong và qua Chúa Cứu Thế Jêsus. Dầu rằng rất mãnh liệt, nhưng Sự Yêu Thương Cơ Đốc không phải là một dạng cảm xúc thiên nhiên của con người, mà là bông trái của Đức Thánh Linh trong đời sống của người tin (Gal. 5:22-23). Sự Yêu Thương Cơ Đốc là một thực tại của ý chí chứ không phải là của xúc cảm, vì Cơ Đốc Nhân phải yêu cả những người mình không thích nữa (Ma. 5:44, 48). Sự Yêu Thương Cơ Đốc không thể bị “sự lo sợ” chi phối, Sự Yêu Thương Cơ Đốc được thể hiện nhờ sự gắn kết với quyền năng của Đức Chúa Trời để yêu như chính Ngài đã yêu trong và qua Đức Chúa Jêsus: “Nầy vì sao mà Sự Yêu Thương được trọn vẹn trong chúng ta, hầu cho chúng ta được lòng mạnh bạo trong ngày xét đoán, ấy là Chúa thể nào thì chúng ta cũng thể ấy trong thế gian này” (1Gi. 4:17). Trên phương diện Sự Yêu Thương, “Chúa thế nào thì chúng ta cũng thế ấy trong thế gian nầy” là thế nào? Chúng ta không thể điểm hết các đặc tính của Sự Yêu Thương của Đức Chúa Trời đối với chúng ta được nhưng chúng ta có thể nhận thức được một số phương diện cho đời sống yêu thương thực hành của mình: Trước hết, Sự Yêu Thương của Ngài là một sự yêu thương chung thủy: “… Ngài đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian rồi, thì cứ yêu cho đến cuối cùng” (Gi. 13:1). Ở đây, từ liệu “cuối cùng” (Gk. telos) hàm ý về một sự hoàn thành trọn vẹn các mục đích đã định chứ không phải chỉ nói đến yếu tố thời gian. Hễ những ai đã thuộc về Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ, đã ở trong sự giao ước của Ngài, Ngài sẽ nuôi giữ họ trong chương trình tốt đẹp của Sự Yêu Thương vốn có theo thuộc tính của Ngài. Đức Chúa Jêsus đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu chung thủy, và Lời Kinh Thánh dạy rằng “Chúa thế nào thì chúng ta cũng thế ấy trong thế gian nầy” cho nên chúng ta cũng phải yêu thương nhau một cách chung thủy như Ngài đã yêu chúng ta. Tình yêu thương chỉ chung thủy nếu nó hướng đích và được duy trì trong sự kết ước, vì chung thủy trong sự yêu thương đồng nghĩa với sự yêu thương trọn vẹn. Một phương diện khác trong Sự Yêu Thương của Đức Chúa Jêsus mà chúng ta cần ghi nhận cho đời sống yêu thương thực hành của chúng ta là Ngài đã yêu chúng ta bằng một tình yêu hy sinh: “… Đấng Christ đã yêu Hội Thánh, phó chính mình vì Hội Thánh…” (Êph. 5:25). Người ta có thể cho mà không yêu gì hết, nhưng không thể nào người ta yêu mà lại chẳng cho gì cả. Chính vì thế, tình yêu thương luôn đòi hỏi đức hy sinh, vì tình yêu thương thật không chỉ có nghĩa là cảm xúc. Cái được gọi là “tình yêu thương” nhưng chỉ dừng lại trong giới hạn của sự xúc cảm là cái mà người ta cần phải tra xét lại vì sự xúc cảm chính là dấu hiệu cơ bản của nhu cầu chứ không phải là của tình yêu thương! Sự Yêu Thương Cơ Đốc (Gk. agape) theo gương Đức Chúa Jêsus như Ngài đã thể hiện là tình yêu theo sự chọn lựa của ý chí, bằng sự hạ mình và hy sinh bản thân chứ không phải chỉ là tiếng nói vội vàng và nông cạn của xúc cảm của con người thiên nhiên. Khi nào mà người ta vẫn còn “cần nhau” chứ chưa phải là “yêu” (Gk. agapao), “sự lo sợ” vẫn còn là một hung thần có khả năng hoành hành tùy tiện. “Sự lo sợ” là một loại axít mạnh có khả năng phá hỏng mọi chất liệu của Sự Yêu Thương Cơ Đốc. Khi nào người ta tự nhận là “yêu” mà vẫn còn “lo sợ” thì “sự lo sợ” cứ còn là cái bóng đen của thảm họa khiến cho họ không sao có khả năng làm cho “sự yêu thương được nên trọn vẹn” để rồi họ có thể có được “lòng mạnh bạo trong ngày xét đoán” (1Gi. 4:17). Sống đời sống yêu thương không phải chỉ là một điều để chọn lựa mà là phận sự tất yếu của Cơ Đốc Nhân (1Gi. 4:21). Sự Yêu Thương đích thực không có mặt của “sự lo sợ” (1Cô. 13:4-7) và nó là bất bại (1Cô. 13:8). Vấn đề cần được lưu ý là để thủ đắc được một Sự Yêu Thương như thế, nhất thiết người ta phải được kết nối với chính Đức Chúa Trời (1Gi. 4:16). Để có thể “yêu” mà không hề “lo sợ” người ta phải đến với Đức Chúa Trời, nương cậy Ngài bằng việc sống thực hành các nguyên tắc Kinh Thánh. Khi nào người ta biết kính sợ Đức Chúa Trời, Sự Yêu Thương của Ngài sẽ chan hòa trên đời sống của họ, và mọi điều lo sợ sẽ được xóa tan, đẩy lùi để chỉ còn lại sự yêu thương trọn vẹn mà thôi. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“ĐỂ CÓ THỂ SỐNG CHÂN TÌNH” (1Gi. 4:7-12) “Hỡi kẻ rất yêu dấu, nếu Đức Chúa Trời đã yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải yêu nhau.” (1Gi. 4:11) Mệnh lệnh Kinh Thánh về đời sống Cơ Đốc thực hành thật rõ ràng: “Hễ sự gì anh em đã học, đã nhận, đã nghe ở nơi tôi, và đã thấy trong tôi, hãy làm đi, thì Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ ở cùng anh em.” (Phil. 4:9) Dầu vậy, thực tế là chúng ta vẫn cứ còn sống theo thói quen của con người cũ, còn những gì thuộc về con người mới chỉ có trong sự hiểu biết, sự nhận thức mà thôi. Làm thế nào để có thể biến các hiểu biết Cơ Đốc thành thói quen thực hành, nhất là sống đời sống chân tình một cách thường trực theo sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời? I. TÌNH YÊU THƯƠNG PHẢI CÓ THỰC Tình yêu của Đức Chúa Trời là điều thực sự có trong Ngài, Kinh Thánh cho biết Ngài là tình yêu thương: “7Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau; vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời. 8Ai chẳng yêu, thì không biết Đức Chúa Trời; vì Đức Chúa Trời là sự yêu thương.” (1Gi. 4:7-8) Tình yêu thương là thuộc tính của Đức Chúa Trời, vì thế, tình yêu thương của Đức Chúa Trời là động cơ của Ngài trong mọi sự và vì vậy mà gắn bó thành một thể thống nhất trong ý chỉ của Ngài: “Hỡi Đức Giêhôva, đất được đầy dẫy sự nhân từ Ngài;_Xin hãy dạy tôi các luật lệ Ngài.” (Thi. 119:64) Tình yêu thương của Đức Chúa Trời là một qui luật phổ quát mang tính hoàn vũ (“đất được đầy dẫy sự nhân từ Ngài”, Hb. checed). Cả vũ trụ hiện hữu và tồn tại nhờ tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Tất cả mọi người đều là đối tượng của tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời, tất cả mọi người đều quan trọng; tất cả mọi người, trong mọi hoàn cảnh, đều phải được yêu thương. Triết học và các tôn giáo của đời này có thể dạy ngược lại, nhưng sự bày tỏ của Kinh Thánh là Đức Chúa Trời yêu thương tất cả mọi người, mỗi người đều được Đức Chúa Trời trân trọng: “6Người ta há chẳng bán năm con chim sẻ giá hai đồng tiền sao? Nhưng Đức Chúa Trời không quên một con nào hết. 7Dầu đến tóc trên đầu các ngươi cũng đã đếm cả rồi. Đừng sợ chi, vì các ngươi trọng hơn nhiều chim sẻ.” (Lu. 12:6-7) Đối với các Cơ Đốc Nhân, tình yêu thương của Đức Chúa Trời thực sự sâu đậm và rõ nét. Tính sâu đậm của tình yêu thương của Đức Chúa Trời đối với Cơ Đốc Nhân không phải do sự thiên vị, vì Đức Chúa Trời không thiên vị. Tính sâu đậm của tình yêu thương của Đức Chúa Trời mà Cơ Đốc Nhân có được là do Cơ Đốc Nhân là người chịu thiết lập mối quan hệ thân mật với Ngài, họ chấp nhận Ngài nhiều hơn nên họ có được Ngài được nhiều hơn, họ thuận phục dưới sự dắt dẫn của Ngài: “14Ta là người chăn chiên hiền lành, Ta quen chiên Ta, và chiên Ta quen Ta, 15cũng như Cha biết Ta, và Ta biết Cha vậy; Ta vì chiên Ta phó sự sống mình.” (Gi. 10:14-15) Đức Chúa Trời “là sự yêu thương”, do đó, ý muốn (“luật lệ”) của Ngài là ý muốn yêu thương. Tình yêu thương của Đức Chúa Trời phải hiện diện trong tất cả những gì còn thực sự được ở trong Ngài. Chúng ta tự nhận rằng mình là Cơ Đốc Nhân, là người đã được cứu nhờ tình yêu thương của Đức Chúa Trời và được cứu vào trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời, chúng ta cũng phải thực sự có tình yêu thương của Ngài; đó là lý do vì sao Kinh Thánh phán rằng “kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời”. II. TÌNH YÊU THƯƠNG PHẢI SỐNG ĐỘNG Phương diện thứ hai của tình yêu thương của Đức Chúa Trời là tình yêu thương của Ngài có quyền năng hành động. Tình yêu thương của Đức Chúa Trời luôn luôn sống và động… “Hỡi Đức Giêhôva, sự nhân từ Ngài ở trên các từng trời;_Sự thành tín Ngài đến tận các mây.” (Thi. 36:5) Chúng ta được bảo tồn nhờ tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Ngài đã tạo dựng nên chúng ta và Ngài hằng cưu mang chúng ta… “3Hỡi nhà Giacốp, và hết thảy các ngươi là Dân Sót của nhà Ysơraên, hãy nghe Ta, Ta đã gánh vác các ngươi từ lúc mới sanh, bồng ẵm các ngươi từ trong lòng mẹ. 4Cho đến chừng các ngươi già cả, đầu râu tóc bạc, Ta cũng sẽ bồng ẵm các ngươi. Ta đã làm ra, thì sẽ còn gánh vác các ngươi nữa. Ta sẽ bồng ẵm và giải cứu các ngươi.” (Ês. 46:3-4) Ngài đã làm tất cả để cho chúng ta được an toàn… “Ta đã dùng dây nhân tình, dùng xích yêu thương kéo chúng nó đến. Ta đã như những kẻ cởi ách khỏi hàm chúng nó, và để đồ ăn trước mặt chúng nó.” (Ô. 11:4) Tình yêu thương của Đức Chúa Trời đối với chúng ta thường được Kinh Thánh diễn đạt như tình mẫu tử: “Đàn bà há dễ quên con mình cho bú, không thương đến con trai ruột mình sao? Dầu đàn bà quên con mình, Ta cũng chẳng quên ngươi.” (Ês. 49:15) Đức Chúa Trời đã đi bước trước trong việc cứu chuộc chúng ta thể theo tình yêu thương của Ngài: “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” (Rô. 5:8) Chính vì tất cả những điều kể trên mà tình yêu thương của Đức Chúa Trời đã thể hiện ra theo một cách thế không có gì so sánh được: “9Lòng Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta đã bày tỏ ra trong điều nầy: Đức Chúa Trời đã sai Con Một Ngài đến thế gian, đặng chúng ta nhờ Con được sống. 10Nầy, sự yêu thương ở tại đây: Ấy chẳng phải chúng ta đã yêu Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã yêu chúng ta, và sai Con Ngài làm của lễ chuộc tội chúng ta.” (1Gi. 4:9-10) Còn chúng ta thì sao? Điều gì đang “sống động” trong con người chúng ta? Phải chăng đó là tình yêu thương có thực theo mẫu mực của Đức Chúa Trời hay một điều gì khác chưa đẹp ý Ngài? “9Lòng yêu thương phải cho thành thật. Hãy gớm sự dữ mà mến sự lành. 10Hãy lấy lòng yêu thương mềm mại mà yêu nhau như anh em; hãy lấy lẽ kính nhường nhau.” (Rô. 12:9-10) III. TÌNH YÊU THƯƠNG PHẢI THƯỜNG TRỰC Giả bộ yêu thương không bao giờ là tình yêu thương, mà đó là tội lỗi. Cố gắng yêu thương cũng chưa phải là tình yêu thương, vì sự thành tâm chưa trọn vẹn để làm nên tình yêu thương thật (“chân tình”). Chỉ có hết lòng yêu thương mới thực sự là tình yêu thương, vì chỉ có như thế thì ý chí, lý trí, và tình cảm mới hiệp nhau làm thành hành động yêu thương: “Hỡi các con cái bé mọn, chớ yêu mến bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật.” (1Gi. 3:18) Nếu thật là tình yêu thương thì sự thành thật sẽ cặp theo, và người xưa gọi đó là “sự chân tình”. Chân tình là biểu hiện thống nhất của tình yêu thương và sự hết lòng. Sự hết lòng, tức sự thành tâm, luôn luôn là thuốc thử của tình yêu thương. Nhờ sự thành tâm mà tình yêu thương mới có thể phát triển và biểu hiện qua hành động yêu thương. Vì vậy, tình yêu thương thật luôn luôn được nhận dạng qua sự phục vụ: “Hỡi anh em, anh em đã được kêu gọi đến sự tự do, song chớ lấy sự tự do đó làm dịp cho anh em ăn ở theo tánh xác thịt, nhưng hãy lấy lòng yêu thương làm đầy tớ lẫn nhau.” (Gal. 5:13) Biểu hiện tập trung của chân tình là ý thức phục vụ thường trực do tình yêu thương thúc giục. Chúng ta không thể yêu thương “nửa vời” hay “theo mùa” được vì Đức Chúa Jêsus “đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian, thì cứ yêu cho đến cuối cùng” (Gi. 13:1b). Sự gắn bó làm một giữa tình yêu thương thật với ý thức phục vụ thường trực được minh họa một cách sống động qua việc Đức Chúa Jêsus rửa chân cho các môn đồ của mình, và Ngài muốn chúng ta phải sống trong ý thức phục vụ nhau một cách thường trực theo tiếng gọi của tình yêu thương: “14Vậy, nếu Ta là Chúa là Thầy, mà đã rửa chân cho các ngươi thì các ngươi cũng nên rửa chân lẫn cho nhau. 15Vì Ta đã làm gương cho các ngươi, để các ngươi cũng làm như Ta đã làm cho các ngươi.” (Gi. 13:14-15) Ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống của chúng ta là rõ ràng: Ngài muốn chúng ta có một tình yêu thương thường xuyên, một tấm lòng phục vụ thường xuyên như Ngài hằng thường xuyên về mọi sự đối với chúng ta: “11Hỡi kẻ rất yêu dấu, nếu Đức Chúa Trời đã yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải yêu nhau. 12Chưa hề có ai thấy Đức Chúa Trời; nếu chúng ta yêu nhau, thì Đức Chúa Trời ở trong chúng ta, và sự yêu mến Ngài được trọn vẹn trong chúng ta.” (1Gi. 4:11-12) Sự chân tình (tình yêu thương chân thật) là một tổ hợp thống nhất giữa ý chí, lý trí, và tình cảm. Để có được sự chân tình, và sống chân tình thường trực, cần phải có sự can thiệp thường xuyên của ý chí và lý trí, vì “chúng ta cũng phải yêu nhau” là mệnh lệnh Kinh Thánh, không phải là sự tùy chọn. Tình cảm yêu thương không phải là một điều có khả năng tự sinh tồn, vì khả năng ấy vốn không có trong con người tự nhiên của chúng ta mà là “đến từ Đức Chúa Trời”, do đó cần được ý chí và lý trí gìn giữ. Mặt khác, tự nhận mình là Cơ Đốc Nhân, chúng ta có phận sự thể hiện Đức Chúa Trời bằng và qua đời sống của mình, Đức Chúa Trời phải “ở trong chúng ta”. Chúng ta cũng còn có phận sự yêu mến Đức Chúa Trời nữa, và đời sống chân tình sẽ giúp cho “sự yêu mến Ngài được trọn vẹn trong chúng ta” vì tình yêu thương sẽ đem lại cho chúng ta tình yêu thương cũng như sẽ đưa chúng ta đến với tình yêu thương. Đời sống chân tình thường trực có dấu hiệu chỉ định của riêng nó: “4Tình yêu thương hay nhịn nhục, tình yêu thương hay nhân từ, tình yêu thương chẳng ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo, 5chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ, 6chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật. 7Tình yêu thương hay dung thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, nín chịu mọi sự.” (1Cô. 13:4-7) Kinh Thánh phán cho chúng ta biết rằng chỉ khi nào chúng ta sống đầu phục Đức Thánh Linh hoàn toàn thì chúng ta mới có thể sống chân tình thường trực được, vì tình yêu thương là “trái của Thánh Linh”: “Nhưng trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ.” (Gal. 5:22-23) Sống chân tình một cách thường trực là sống trong thuộc tính yêu thương của Đức Chúa Trời, đặt mình dưới sự dắt dẫn của Ngài để được Ngài chuyển giao thuộc tính ấy cho chúng ta. Sống chân tình là duy trì một trạng thái quân bình giữa ý chí, lý trí, và tình cảm để giữ cho tình cảm được sống và động đúng hướng trong con người mới của chúng ta (2Cô. 5:17). Sống chân tình đồng nghĩa với việc sống đầu phục Đức Thánh Linh trong mọi sự; biết nghe thấy và vâng theo tiếng phán của Ngài trong mọi sự, mọi lúc. Sống chân tình là biết chiến đấu và chiến thắng con người cũ của mình một cách hợp Kinh Thánh (Gal. 5:16-18). Sống chân tình là thường trực là thực hành chứ không chịu dừng lại trên cảm xúc và sự hiểu biết; đó là bước phát triển từ lời nói sang việc làm trong đời sống: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, nếu Đức Chúa Trời đã yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải yêu nhau.” (1Gi. 4:11) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |