“ĐỂ CÓ THỂ CHĂN BẦY CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI” (Gi. 21:15-17) “Hãy chăn bầy của Đức Chúa Trời đã giao phó cho anh em; làm việc đó chẳng phải bởi ép tình, bèn là bởi vui lòng, chẳng phải vì lợi dơ bẩn, bèn là hết lòng mà làm.” (1Phi. 5:2) Vốn đã kinh nghiệm được ơn cứu rỗi cao sâu của Đức Chúa Jêsus; được thoát khỏi nợ tội, án tội, và ách tội; được bình an, thư thái trong đời sống mới;… các Cơ Đốc Nhân thường có một cảm thức mạnh mẽ rằng phải luôn luôn sống đẹp ý Đức Chúa Trời; phải dốc sức đáp đền ơn cứu chuộc của Ngài; phải có nghĩa vụ chăm sóc, dắt dẫn, gây dựng cho bầy chiên của Ngài trong Hội Thánh;… Dầu vậy, trong thực tiễn sinh hoạt của Hội Thánh, không ít người đã thất bại. Sự thất bại không những có đối với các thành viên bình thường của Hội Thánh mà cũng còn có cả giữa vòng các cấp lãnh đạo của Hội Thánh, kể cả những người vốn đã nhận được ơn kêu gọi để chăn bầy chiên của Đức Chúa Trời, được biệt riêng ra cho Tin Lành cứu rỗi của Đức Chúa Jêsus Christ. Chẳng những thế, sự thất bại lại còn thường lặp đi, lặp lại khiến cho sự tăng trưởng của các thành viên trong Hội Thánh gặp khó khăn vì bầu không khí thuộc linh của Hội Thánh không được ổn định, môi trường chức vụ trong Hội Thánh không được thuận lợi, và cơ cấu tổ chức của Hội Thánh trở nên trì trệ, thiếu hiệu quả. Để có thể chăn bầy cho Đức Chúa Trời và gây dựng lẫn nhau, người ta cần phải có những điều gì trong con người của mình? Phải chăng đời sống thuộc linh thịnh vượng của Hội Thánh được bắt đầu từ chính mỗi cá nhân khi họ có được một sự đáp ứng, một động lực, một đối tượng, với một tính chất đúng theo sự đòi hỏi của chính Đức Chúa Jêsus? Chúng ta có thể học biết được ý muốn của Đức Chúa Trời trên vấn đề này qua những gì Đức Chúa Jêsus đã phán với Sứ Đồ Phierơ sau khi ông đã thất bại trong việc kết ước với Ngài. I. CHÍNH MỖI CÁ NHÂN PHẢI ĐÁP ỨNG Tôn giáo đích thực phải là một cuộc tái hiệp phước hạnh, qua và trong Đức Chúa Jêsus, giữa mỗi cá nhân với Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo Và Tể Trị. Ai có được sự đáp ứng cá nhân đối với sự kêu gọi của Đức Chúa Trời sẽ nhận được phước hạnh; ngoài ra, không còn có cách nào khác: “11Ngài đã đến trong xứ mình, song dân mình chẳng hề nhận lấy. 12Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài, 13là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời vậy.” (Gi. 1:11-13) Đó chính là mối hạnh ngộ trong Tình Yêu Thương Cơ Đốc mà mỗi người đã được cứu dành cho Đấng Cứu Chuộc của mình. Đó là một phận sự cá nhân; vì vậy, sự đòi hỏi của Chúa cũng rất cá nhân: “NGƯƠI yêu Ta hơn những kẻ nầy chăng?” (C. 15, 16, 17) Tình yêu dành cho Đức Chúa Jêsus không phải chỉ được nhận biết trong lịch sử, mà phải là một tình yêu được mỗi cá nhân thể nghiệm: “Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ.” (Phil. 3:8) Khi nói về tình yêu dành cho Chúa, đó phải là tình yêu thật sự xuất phát từ tấm lòng của mỗi người tin theo Đức Chúa Jêsus chứ không phải chỉ là nói về tình yêu của người khác, mô tả về tình yêu của người khác đối với Ngài: “Vì Đấng Christ là sự sống của tôi, và sự chết là điều ích lợi cho tôi vậy.” (Phil. 1:21) Tình yêu đối với Đức Chúa Jêsus là ngọn lửa của tấm lòng, là sự bừng sáng của tình cảm, là sự nhiệt thành của linh hồn, là sự tận hiến nồng nàn của xúc cảm cá nhân. Trong thực tiễn Cơ Đốc Giáo, có quá nhiều sự vay mượn và tái chế kinh nghiệm tôn giáo. Đức Chúa Jêsus đòi hỏi tình yêu thực nghiệm chân thực của mỗi đời sống theo Ngài: “NGƯƠI yêu Ta hơn những kẻ nầy chăng?”. II. PHẢI LẤY TÌNH YÊU THƯƠNG LÀM ĐỘNG LỰC Động cơ của sự hầu việc Chúa phải luôn luôn là “Tình Yêu Thương Cơ Đốc”: “Hãy chăn bầy của Đức Chúa Trời đã giao phó cho anh em; làm việc đó chẳng phải bởi ép tình, bèn là bởi vui lòng, chẳng phải vì lợi dơ bẩn, bèn là hết lòng mà làm.” (1Phi. 5:2) Người hầu việc Chúa cần phải có một số điều kiện nhất định, nhưng điều kiện quyết định chính là Tình Yêu Thương Cơ Đốc. Đức Chúa Jêsus đã hỏi Phierơ đến ba lần: “Ngươi YÊU Ta hơn những kẻ nầy chăng?” (C. 15, 16, 17) Tình yêu thương có các phẩm chất khác nhau. Từ tình yêu thương giữa con người đối với con người cho đến tình yêu thương thuộc linh và mang tính chất Thiên Thượng của Đức Chúa Trời đối với linh hồn con người: (1) “Phileo”: Nói về tình yêu thương với sự quan tâm theo cảm xúc. (2) “Stego”: Nói về tình yêu thương với tính chất che chở, nâng đỡ. (3) “Agape”: Nói về tình yêu theo sự chọn lựa của ý chí, bằng sự hạ mình và hy sinh bản thân. Tình yêu thương mà Đức Chúa Jêsus muốn Cơ Đốc Nhân phải có là Tình Yêu Thương Cơ Đốc. Theo J. I. Packer, “Ý nghĩa của Tình Yêu Thương Cơ Đốc được trực tiếp rút ra từ sự khải thị của Đức Chúa Trời trong và qua Chúa Cứu Thế Jêsus. Dầu rằng rất mãnh liệt, nhưng Tình Yêu Thương Cơ Đốc không phải chỉ là cảm xúc thiên nhiên của con người, mà là bông trái của Đức Thánh Linh trong đời sống của người tin: “Trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ.” (Gal. 5:22-23) Tình Yêu Thương mà Đức Chúa Jêsus đòi hỏi là một thực tại của ý chí chứ không phải chỉ thuần túy là của xúc cảm, vì Cơ Đốc Nhân phải yêu cả những người mình không thích. Tình Yêu Thương Cơ Đốc đến từ Đức Chúa Trời và giúp cho chúng ta trở nên hoàn hảo. Tình Yêu Thương Cơ Đốc là yếu tố căn bản để trở nên giống với Đức Chúa Trời qua Chúa Cứu Thế Jêsus: “Hãy yêu kẻ thù nghịch và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi… Các ngươi hãy nên trọn vẹn như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn.” (Ma. 5:44, 48) Tình Yêu Thương Cơ Đốc là yếu tố không thể thiếu trong những ai đã được tái sanh nhờ ơn cứu rỗi: “8Ai chẳng yêu, thì không biết Đức Chúa Trời; vì Đức Chúa Trời là sự yêu thương. 9Lòng Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta đã bày tỏ ra trong điều nầy: Đức Chúa Trời đã sai Con Một Ngài đến thế gian, đặng chúng ta nhờ Con được sống. 10Nầy, sự yêu thương ở tại đây: Ấy chẳng phải chúng ta đã yêu Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã yêu chúng ta, và sai Con Ngài làm của lễ chuộc tội chúng ta. 11Hỡi kẻ rất yêu dấu, nếu Đức Chúa Trời đã yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải yêu nhau.” (1Gi. 4:8-11) Một khi đã kinh nghiệm được ơn yêu thương của Đức Chúa Trời, người ta phải được thôi thúc chia sẻ tình yêu ấy cho nhiều người khác. Tình Yêu Thương Cơ Đốc vừa là động cơ, vừa là chất liệu để hầu việc Đức Chúa Trời: “19Chúng ta yêu, vì Chúa đã yêu chúng ta trước. 20Ví có ai nói rằng: Ta yêu Đức Chúa Trời, mà lại ghét anh em mình, thì là kẻ nói dối; vì kẻ nào chẳng yêu anh em mình thấy, thì không thể yêu Đức Chúa Trời mình chẳng thấy được. 21Chúng ta đã nhận lãnh nơi Ngài điều răn nầy: Ai yêu Đức Chúa Trời, thì cũng phải yêu anh em mình.” (1Gi. 4:19) Người ta không thể nào chăn bầy thành công mà không yêu Chúa. Đó chính là lý do để Đức Chúa Jêsus cật vấn Phierơ đến ba lần “Ngươi YÊU Ta hơn những kẻ nầy chăng?”. III. PHẢI HƯỚNG VỀ ĐỐI TƯỢNG TỐI CAO LÀ CHÚA Đối tượng trước tiên của Tình Yêu Thương Cơ Đốc phải là Đức Chúa Jêsus; Ngài hỏi Phierơ: “Ngươi yêu TA hơn những kẻ nầy chăng?” (C. 15, 16, 17) Đức Chúa Jêsus đáng cho Cơ Đốc Nhân tôn trọng, tận hiến, và gắn kết vì tình yêu thương mà Ngài đã dành cho họ: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” (Gi. 3:16) “6Thật vậy, khi chúng ta còn yếu đuối, Đấng Christ đã theo kỳ hẹn chịu chết vì kẻ có tội. 7Vả, họa mới có kẻ chết vì người nghĩa; dễ thường cũng có kẻ bằng lòng chết vì người lành. 8Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” (Rô. 5:6-8) Đối với Cơ Đốc Nhân chân chính, chỉ có Đức Chúa Jêsus là đối tượng duy nhất và tối cao của đời sống họ: “Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, và nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy nên chúng ta hoặc sống hoặc chết, đều thuộc về Chúa cả.” (Rô. 14:8) Thân Vị và tính cách cao trọng của Đức Chúa Jêsus đòi hỏi phải dành cho Ngài một sự tận hiến cao cả nhất của tấm lòng và tâm trí: “Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức mà kính mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.” (Mác 12:30) Yêu Chúa là điều kiện tiên quyết để có thể yêu tha nhân, điều ấy được thể hiện rõ qua lời phán của Đức Chúa Jêsus: “Nầy là điều thứ hai: Ngươi phải yêu kẻ lân cận như mình. Chẳng có điều răn nào lớn hơn hai điều đó.” (Mác 12:31) Yêu Chúa và yêu tha nhân là hai mặt của cùng một vấn đề chăn bầy cho Đức Chúa Trời; trong đó, việc “Kính mến Chúa” sẽ quyết định việc “Yêu kẻ lân cận”. Vì vậy, chúng ta biết vì sao Đức Chúa Jêsus đã hỏi Phierơ “Ngươi yêu TA hơn những kẻ nầy chăng?” đến ba lần! IV. PHẢI CÓ TÍNH CHẤT VƯỢT TRỘI HƠN TẤT CẢ Mức độ của Tình Yêu Thương Cơ Đốc phải là “hơn tất cả”: “Ngươi yêu Ta HƠN những kẻ nầy chăng?” (C. 15, 16, 17) Đối với những người thực sự tin theo Chúa, Đức Chúa Jêsus phải chiếm vị trí tối cao trong tấm lòng: “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng cho Ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn Ta thì cũng không đáng cho Ta.” (Ma. 10:37) Trong tấm lòng của một Cơ Đốc Nhân chân chính, không thể có bất cứ ai hay điều gì có thể tranh chấp vị trí độc tôn của Đức Chúa Trời. Tình yêu đối với Đức Chúa Trời phải vượt trội hơn tất cả: “Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi.” (Ma. 22:37) Chúng ta cũng không ngạc nhiên vì sao Đức Chúa Jêsus lại hỏi Phierơ đến ba lần bằng cùng một câu hỏi. Ấy vì chính Phierơ là người đã từng ý thức được tính chất này và đã từng mạnh mẽ bày tỏ sự tận hiến của mình đối với Chúa trong mối tương quan so sánh với các môn đồ khác: “Dầu mọi người vấp phạm vì cớ Thầy, song tôi chắc không bao giờ bị vấp phạm vậy.” (Ma. 26:33) Để có thể chăn bầy cho Đức Chúa Trời, người ta phải “Kính mến Chúa” hơn bất cứ điều gì khác trong thế gian này. Mặt khác, nếu đã biết yêu Chúa hơn bất cứ điều gì khác mà lại còn biết mong muốn yêu Ngài hơn bất cứ người nào khác yêu Ngài thì càng xứng hiệp hơn đối với chức vụ. Như vậy, việc yêu Chúa hơn là người khác yêu Ngài bày tỏ được ý chí muốn yêu Ngài hơn tất cả: Tất cả mọi sự và tất cả mọi người. Sự đòi hỏi ấy chẳng những dành cho Phierơ mà còn là yêu cầu tất nhiên đối với chúng ta trong Hội Thánh ngày nay! Tình Yêu Thương Cơ Đốc chân thực không thể sao chép được và không có gì thay thế được: “1Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và Thiên Sứ, nếu không có tình yêu thương, thì tôi chỉ như đồng kêu lên hay là chập chỏa vang tiếng. 2Dầu tôi được ơn nói tiên tri, cùng biết đủ các sự mầu nhiệm và mọi sự hay biết; dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được, nhưng không có tình yêu thương, thì tôi chẳng ra gì. 3Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi.” (1Cô. 13:1-3) Để có thể chăn bầy cho Đức Chúa Trời, chúng ta phải có sự đáp ứng cá nhân đối với sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời. Đòi hỏi tối cao mà Ngài đưa ra là chúng ta phải có Tình Yêu Thương Cơ Đốc: Yêu Ngài để có thể yêu người. Đó là bông trái Thánh Linh của đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh nhờ biết dâng mình cho sự dắt dẫn của Ngài. Đối tượng trước tiên và tối cao của Tình Yêu Thương Cơ Đốc là chính Đức Chúa Jêsus. Tính chất của Tình Yêu Thương Cơ Đốc là phải vượt lên trên tất cả: Trên tất cả mọi sự và hơn tất cả mọi người. Nhiên hậu, người ta mới có thể dùng chính tình yêu thương của Đức Chúa Trời mà yêu bầy chiên Ngài đã ủy thác cho mình. Ngoại giả, nguy cơ “kinh doanh trong chức phận chăn bầy” vẫn còn có thể xảy ra! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐỂ CÓ ĐƯỢC NƯỚC THIÊN ĐÀNG” (Ma. 5:1-3) “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì Nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy.” (Ma. 5:3) Đối với một con người thiên nhiên, “Bài Giảng Trên Núi” của Đức Chúa Jêsus dễ khiến họ cảm thấy bối rối. Hễ khi nào chúng ta còn cậy mình, Đức Chúa Trời vẫn còn để cho sự yếu đuối của chúng ta phô bày ra. Chỉ khi nào chúng ta, bởi ơn của Đức Chúa Trời, biết đến với Ngài y theo thân phận cùng khốn của mình và xin tiếp nhận Ân Điển của Ngài, chúng ta mới được Ngài ban phước cho: “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì Nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy.” (Ma. 5:3). A. “NƯỚC THIÊN ĐÀNG” “Nước” hay “Vương Quốc” thường có ba ý nghĩa chính: (1) Sự trị vì của một vị quốc vương; (2) Dân Sự và lãnh địa thuộc về một vị quốc vương; (3) Sự thụ hưởng cá nhân dưới chế độ của một quốc vương. “Nước Thiên Đàng” hay “Vương Quốc Đức Chúa Trời” (basileia tou theou) được đề cập trong Kinh Thánh là một khái niệm diễn đạt bằng Tiếng Hêbơrơ hay Hylạp có đầy đủ cả ba ý nghĩa kể trên, nhất là trong Kinh Thánh Tân Ước. I. “Nước Thiên Đàng” Nói Về Sự Trị Vì Của Đức Chúa Trời. Sự đề cập sớm nhất trong Kinh Thánh về “Nước Thiên Đàng” được tìm thấy trong Sách Đaniên: “Trong đời các vua nầy, Chúa trên trời sẽ dựng nên một nước không bao giờ bị hủy diệt, quyền nước ấy không bao giờ để cho một dân tộc khác; song nó sẽ đánh tan và hủy diệt hết các nước trước kia, mà mình thì đứng đời đời” (Đa. 2:44). Tuy nhiên, “Nước Thiên Đàng” không phải chỉ thuần túy là sự điều hành trừu tượng. “Nước Thiên Đàng” là sự trị vì của Đức Chúa Trời một cách đầy quyền năng để phá diệt mọi điều ác và cứu chuộc tội nhân. Đức Chúa Jêsus nhất định sẽ trị vì như là Quốc Vương của Nước Thiên Đàng sau khi Ngài đã diệt trừ xong các kẻ thù của mình, trong đó kẻ thù cuối cùng là sự chết, sau đó Ngài sẽ dâng Nước Thiên Đàng lên cho Đức Chúa Cha (1Cô. 15:24-26). Theo nghĩa này, “Nước Thiên Đàng” sẽ đến trong quyền năng và sự vinh hiển của sự tái lâm của Đức Chúa Jêsus để kết thúc tiến trình diệt trừ các kẻ thù của Ngài. Nhờ các kết quả đã có được cho đến thời điểm hiện tại, chúng ta là những người tin theo Đức Chúa Jêsus đã có thể hưởng được một phần các phước hạnh của Nước Thiên Đàng trong khi mong đợi được hưởng các phước hạnh lớn lao hơn khi Đức Chúa Jêsus tái lâm. II. “Nước Thiên Đàng” Nói Về Dân Sự Và Lãnh Địa Thuộc Về Đức Chúa Trời. Kinh Thánh Tân Ước cũng dùng phạm trù “Nước Thiên Đàng” để chỉ về Dân Sự của Đức Chúa Trời, tức những người đã được Đức Chúa Trời cứu chuộc bằng công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus: “Đấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, và làm cho chúng ta nên nước Ngài, nên thầy tế lễ của Đức Chúa Trời là Cha Ngài…” (Khải. 1:6) “Ngài đã làm cho những người ấy nên nước, và thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời chúng ta; những người ấy sẽ trị vì trên mặt đất.” (Khải. 5:10) Hiện nay là lúc chương trình cứu cuộc của Đức Chúa Trời chưa hoàn tất, Dân Sự Ngài còn chịu sự phối thuộc tư cách công dân với các nước của thế gian. Trong tương lai, khi chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời hoàn tất, “Nước Thiên Đàng” sẽ là một thực thể có lãnh thổ (Khải. 21:1-27). III. “Nước Thiên Đàng” Nói Về Sự Thụ Hưởng Cá Nhân Dưới Chế Độ Của Đức Chúa Trời. Sự thụ hưởng cá nhân trong “Nước Thiên Đàng” vừa vốn có trong quá khứ, đang có trong hiện tại, và sẽ còn đến trong tương lai. Lời rao báo sớm nhất trong Kinh Thánh Tân Ước về “Nước Thiên Đàng” là lời của Giăng Báptít: “Các ngươi phải ăn năn, vì nước Thiên Đàng đã đến gần.” (Ma. 3:2) Mệnh lệnh về một tấm lòng “ăn năn” là sứ điệp xuyên suốt để được hưởng “Nước Thiên Đàng”: “Từ lúc đó, Đức Chúa Jêsus khởi giảng dạy rằng: Các ngươi hãy ăn năn, vì nước Thiên Đàng đã đến gần.” (Ma. 4:17) “Nước Thiên Đàng” được giới thiệu cho thế gian qua mục vụ của Giăng Báptít, và phải được nhận thức, theo đuổi bằng sự quyết tâm. Sự hai lòng, giả hình của người Pharisi, dầu rằng theo dòng giống thì họ là người được thừa kế, không cho phép “Nước Thiên Đàng” hiện hữu trong lòng họ một cách tự động được: “Luật Pháp và các Lời Tiên Tri có đến đời Giăng mà thôi; từ đó, Tin Lành của Nước Đức Chúa Trời được truyền ra, và ai nấy dùng sức mạnh mà vào đó.” (Lu. 16:16; Gk. biazo = dốc lòng, dốc sức) Trên một phương diện, “Nước Thiên Đàng” chính là kinh nghiệm bản thân về sự điều khiển, dắt dẫn của Đức Chúa Trời trên đời sống cá nhân. Dầu rằng “Nước Thiên Đàng” đã được mở ra trên đất, nhưng để hưởng được “Nước Thiên Đàng” người ta phải mở cửa lòng mình ra để đón nhận: “Đức Chúa Jêsus cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời.” (Gi. 3:3) Trên phương diện là sự thụ hưởng cá nhân dưới sự trị vì của Đức Chúa Trời, “Nước Thiên Đàng” là năng lực cảm thụ và đáp ứng với quyền năng Thiên Thượng chứ không phải chỉ là chữ nghĩa, văn tự: “Vì nước Đức Chúa Trời chẳng phải ở tại lời nói, mà ở tại năng lực.” (1Cô. 4:20) Đó chính là sự dạy dỗ trong lời phán của Đức Chúa Jêsus trong “Bài Giảng Trên Núi”: “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì Nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy.” (Ma. 5:3) B. “KẺ CÓ LÒNG KHÓ KHĂN” Trong Định Kỳ Hội Thánh, “Nước Thiên Đàng” chỉ về trạng thái một cá nhân đầu phục hoàn toàn theo sự dắt dẫn của Thánh Linh Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, nếu một người chẳng nhờ nước và Đức Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Đức Chúa Trời.” (Gi. 3:5) Khi vua Salômôn làm vua dân Ysơraên, Đức Chúa Trời hứa ban bất cứ điều gì ông xin. Thay vì xin sự giàu sang, quyền lực; Salômôn đã xin Đức Chúa Trời sự khôn ngoan. Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu xin ấy và ban cho vua Salômôn sự khôn ngoan. Với sự khôn ngoan từ nơi Đức Chúa Trời, mọi sự khác đều đã đến với vua Salômôn. Đó là một hình ảnh cho thấy tác dụng phi thường của một tấm lòng “khó khăn”. “Có lòng khó khăn” là nhận thức được sự thiếu kém của mình và biết nương cậy Đức Chúa Trời trong tất cả mọi sự. Nhờ vậy, “kẻ có lòng khó khăn” sẽ được ban cho “Nước Thiên Đàng”. Ai biết lấy Đức Chúa Trời làm lẽ sống của mình sẽ được Ngài ban cho tất cả để sống. Các nhân vật Kinh Thánh đã biểu lộ “lòng khó khăn” của họ như thế nào, và làm thế nào để chúng ta thực sự có “lòng khó khăn” để có thể thừa hưởng được “Nước Thiên Đàng”? I. “Lòng Khó Khăn” Phải Thường Trực. Khi dân Ysơraên rời khỏi xứ Aicập, họ đã mang theo một phần sự giàu có của Aicập mà Đức Chúa Trời cho phép họ đòi hỏi như tiền công cho những năm dài phục dịch (Xuất. 11:2; Thi. 105:37). Tuy nhiên, tình trạng sung túc tài chính ấy đã không giải quyết nổi vấn đề thiếu nước uống của họ trong sa mạc. Tiền bạc là một việc, nhưng thức ăn, nước uống trong sa mạc lại hoàn toàn là một việc khác. Lúc ấy, dân Ysơraên thừa tiền của nhưng lại thiếu nước để sống. Nếu không có sự tiếp trợ của Đức Chúa Trời, sự sống của họ đã phải giã từ sự giàu có để ra đi. Vào mỗi buổi sớm mai, Đức Chúa Trời đã ban cho họ Mana, một loại thức ăn từ trời rơi xuống sáu ngày mỗi tuần. Dân Sự chỉ được phép nhặt một số lượng đủ dùng cho mỗi ngày. Số Mana dùng còn thừa sẽ trở nên hư thối, hóa sâu bọ trong ngày tiếp theo (Xuất. 16:16-21). Tuy nhiên, vào ngày (Thứ Sáu) trước ngày Sabát, họ được phép thu nhặt nhiều gấp đôi ngày thường (Xuất. 16:22-24). Bằng việc qui định như thế, Đức Chúa Trời dạy cho Dân Sự Ngài biết nương cậy nơi Ngài mỗi ngày. Sự cung ứng Mana của Đức Chúa Trời cho dân Ysơraên dạy cho chúng ta biết thế nào là “có lòng khó khăn”. Đức Chúa Trời muốn chúng ta: (1) Trực tiếp nhận từ nơi Ngài sự đáp ứng thuộc linh; (2) Biết rằng sự đáp ứng thuộc linh là nhu cần hàng ngày và phải được nhận mỗi ngày; (3) Phải có sự chuẩn bị thuộc linh cho sự yên nghỉ trong Ngài. Thử tưởng tượng, bầu không khí thuộc linh trong Hội Thánh mỗi Chúa Nhật sẽ tốt đẹp biết bao nếu mọi người trong Hội Thánh đều chuẩn bị lòng mình cho Lời Chúa, cho sự cầu nguyện, cho sự thờ phượng,… ngay từ ngày (Thứ Bảy) hôm trước? Có được như thế, buổi thờ phượng Chúa Nhật của chúng ta sẽ được sự hiện diện đầy quyền năng của Đức Thánh Linh. Ngược lại, nếu Dân Sự chỉ biết dành duy nhất ngày Chúa Nhật để gặp gỡ với Đức Chúa Trời cho cả tuần lễ, sự kinh nghiệm Chúa của họ sẽ lập tức bị thui chột ngay vào ngày hôm sau theo cùng một cách mà ngày xưa Mana đã bị phân hủy! Chúng ta được dạy phải biết chuẩn bị thích đáng cho sự giao ngộ với Đức Chúa Trời của mình. II. “Lòng Khó Khăn” Phải Tích Cực. Sự nương cậy nơi Đức Chúa Trời là một nổ lực tích cực của ý chí, không phải chỉ là phản ứng có điều kiện theo cảm xúc. Đaniên là một con người thực sự “có lòng khó khăn”. Nhu cần tương giao với Đức Chúa Trời của Đaniên lớn không có gì ngăn cản nổi. Chính những người chống đối Đaniên biết rõ điều đó và họ đã tâu xin vua ban một sắc lệnh cấm không được cầu nguyện với bất cứ thần nào khác trong thời hạn ba mươi ngày. Đúng như mưu tính của những kẻ gian ác, Đaniên đã không bỏ sự cầu nguyện với Đức Chúa Trời của mình và đã bị ném vào hang sư tử để trừng phạt. “Có lòng khó khăn” là có cả Thiên Đàng với muôn thiên binh, thiên sứ và Đức Chúa Trời mình! Đaniên đã được bình an vô sự trước lũ sư tử đói mồi, khát máu. Đã bao giờ chúng ta bị đặt vào hoàn cảnh khó khăn như Đaniên chưa? Liệu chúng ta “có lòng khó khăn” như Đaniên không? III. “Lòng Khó Khăn” Phải Chân Thực. Sự nương cậy đúng nghĩa nơi Đức Chúa Trời phải là một sự nương cậy chân thực. Mác 10 trước thuật về một người trai trẻ, giàu có được kể là đã giữ mọi điều Luật Pháp đòi hỏi “từ khi còn nhỏ” (Mác 10:20), được chính Đức Chúa Jêsus xem như chỉ “còn thiếu một điều” (Mác 10:21) nhưng đã thất bại trong việc nắm bắt “sự sống đời đời” (Mác 10:17) vì người này “có nhiều của lắm” (Mác 10:22). Chính các môn đồ của Đức Chúa Jêsus cũng không tự tách vạch nổi bản chất của vấn đề (Mác 10:28), và đã phải cần đến sự minh giải của Đức Chúa Jêsus: “29Quả thật, Ta nói cùng các ngươi, chẳng một người nào vì Ta và Tin Lành từ bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đất ruộng, 30mà chẳng lãnh được đương bây giờ, trong đời nầy, trăm lần hơn về những nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con, đất ruộng, với sự bắt bớ, và sự sống đời đời trong đời sau” (Mác 10:29-30) Sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus về việc “có lòng khó khăn” không nói về sự khó khăn vật chất. Tuy nhiên, có một mối tương quan giữa sự nghèo khó thuộc linh và sự nghèo khó trong đời này. Con người thiên nhiên luôn có xu hướng ỷ lại nơi những gì mình có. Khi không thể tìm được sự nương cậy nơi của cải vật chất, người ta sẽ dễ dàng hơn trong việc đến với Kinh Thánh để tìm kiếm lẽ thật và sự khôn ngoan. Khi không thể ỷ lại vào của cải vật chất, người ta sẽ thấy dễ dàng hơn trong việc hạ mình, quì gối trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm sự thương xót của Ngài. “Có lòng khó khăn” cũng không nói về sự thiếu hiểu biết Kinh Thánh. Có người tưởng lầm rằng có sự hiểu biết về Kinh Thánh đồng nghĩa với sự trưởng thành thuộc linh, nhưng điều ấy không đúng. Có một kiến thức Kinh Thánh phong phú có thể giúp ích cho người ta tăng trưởng trong đời sống Cơ Đốc. Tuy nhiên, đời sống Cơ Đốc là một vấn đề hoàn toàn khác: Đời sống Cơ Đốc là đời sống làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong Kinh Thánh chứ không phải chỉ là sự hiểu biết về Kinh Thánh. Đời sống Cơ Đốc có liên quan đến việc vâng theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, áp dụng sự dạy dỗ Kinh Thánh trong đời sống mình. “Có lòng khó khăn” cũng không có nghĩa là tự đánh giá thấp về mình. Đức Chúa Trời muốn chúng ta có nhận thức về mình đúng y theo như vốn có, không hơn, không kém. Đức Chúa Trời không hề muốn chúng ta tự gớm ghét mình, Ngài chỉ đòi hỏi chúng ta phải nương cậy Ngài mà thôi. “Có lòng khó khăn” có nghĩa là tự nhận thức được trạng thái băng hoại thuộc linh của bản thân; biết rằng không thể tự mình hoàn thiện mình, không thể tự mình cứu mình được mà phải hoàn toàn nương cậy nơi Ân Điển của Đức Chúa Trời (Lu. 18:9-14). Phước hạnh Thiên Thượng sẵn dành cho những ai sống đẹp ý Đức Chúa Trời. Ngài dò thấu tận trong lòng mỗi người, và Ngài làm ơn dồi dào cho ai biết tận hiến để hoàn thành ý chỉ của Ngài trên đời sống mình. Là Cơ Đốc Nhân chân thực, người ta phải tìm thấy được mọi sự có cần cho đời sống theo Chúa từ nơi Đức Thánh Linh đang ở cùng mình. Sự hiện diện của Đức Thánh Linh đem Vương Quốc của Đức Chúa Trời đến trong đời sống của bất cứ ai thành tâm, trung tín trong sự nương cậy Ngài, chịu để cho Ngài dắt dẫn. “Có lòng khó khăn” là có một sự nhận thức thường trực, tích cực, và chân thực về thân phận bất lực của mình; biết trông cậy ở sự đáp ứng toàn diện và tuyệt đối của duy nhất Đức Chúa Trời cho mọi nhu cần cá nhân. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“CON ĐƯỜNG NÀO PHẢI ĐI?” (Dân. 22:1-38) “Đức Chúa Trời phán cùng Balaam rằng: Ngươi chớ đi với chúng nó, chớ rủa sả dân nầy, vì dân nầy được ban phước.” (Dân. 22:12) Hầu như chúng ta ai cũng đều đồng ý rằng đường lối của Đức Chúa Trời là tốt nhất. Thế nhưng, không phải tất cả những người biết rằng đường lối Đức Chúa Trời là tốt đều từ bỏ đường lối riêng của mình để đi theo đường lối của Ngài. Có một sự cách biệt lớn lao giữa việc biết điều tốt và làm theo điều tốt. Nói và làm là hai phạm trù hoàn toàn khác nhau. Những con người tôn giáo nửa mùa hay giả danh tôn giáo chính là những người chuyên hô hào các định hướng tốt đẹp nhưng không bao giờ chịu làm theo. Những nhà lừa đảo tôn giáo chuyên nghiệp bao giờ cũng cắm một chân trong đạo và chân còn lại thì cố chiếm lấy một chỗ ngoài đời. Họ khiến chúng ta nhớ đến lời của Sứ Đồ Phaolô: “1Hãy biết rằng trong ngày sau rốt, sẽ có những thời kỳ khó khăn. 2Vì người ta đều tư kỷ, tham tiền, khoe khoang, xấc xược, hay nói xấu, nghịch cha mẹ, bội bạc, không tin kính, 3vô tình, khó hòa thuận, hay phao vu, không tiết độ, dữ tợn, thù người lành, 4lường thầy phản bạn, hay nóng giận, lên mình kiêu ngạo, ưa thích sự vui chơi hơn là yêu mến Đức Chúa Trời, 5bề ngoài giữ điều nhân đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhân đức đó. Những kẻ thể ấy, con hãy lánh xa đi” (2Ti. 3:1-5). Cần phải biết một số điều căn bản về nhân vật Balaam mới có thể hiểu được câu chuyện trước thuật trong Dân. 22. Càng biết nhiều về Balaam, chúng ta càng có được nhiều sự nội kiến hơn về các quyết định của Balaam và về cách Đức Chúa Trời đối đãi với Balaam thể theo hành động của con người này. I. CON ĐƯỜNG CỦA BALAAM Balaam không phải là một người Do Thái. Balaam là một người ngoại bang đến từ miền Mêsôpôtami. Lắm người khi đọc câu chuyện này cứ ngỡ Balaam là một người công bình. Điều ấy không đúng. Dầu rằng vào thời của Balaam, có nhiều người đã xem Balaam là một Đấng Tiên Tri, nhưng không phải thế. Balaam là một thầy phù thủy (C. 7). Đối với Balaam, tôn giáo là một loại công việc chứ không phải là một lẽ sống. Thời ấy, các thầy phù thủy được người ta cho là có ảnh hưởng đối với các thần; vì thế, vua Môáp muốn nhờ Balaam sử dụng quyền lực của mình đối với Đức Chúa Trời của Ysơraên để gán trên Ysơraên một lời rủa sả. Vua Môáp mong rằng với tà thuật, Đức Chúa Trời sẽ lìa bỏ Ysơraên là Dân Ngài. Rõ ràng là cả Balaam lẫn Balác đều không hình dung được là họ đang muốn tác động trên một Đấng vĩ đại như thế nào! Câu chuyện về Balaam thể hiện cho thấy một trạng thái dối giả: Vẻ bề ngoài là thuộc linh (Sv. Cc. 8, 13, 18), nhưng bên trong là một đời sống sa bại. Balaam chỉ vâng theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời khi nào sự vâng lời ấy còn giúp ông kiếm chác được. Điều này khá quen thuộc trong Hội Thánh ngày nay! Mặc dầu Balaam biết rằng Đức Chúa Trời của Ysơraên là một Đức Chúa Trời đáng kính sợ, tấm lòng của Balaam vẫn đầy ắp tham vọng được làm giàu nhờ người Môáp. Sự pha tạp giữa các động cơ đối nghịch nhau - sự vâng lời và sự kiếm chác - cuối cùng đã dẫn Balaam vào con đường sự chết: “15Chúng nó đã bỏ đường thẳng mà đi sai lạc theo đường của Balaam, con trai Bôsô, là kẻ tham tiền công của tội ác; nhưng người bị trách về sự phạm tội của mình. 16Bởi có một con vật câm nói tiếng người ta, mà ngăn cấm sự điên cuồng của người tiên tri đó” (2Phi. 2:15-16). “11Khốn nạn thay cho chúng nó, vì đã theo đường của Cain, lấy lòng tham lợi mà gieo mình vào sự sai lạc của Balaam; và bị hư mất về sự phản nghịch của Côrê. 12Những kẻ đó là dấu vít trong đám tiệc anh em, như người chăn chiên chỉ tưởng nuôi mình no nê, không lo sợ gì; như đám mây không nước, theo gió đưa đi dây đó, như cây tàn mùa Thu, không có trái, hai lần chết, trốc lên bực rễ” (Giu. 11-12). “Bề ngoài giữ điều nhân đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhân đức đó” chính là nét tính cách của Balaam. Balaam biết rõ rằng đường lối của Đức Chúa Trời là tốt nhất mà vẫn cứ hành động theo lịch trình của mình, đi theo lộ trình mà mình đã vạch sẵn. Tại sao Đức Chúa Trời lại phán qua một người như Balaam, hay là đã sử dụng một thầy phù thủy như Balaam? Thứ nhất, Đức Chúa Trời có thể sử dụng một người chẳng màng chi đến công việc của Ngài để hoàn thành các mục đích của Ngài. Đức Chúa Trời muốn ban cho người Môáp một thông điệp qua người họ đã thuê là Balaam. Balaam đã được chuẩn bị sẵn cho Đức Chúa Trời sử dụng giống như ngày xưa Đức Chúa Trời đã sử dụng Pharaôn gian ác để hoàn thành ý chỉ của Ngài ở Aicập, hay là Ngài đã sử dụng Sêsa trong thời Đức Chúa Jêsus. Thứ hai, Đức Chúa Trời có một chương trình cho Balaam, nhưng Balaam đã theo chương trình riêng của mình. Đức Chúa Trời ban cho Balaam một cơ hội, cũng giống như Ngài luôn ban cơ hội cho tất cả mọi người chúng ta, để quay trở lại với Ngài. Mỗi người chúng ta đều có những cơ hội như Balaam. Điểm chính là chúng ta có biết lắng nghe Ngài hay không mà thôi. Balaam chạm trán với chính Đức Chúa Trời, đó là cơ hội vàng để khôi phục lại đời sống cho đúng đường lối, nhưng Balaam đã cố tình cho trôi qua. II. CON ĐƯỜNG PHẢI ĐI Có những lý do nhất định khiến cho người ta lãng tránh ý chỉ của Đức Chúa Trời. Chúng ta không thể nào nhận ra được ý chỉ của Đức Chúa Trời dầu ý chỉ ấy ở ngay trước mặt chúng ta, vì chúng ta không hề quan tâm đến. Đôi khi chúng ta có thấy, có biết nhưng lại cố làm ngơ… Trong câu chuyện này, Đức Chúa Trời đã sử dụng một con lừa để dạy cho Balaam về con đường phải đi. Câu chuyện đem lại cho chúng ta một số bài học: 1. Bài Học Thứ Nhất: Đức Chúa Trời Đòi Hỏi Chúng Ta Phải Tuyệt Đối Vâng Lời Ngài (C. 12). Đức Chúa Trời đã ban cho Balaam một chỉ thị rằng “Ngươi chớ đi với chúng nó, chớ rủa sả dân nầy, vì dân nầy được ban phước” (C. 12). Mệnh lệnh này thật rõ ràng. Lời phán của Đức Chúa Trời luôn luôn dứt khoát; khi Ngài phán đừng đi cũng dứt khoát như khi Ngài phán hãy đi: “1Có lời Đức Giêhôva phán cho Giôna con trai Amitai như vầy: 2Ngươi khá chỗi dậy! Hãy đi đến thành lớn Ninive, và kêu la nghịch cùng nó; vì tội ác chúng nó đã lên thấu trước mặt Ta” (Giôna. 1:1-2). Tương tự với Giôna, Balaam gặp rắc rối không phải vì Đức Chúa Trời đã không hướng dẫn mà là vì đã không chịu theo sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời. Ở đây không có vấn đề hiểu lầm hay giải nghĩa lầm. Đây là vấn đề của sự vâng lời. Một khi Đức Chúa Trời phán rằng phải làm thì hãy cứ mà làm. Đừng bao giờ nghi ngờ, ngại ngần hay cố làm cho sự vật chìu theo ý muốn của mình. Balaam hiểu Đức Chúa Trời chứ chẳng phải là không (C. 13). Ngay lần đầu tiên khi Balác sai người đến với Balaam, đâu có điều gì khiến cho Balaam không hiểu được ý chỉ của Đức Chúa Trời? Thật ra, đâu cần phải đợi chờ gì thêm, ý chỉ của Đức Chúa Trời đã rõ ràng đủ cho Balaam làm theo rồi! Chính Balaam cũng tỏ cho thấy là mình biết điều ấy: “Đức Chúa Trời chẳng phải là người để nói dối,_Cũng chẳng phải là con loài người đặng hối cải._Điều Ngài đã nói, Ngài há sẽ chẳng làm sao?_Điều Ngài đã phán, Ngài há sẽ chẳng làm ứng nghiệm sao?” (Dân. 23:19). Một khi Đức Chúa Trời đã phán truyền cho chúng ta làm gì, Ngài đòi hỏi ở chúng ta một sự vâng lời tuyệt đối. Nếu chúng ta dám điều hòa ý chỉ của Ngài, đừng trách sao phải chịu hậu quả thảm thương! Có người đã nói như thế này: “Lắm khi Đức Chúa Trời trách phạt chúng ta bằng cách để cho chúng ta đi theo đường lối riêng của mình”. 2. Bài Học Thứ Hai: Đức Chúa Trời Luôn Cảnh Báo Cho Chúng Ta Khỏi Lạc Lối (C. 22). Balaam đã hạ quyết tâm là sẽ chẳng làm trái ý Đức Chúa Trời vì tiền, thế nhưng lòng tham giàu sang nhờ Balác đã làm mù mắt Balaam đến mức không còn nhận ra được ra được rằng Đức Chúa Trời không muốn Balaam làm như thế. Dầu rằng chúng ta có thể biết Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm điều gì, chúng ta vẫn cứ có thể trở nên mù quáng vì tiền bạc, của cải, danh vọng. Giống như trường hợp của Balaam, nhiều khi Đức Chúa Trời cũng sẽ “đứng trên đường có cây gươm trần nơi tay” để chống lại chúng ta khi chúng ta đang cố làm một điều gì đó. Đức Chúa Trời yêu chúng ta, Ngài muốn chúng ta suy nghĩ lại, quay trở lại, biết rằng một sự thực hiện nào đó của chúng ta là sai. Đức Chúa Trời không muốn chúng ta tự làm tổn hại mình. Nếu chúng ta rời bỏ ý chỉ của Đức Chúa Trời, Ngài không bao giờ chịu để cho chúng ta đi mà thiếu các bảng cấm trên đường. Thế nhưng vấn đề ở chỗ chúng ta bị cuốn theo làn sóng của ý riêng đến độ không còn nhận ra sự cảnh báo của Đức Chúa Trời. Vì vậy, chúng ta thường phải chịu đau đớn sau đó. Đức Chúa Trời muốn ngăn cản Balaam nhưng Balaam quá tự tin đến mức không sao nhận ra được điều gì khác hơn là ý muốn riêng của mình. Mấy ai biết để ý xem Đức Chúa Trời muốn gì một khi chính lòng mình đang bị một điều gì đó thôi thúc? Đức Chúa Trời muốn cho Balaam phải dừng lại, nhưng “dừng lại” là điều làm cho Balaam trở nên bực bội. Chúng ta cũng thế. Một khi công việc đang diễn tiến bỗng gặp trở ngại, phản ứng của chúng ta là ngã lòng. Chúng ta phân vân không biết mình sẽ phải làm gì, ai sẽ giúp cho chúng ta, hậu quả sẽ thế nào… Hỏng xe dọc đường đã khó, hỏng việc khi công việc đang tiến triển còn khó khăn hơn nhiều! Balaam “hỏng xe’ và trở nên tức giận trước viễn cảnh “hỏng việc”, và phản ứng tâm lý ấy đã biến Balaam thành người mù quáng: Chính Balaam tự biến mình thành một “con lừa” không còn biết phân biệt phải quấy nữa! Balaam đã nghe tiếng phán của Đức Chúa Trời nhưng không làm theo. Balaam thực hiện ý riêng của mình dưới chiêu bài bước đi theo Đức Chúa Trời. Vì thế, Đức Chúa Trời đã chống lại Balaam, Ngài sai Thiên Sứ đứng trên đường “đặng cản người”, làm một rào cản cho Balaam không đi sai đường. Dầu vậy, Balaam không đủ nhạy bén với ý muốn của Đức Chúa Trời và đã trút tai vạ lên con lừa của mình. 3. Bài Học Thứ Ba: Khi Được Đức Chúa Trời Ngăn Cấm, Đừng Đổ Vạ Trên Người Khác. Lắm khi Đức Chúa Trời cố làm cho chúng ta chú ý nhưng chúng ta không hề biết lắng nghe Ngài. Vào những lúc như thế, Đức Chúa Trời thường cho phép những điều nhất định nào đó xảy ra để chúng ta biết quay lại với Ngài mà thưa rằng “Lạy Chúa, con đã sai trật ở đâu, xin phán dạy cho con đi theo đúng ý chỉ của Ngài”. Tuy nhiên, vì quá tự mãn, chúng ta chỉ bận tâm đến công việc đang theo đuổi mà thôi, chúng ta coi thường tất cả các điều khác, và sẵn sàng nổi nóng với bất cứ sự gì gây trở ngại cho chúng ta. Thật ra, khi chúng ta đổ vạ trên một ai đó, điều ấy có nghĩa là chúng ta đang có sự sai trật. Đừng để sự thương tổn hay kiêu căng của mình làm tổn thương người khác. Ngày xưa, con lừa là một công cụ đa năng: Làm phương tiện đi lại, chuyên chở hàng hóa, kéo cối xay thóc, kéo cày,… Thông thường, con lừa là loài có thể cậy nhờ được. Chính điều ấy giải thích vì sao Balaam đã trở nên tức giận khi con lừa của mình đứng lại, không chịu đi tới. Ngay cả khi những người bạn thân, rất đáng tin cậy của chúng ta can gián chúng ta về một điều gì đó, chúng ta vẫn có thể tức giận được! Ba lần Balaam đánh con lừa của mình là vì Balaam bị cầm tù trong sự suy nghĩ của mình mà không nhận thức được các rào cản yêu thương của Đức Chúa Trời dành cho mình (Cc. 23, 25, 27): “Bấy giờ, Đức Giêhôva mở miệng lừa ra, nó nói cùng Balaam rằng: Tôi có làm chi cho người, mà người đã đánh tôi ba lần?” (C. 28). Dầu là một người tài giỏi, danh vọng, nhưng khi bị cầm tù trong tư dục mình người ta vẫn cứ tầm thường hết sức. Balaam là một người thông thái hơn hết đã phải bước vào cuộc đối thoại với một con vật có tiếng là đần độn hơn hết (Cc. 29-30) rồi mới có được sự chứng giải từ nơi Đức Chúa Trời (Cc. 31-34). Trong trường hợp này, nói cho đúng nghĩa, ai là người và ai là lừa là một vấn đề đáng nên suy gẫm vậy! Một khi được Đức Chúa Trời mở mắt ra cho, khi chúng ta nhận thức được mình đã trôi giạt khỏi đường lối Ngài như thế nào rồi, hãy dũng cảm thực hiện một quyết định then chốt là quay trở lại với Ngài để khỏi lún sâu vào con đường hủy diệt! (C. 31). Sự kiêu ngạo làm cho chúng ta xa cách Đức Chúa Trời, khiến cho chúng ta nghịch lại ý chỉ và lời phán của Ngài. Sự kiêu ngạo không giúp cho chúng ta nhận ra sự sai trật của mình để được khôi phục. Mỗi khi nhận ra được sự sai trật của mình, chúng ta đừng chống chế mà hãy đến phủ phục trước Đức Chúa Trời toàn năng để được ban ơn (C. 38; Sv Gia. 4:6; 1Phi 5:5). Con lừa của Balaam là một con lừa trung tín, vì muốn cứu sự sống cho chủ mà phải bị hành hạ (Sv. C. 33). Trong sự nóng giận và u mê, Balaam đã đánh con vật vô tội của mình ba lần. Điều này vẫn thường xảy đến với chúng ta. Rất có thể chúng ta đã từng đối xử tệ bạc với một người nào đó khi họ toan làm điều ích cho chúng ta. Cũng có thể chúng ta đã từng phải chen vào khoảng giữa sự nguy hiểm với bạn thân yêu của mình, và rồi chúng ta phải hứng chịu sự thịnh nộ của bạn mình… Ngày nay, có quá nhiều người trên phương diện danh nghĩa là người rao giảng Lời Đức Chúa Trời nhưng thực chất chỉ là người đi theo con đường Balaam. Đối với hạng lãnh đạo ấy, tôn giáo không phải là một lẽ sống mà là một phương tiện sống. Họ tự chứng tỏ chẳng có một chút cảm động nào đối với chức phận lãnh đạo trong tinh thần phục vụ mà Đức Chúa Jêsus đã nêu gương. Để biết phải đi đường nào và đi được đúng con đường Đức Chúa Trời chuẩn thuận, chúng ta phải giữ cho tiếng nói của ý riêng im lặng, phải lắng nghe tiếng phán của Đức Chúa Trời, và cẩn thận làm theo ý chỉ của Ngài. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“CHỚ BỎ SỰ NHÓM LẠI” (Hê. 10:19-25) “Vậy thì anh em hãy khuyên bảo nhau, gây dựng cho nhau như anh em vẫn thường làm” (1Tê. 5:11) Mệnh lệnh Kinh Thánh dưới mỗi hình thái ngữ pháp truyền đạt theo cách riêng các Lẽ Thật thuộc linh mà Đức Chúa Trời muốn gửi đến Dân Ngài. Một trong những cách bày tỏ mệnh lệnh Kinh Thánh là một hình thái ngữ pháp được gọi là “mệnh lệnh cách”, hay “thể cầu khiến”, bắt đầu với những từ liệu như “hãy”, “phải”, “nên”, “chớ”, “cũng nên”... Tổng số lần các câu mệnh lệnh cách được sử dụng trong các Thư Tín Tân Ước không nhiều lắm nhưng riêng Sách Hêbơrơ đã có 15 lần (Hê. 1:6; 4:1, 11, 14, 16; 6:1; 10:22, 23, 24, 25; 12:1; 12:2; 12:28; 13:13, 15), và trong đó Chương 10 có đến 4 lần để hình thành một sự dạy dỗ đặc biệt về việc nhóm lại của Dân Chúa trong các Hội Thánh Địa Phương, mở ra cho chúng ta thấy ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống Cơ Đốc Nhân chúng ta. I. “HÃY… ĐẾN GẦN CHÚA” (Hê. 10:22) “Hãy lấy lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong, mà đến gần Chúa” (Hê. 10:22) “Đến gần” (Gk. "proserchomai") là một từ liệu Hylạp có nghĩa là “tiếp cận”, “thăm viếng”, “thờ kính”, “hội nhập”, “kết hiệp”. “Hãy… đến gần Chúa” là mệnh lệnh về việc phải có đức tin đặt nơi Đức Chúa Jêsus Christ về công nghiệp đền tội thay đã hoàn thành trên Thập Tự Giá của Ngài. Để có thể “đến gần” để thờ phượng Đức Chúa Trời, chúng ta được đòi hỏi phải có phẩm cách xứng hiệp là phải “tinh sạch” trước mặt Đức Chúa Trời: “Lòng thật thà”, “đức tin đầy dẫy trọn vẹn”, “lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu”, “thân thể rửa bằng nước trong”. Nếu “thân thể rửa bằng nước trong” nói về một đời sống thánh khiết hoàn toàn thì ai có thể đến gần được Đức Chúa Trời để thờ phượng Ngài? Phần lớn các học giả Kinh Thánh đều tin rằng “thân thể rửa bằng nước trong” (C. 22) nói về phép Báptêm. Vấn đề ở đây là động từ “rửa” trong Tiếng Hylạp là “rhantizo” có nghĩa là “rảy (nước)” đã tạo nên một số dị luận. Sự thật ở chỗ điều mà Đức Chúa Trời muốn dạy dỗ ở đây là phép Báptêm cho tấm lòng, cho con người bề trong của tín hữu. Chỉ có quá mức thiếu sáng suốt mới có thể tin được rằng một ít nước cho bên ngoài cơ thể lại có tác dụng làm sạch được cho con người bề trong! Với sự hoàn thành công nghiệp đền tội thay trên Thập Tự Giá của Đức Chúa Jêsus, chúng ta cần nên biết rằng “thân thể rửa bằng nước trong” phải được thực hiện bằng một sự “rửa” tượng trưng cho bề ngoài thân thể và được hoàn tất bằng một sự “rửa” thiêng liêng cho tấm lòng nhờ sự rưới huyết (rhantizo: “rảy”) đã hoàn thành tại Thập Tự Giá của Đức Chúa Jêsus: “Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép Báptêm cho họ…” (Ma. 28:20). “Thân thể rửa bằng nước trong” là một cách nói chỉ về một linh hồn (tâm thần) đã được đổi mới “nhờ Ân Điển, bởi đức tin” (Êph. 2:8) đặt vào công nghiệp cứu rỗi của Đức Chúa Jêsus. “Thân thể rửa bằng nước trong” nói về đức tin thật, nói về sự xứng hiệp của một “tâm thần” đã biết (chịu) đáp ứng theo “lẽ thật”: “23Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. 24Đức Chúa Trời là thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy” (Gi. 4:23-24) II. “HÃY CẦM GIỮ…” (Hê. 10:23) “Hãy cầm giữ sự làm chứng về điều trông cậy chúng ta chẳng chuyển lay, vì Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín” (Hê. 10:23) Hiển nhiên đây là một sự kêu gọi về sự bền đỗ trong niềm tin và đời sống thực hành niềm tin của Cơ Đốc Nhân. Từ liệu “cầm giữ” được dịch từ một từ liệu Hylạp là “katecho” với nghĩa là “chịu đựng”, “lưu trữ”, “ghi nhớ trong tâm trí”. Từ liệu “cầm giữ” trong câu Kinh Thánh này được bổ nghĩa cho mạnh hơn bằng một trạng từ là “kilines”, với nghĩa là “một cách không thay đổi”. “Hãy cầm giữ sự làm chứng về điều trông cậy chúng ta chẳng chuyển lay…” là lời khuyên giục mà Đức Thánh Linh đã dùng ngòi bút của Trước Giả Sách Hêbơrơ gửi đến chúng ta để bất cứ lúc nào, và trong bất cứ sự gì niềm tin mà chúng ta đã đặt nơi công nghiệp đền tội thay của Đức Chúa Jêsus cũng không thay đổi. Mệnh lệnh này dạy chúng ta về tính hiệu quả của đức tin bền đỗ trong Đức Chúa Jêsus Christ: “Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng, chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu” (1Cô. 15:58) Sự bền đỗ của chúng ta trong đức tin được hiệu quả trong Đức Chúa Jêsus (1Cô. 15:58) không phải vì bất cứ điều gì khác hơn là vì “Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín” (Hê. 10:23). Đức thành tín của Đức Chúa Trời là tất cả những gì cần và đủ cho đức tin của chúng ta đặt nơi Ngài có hiệu quả. Đức thành tín ấy là nguồn cho sự trông cậy của chúng ta để chúng ta có khả năng vững vàng, chịu khổ, vượt qua mọi trở ngại, thử thách: “14Nếu anh em phải vì sự công bình mà chịu khổ, ấy thật là có phước. Chớ sợ điều họ sợ và đừng rối trí; 15nhưng hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ, 16phải có lương tâm tốt, hầu cho những kẻ gièm chê cách ăn ở lành của anh em trong Đấng Christ biết mình xấu hổ trong sự mà anh em đã bị nói hành; 17vì nếu ý muốn Đức Chúa Trời dường ấy, thì thà làm điều thiện mà chịu khổ, còn hơn làm điều ác mà chịu khổ vậy” (1Phi. 3:14-17) III. “HÃY COI SÓC NHAU…” (Hê. 10:24) “Ai nấy hãy coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành” (Hê. 10:24) Đây là mệnh lệnh về tình yêu thương trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Trên phương diện là một cộng đoàn được gọi riêng ra cho Đức Chúa Trời, Hội Thánh phải là một cộng đoàn yêu thương, vì đó là sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời, là dấu hiệu cơ bản của một cộng đoàn Cơ Đốc, và là đặc trưng của Cơ Đốc Nhân: “Điều răn của Ta đây nầy: Các ngươi hãy yêu nhau, cũng như Ta đã yêu các ngươi” (Gi. 15:12) “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau; vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời” (1Gi. 4:7) “Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc” (Rô. 12:15) “Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ Ta” (Gi. 13:35) Khi các Cơ Đốc Nhân biết yêu thương nhau, tình yêu thương của họ phải được thể hiện bằng sự quan tâm. Khi chúng ta biết yêu thương nhau, hành động yêu thương phải được nhận thấy rõ ràng: “Lại, trong các chi thể, khi có một cái nào chịu đau đớn, thì các cái khác đều cùng chịu; và khi một cái nào được tôn trọng, thì các cái khác đều cùng vui mừng” (1Cô. 12:26) “17Nếu ai có của cải đời nầy, thấy anh em mình đương cùng túng mà chặt dạ, thì lòng yêu Đức Chúa Trời thể nào ở trong người ấy được! 18Hỡi các con cái bé mọn, chớ yêu mến bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật” (1Gi. 3:17-18) IV. “CHỚ BỎ SỰ NHÓM LẠI…” (Hê. 10:25) “Chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh em thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy” (Hê. 10:25) Điều được kêu gọi ở đây là đức trung tín của Cơ Đốc Nhân. Hình thái ngữ pháp của sự kêu gọi này cho thấy Đức Chúa Trời quan tâm đến việc có nhiều Cơ Đốc Nhân xem thường việc nhóm lại trong Hội Thánh: “Chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm…”. “Sự nhóm lại” được viết bằng một từ liệu Hylạp là “episunagoge”, nghĩa là “qui tụ lại với nhau”. Trong sinh hoạt tôn giáo, thường có hai điều đối nghịch nhau: Bản thân cá nhân tôn giáo đòi hỏi “ý chí tự do” cho cá nhân, còn tổ chức tôn giáo lại muốn “phận sự tôn giáo” phải được thực hiện cho tổ chức ấy. Lời Kinh Thánh không kêu gọi “hãy nhóm lại” mà khuyên giục “chớ bỏ qua sự nhóm lại” là vì Đức Chúa Trời không muốn bó buộc kẻ tin Ngài. Đức Chúa Trời kêu gọi “chớ bỏ qua sự nhóm lại” là nhằm kêu gọi ý thức tự giác của Cơ Đốc Nhân, và vì lợi ích đời đời của họ. Chúng ta cần nên tránh thái độ “xét đoán” đối với những anh em, chị em đã lìa bỏ sự nhóm lại trong Hội Thánh Địa Phương của chúng ta. Ngay cả khi Dân Ysơraên muốn lìa bỏ Đức Giêhôva để lập vua lên cai trị họ (1Sa. 8), Ngài không đẹp ý nhưng vẫn không ngăn cản họ: “Vậy bây giờ, hãy nghe theo lời chúng nó, song chớ quên báo cáo cho chúng nó cách nghiêm trang và tỏ ra cho biết vua cai trị chúng nó sẽ đãi chúng nó ra làm sao.” (1Sa. 8:9) Về vấn đề nhóm lại trong Hội Thánh Địa Phương, phận sự của chúng ta là “Chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh em thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy”. Điều ấy có nghĩa là chúng ta có phận sự phải tích cực khuyên bảo các anh em, chị em chúng ta trong Hội Thánh “chớ bỏ qua sự nhóm lại” vì qua đó chúng ta được “đến gần Chúa”, chúng ta có thể “cầm giữ sự làm chứng về điều trông cậy chúng ta”, và chúng ta cũng đồng thời có thể “coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành”… Trong phân đoạn Kinh Thánh này (Hê. 10:19-25), chúng ta tìm thấy có ít nhất hai lý do để không nên bỏ qua sự nhóm lại trong Hội Thánh Địa Phương: (1) Thứ nhất, chúng ta đã có đường vào Nơi Chí Thánh để tiếp cận với Đức Chúa Trời: “19Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào Nơi Rất Thánh, 20bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài.” (Hê. 10:19-20) (2) Thứ hai, chúng ta đã có Thầy Tế Lễ Lớn: “Lại vì chúng ta có một Thầy Tế Lễ Lớn đã lập lên cai trị nhà Đức Chúa Trời.” (Hê. 10:21). Ngày nay có quá nhiều sự vỡ mộng trong lòng các tín hữu về Hội Thánh. Nhìn chung, chúng ta dễ nhận ra một tâm trạng “mệt mỏi” đối với Hội Thánh. Người ta có thể kể ra được rất nhiều nguyên nhân làm cho “chán” Hội Thánh, và nguyên nhân nào trông cũng “có vẻ” xác đáng cả! Điều hiển nhiên không thể chối cãi là có nhiều sự bất mãn đối với Hội Thánh vì nhận thấy Hội Thánh thiếu xứng hiệp, thiếu hữu ích, và có vẻ lãng phí thời gian… Tuy nhiên, sự huyền nhiệm về Hội Thánh là “lẽ mầu nhiệm trong các đời khác chưa từng được phát lộ cho con cái loài người” (Êph. 3:5). Chúng ta không thể hiểu hết các Lẽ Thật thuộc linh về Hội Thánh cũng như sự hữu ích vô cùng của việc nhóm lại trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời được nhưng điều chắc chắn mà ai trong chúng ta cũng biết là Đức Chúa Trời muốn chúng ta cứ ở trong Hội Thánh của Ngài để được gây dựng: “Vậy thì anh em hãy khuyên bảo nhau, gây dựng cho nhau như anh em vẫn thường làm.” (1Tê. 5:11) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ÂN TỨ THUỘC LINH (#3)” (1Phi. 4:10) “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời” (1Phi. 4:10) Trong thời gian gần đây, càng ngày càng có nhiều nhà hoạt động xã hội chú trọng đến sự bảo vệ cho việc thiết lập những chương trình nhằm giúp cho mọi người đều có cơ hội thoát khỏi những sự ràng buộc, trở ngại, hay bất công để họ có thể phát triển đầy đủ, hoàn toàn các thân năng vốn có của họ. Thật ra, khái niệm “Chức Phận Quản Gia” trong Kinh Thánh có bao gồm một sự quan tâm như thế. Kinh Thánh chú trọng việc nhận biết và phát triển tối đa năng lực bản thân của từng cá nhân hầu cho mỗi người có điều kiện hội nhập vào việc thực hiện mục đích của Đức Chúa Trời trên đời sống của họ và cho cộng đồng mà họ đang sống. Cho đến nay, giữa vòng Hội Thánh vẫn còn một “Cánh Đồng Hoang” mênh mông: Vẫn còn vô số nguồn nhân lực chưa được sử dụng đúng mức. Trên một chừng mực nhất định, đó chính là sự lãng phí. Lãng phí là có tội, vì vậy, mỗi người chúng ta phải tự nhắc mình hãy làm tròn chức phận quản gia đối với Đức Chúa Trời vì mỗi một người chúng ta là quản gia của Ngài, đang giữ trong mình các ân tứ của Ngài, các tài khéo của Ngài ban. Để làm tròn cương vị quản gia đối với các ân tứ của Đức Chúa Trời, chúng ta cần phải: (1) Có một sự nổ lực chân thành và khách quan để biết mình phải làm gì để có thể làm được một điều gì đó cho Đức Chúa Trời; (2) Có một sự cố gắng thiết tha nhằm phát triển các khả năng vốn có của mình; (3) Có một sự gắn bó hết lòng để để đem cả đời sống cùng các ân tứ có được đóng góp vào Vương Quốc của Đức Chúa Trời. I. BIẾT ĐÁNH GIÁ ĐÚNG. Nhiều khi chúng ta có những ân tứ mà chúng ta không hề hay biết vì chúng ta không quan tâm đến việc đánh giá năng lực bản thân của mình, hoặc đánh giá không đúng. Có thể quí vị có ơn khích lệ, ơn tiếp khách, ơn ca hát… Cũng có thể quí vị có khả năng hướng dẫn các buổi nhóm thông công hay học Kinh Thánh tại nhà riêng nhưng quí vị chưa bao giờ dám thử lấy một lần! Hãy thực hiện một bước đi theo đức tin qua việc thưa với Đức Chúa Trời rằng “Lạy Chúa, có con đây! Chúa ôi, con muốn được làm một điều gì đó có ích cho Vương Quốc của Đức Chúa Jêsus. Xin hãy giúp con tìm thấy được một sự đóng góp nào đó trong Hội Thánh của Ngài”. Xin đừng in trí rằng mình không có ân tứ gì hết! Nghĩ như thế là sai, chính Đức Chúa Trời phán với quí vị rằng nghĩ như thế là sai: “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy được sự ích chung” (1Cô. 12:7). “Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta…” (Rô. 12:6) Theo lời này của Đức Chúa Trời, mỗi người đang có mặt trong phòng nhóm này đều có thể làm ít nhất một điều tốt đẹp nào đó cho Đức Chúa Jêsus và Hội Thánh của Ngài! Trong công việc Chúa giữa vòng Hội Thánh, chúng ta thường ngần ngại. Ngày xưa, Môise cũng đã từng ngần ngại; và chính Đức Chúa Trời đã giải quyết cho sự ngần ngại của Môise bằng sự xác nhận của Ngài. Ngày nay, nhiều người trong chúng ta cũng cảm thấy như Môise khi đối diện với Đức Chúa Trời trong Bụi Gai Cháy (Xuất. 3-4). Môise cảm thấy không xứng hiệp và chưa được sẵn sàng để bước vào công việc. Nhưng đó lại chính là điều Đức Chúa Trời kêu gọi Môise. Phần lớn chúng ta đều có thể liệt kê ra những lý do khiến chúng ta có quyền thoái thác cũng như Môise đã từng làm. Khi Đức Chúa Trời kêu gọi Môise, Môise nêu lên năm điều khiến ông không thể bước vào sự kêu gọi của Đức Chúa Trời được. Hãy chú ý về cách Đức Chúa Trời đã đáp lời Môise: (1) Khi thưa với Đức Chúa Trời rằng “Tôi là ai?” (Xuất. 3:11), Môise ở trong sự tranh chiến với “bản sắc” của mình. Môise thấy mình không đủ bản lĩnh. Môise cho rằng Đức Chúa Trời đã chọn sai người. Sự đáp trả của Đức Chúa Trời là: “Ngươi là ai không thành vấn đề. Ta đã kêu gọi ngươi, Ta sẽ ở cùng ngươi” (Sv. Xuất. 3:12). (2) Khi thưa với Đức Chúa Trời rằng “Ngài là ai?” (Xuất. 3:13), Môise đang ở trong sự tranh chiến với “sự thành thạo”. Môise không biết đủ về Đức Chúa Trời để có thể trình bày Ngài với dân sự. Mối quan hệ giữa Môise với Đức Chúa Trời vốn còn quá nông cạn. Sự đáp trả của Đức Chúa Trời là như thế này: “TA LÀ ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU”, nghĩa là “Ta là tất cả sự có cần của ngươi” (Sv. Xuất. 3:14). (3) Khi thưa với Đức Chúa Trời rằng “Nếu họ không nghe lời tôi thì sao?” (Xuất. 4:1), Môise đang ở trong sự tranh chiến với “sự bảo đảm”. Môise lo lắng về sự phản ứng của dân sự đối với mình. Sự đáp trả của Đức Chúa Trời là như thế này: “Một khi Ta được tỏ ra, họ sẽ nghe lời ngươi. Hãy tin cậy Ta” (Sv. Xuất. 4:2-9). (4) Khi thưa với Đức Chúa Trời rằng “Tôi chẳng phải là một tay nói giỏi” (Xuất. 4:10), Môise ở trong sự tranh chiến với “sự bất xứng”. Ai sẽ theo Môise nếu Môise nói năng không trôi chảy? Sự đáp trả của Đức Chúa Trời là như thế này: “Thử đoán xem ai đã tạo ra miệng ngươi? Ta chính là nguồn của các ân tứ của ngươi” (Sv. Xuất. 4:11-12). (5) Khi thưa với Đức Chúa Trời rằng “Ôi! lạy Chúa, Chúa muốn sai ai đi, thì sai” (Xuất. 4:13), Môise đang ở trong sự tranh chiến với “sự tự ti”. Môise so sánh mình với những người giỏi hơn, và Môise cảm thấy mình thấp kém. Sự đáp trả của Đức Chúa Trời là như thế này: “Được, Ta sẽ cho Arôn đi với ngươi... Nhưng Ta vẫn cứ kêu gọi ngươi” (Sv. Xuất. 4:14-17). Thông thường, chúng ta tự thấy mình không có đủ bản lĩnh, không có đủ sự thành thạo, không có đủ sự bảo đảm, không có đủ sự xứng hiệp - nói chung là tự thấy mình tầm thường, thấp kém - tức là thấy mình không có ân tứ nào hết. Thế nhưng, đây chính là sự kêu gọi và là sự xác nhận của Đức Chúa Trời trong Thời Kỳ Hội Thánh hiện nay cho tất cả chúng ta: “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời” (1Phi. 4:10). Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết rằng tất cả các tín hữu đều được Ngài ban ân tứ. Mỗi tín hữu của Đức Chúa Trời trong Hội Thánh của Ngài đều có được sự cho phép Thiên Thượng để góp phần tích cực của mình. Vì vậy, việc của mỗi tín hữu không phải là ngồi yên chờ đợi một giấc chiêm bao, một sự mách bảo từng hồi, từng lúc nào đó mà là phải tin và làm theo Lời Ngài trong Kinh Thánh. Tất cả mọi tín hữu trong Hội Thánh phải biết đánh giá đúng khả năng của mình, phải biết thực nghiệm xem mình có thể làm được gì trong Vương Quốc và cho Vương Quốc của Đức Chúa Trời. II. BIẾT PHÁT TRIỂN HẾT. Cathy Rigby là một Vận Động Viên môn Thể Dục Dụng Cụ trong kỳ Thế Vận Hội Olympic năm 1972. Cho đến ngày bước vào cuộc thi đấu, tất cả mọi nổ lực cao độ của cô là nhằm giành Huy Chương Vàng, trở thành Vận Động Viên hàng đầu của thế giới trong môn Thể Dục Dụng Cụ. Giới truyền thông lúc ấy cũng đã đánh giá cô rất cao, nhiều người đã cho rằng cô sẽ đạt được mục tiêu của mình. Cathy Rigby đã luyện tập gian khổ, đã thể hiện được tất cả tài năng của mình, nhưng cô đã không giành được huy chương vàng như mong muốn. Cathy Rigby thực sự bị sụp đổ, cô đã chạy băng về phía Cha Mẹ mình đang ngồi. Cathy Rigby ôm lấy Mẹ mình, vừa khóc vừa nói: “Mẹ, con xin lỗi Mẹ, con hết lòng muốn thắng cuộc, con cũng đã cầu nguyện nhiều để được thắng cuộc, nhưng con đã không thắng cuộc được!”. Mẹ của Cathy Rigby nói: “Cathy, Con hãy nghe Mẹ nói đây: Con giỏi lắm, con đã thể hiện hết sức mình. Bố Mẹ rất quí con, và đầy lòng tự hào về con. Dầu con không thắng cuộc, Bố Mẹ vẫn cứ yêu con vì con đã thể hiện hết sức mình!”. Sau đó Cathy Rigby đã làm chứng rằng lời nói sau đây của Mẹ cô đã giúp thay đổi cả quãng đời còn lại của cô: “Việc Cố Gắng Hết Sức Quan Trọng Hơn Là Việc Giành Được Giải Nhất”. Đó chính là triết lý mà mỗi Cơ Đốc Nhân chúng ta phải theo đuổi. Chúng ta cứ làm hết sức mình, và hãy để phần còn lại cho Đức Chúa Trời. Đừng bận tâm đến việc nhất thiết phải trở thành Cơ Đốc Nhân Số Một, nhưng phải bảo đảm được rằng Ưu Tiên Số Một nhất thiết phải là sống một đời sống Cơ Đốc hết mình. Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải chuyên tâm: “Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta” (Côl. 3:23); “Hãy chuyên tâm cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời như người làm công không chỗ trách được, lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật” (2Ti. 2:15). Cậy ơn Đức Chúa Trời để phát triển hết tất cả những gì mình có trong tay nhằm làm vinh hiển danh thánh của Ngài là tất cả vấn đề đối với một Cơ Đốc Nhân. Samsôn đã làm vinh hiển Đức Chúa Trời khi trong tay chỉ có một cái hàm lừa mà chung quan mình có đến cả ngàn quân Philitin (Quan. 15:15). Thậm chí, với hai tay không nhưng nhờ biết nương cậy Đức Chúa Trời, lúc chết Samsôn đã giết được nhiều quân thù hơn là lúc sinh thời (Quan. 16:28-30). III. BIẾT NHIỆT TÌNH SỬ DỤNG. Mục đích cao nhất của các ân tứ và thân năng được Đức Chúa Trời ban cho là để sử dụng cho việc gây dựng Hội Thánh: “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời” (1Phi. 4:10); “Hầu cho trong Thân không có sự phân rẽ, mà các chi thể phải đồng lo tưởng đến nhau” (1Cô. 12:25). Cái gì làm cho con diều bay được? Cái khung của con diều có thể nói “Nhờ tôi”. Đuôi của con diều cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Giấy bồi thành con diều cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Sợi dây giữ cho con diều bay cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Gió cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Đứa bé cầm sợi dây thả diều cũng có thể nói “Nhờ tôi”… Thật ra, con diều bay được là nhờ tất cả những điều ấy hợp lại với nhau, mỗi điều ấy giữ một vai trò nhất định của mình. Nếu khung diều hỏng, đuôi diều mắc vào cành cây, giấy bồi diều rách, dây thả diều dứt, hay gió ngừng thổi,… nhất định con diều sẽ không còn bay được nữa. Muốn cho công việc Chúa trong Hội Thánh được thành công, từng người chúng ta phải hoàn thành xuất sắc phần công việc của mình. Chúng ta có thể làm chứng, chăm sóc, giảng, dạy,… và vô số việc khác để giúp cho Hội Thánh thành công và phát triển miễn là chúng ta biết hiệp tác với nhau trong tinh thần đồng đội, trong đó Đội Trưởng chính là Đức Chúa Trời: “Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta…” (Rô. 12:6);“Vả, chúng tôi là bạn cùng làm việc với Đức Chúa Trời; anh em là ruộng của Đức Chúa Trời cày, nhà của Đức Chúa Trời xây” (1Cô. 3:9). Khi đến dự một buổi nhóm thờ phượng, phần đông đều trông mong đến giờ giảng luận để nghe diễn giả trình bày về tình yêu thương và ý muốn của Đức Chúa Trời. Trong các ân tứ thuộc linh, ơn giảng luận vẫn thường được trân trọng một cách đặc biệt và vẫn được xem là ân tứ “Số Một”. Thật ra, mỗi người ngay khi bước đến với một buổi nhóm, trước giờ giảng luận của diễn giả khá lâu, đều đã có thể giảng về tình yêu thương và ý muốn của Đức Chúa Trời đối với Hội Thánh của Ngài! Trước khi diễn giả bước lên tòa giảng, mỗi người trong quí vị đều phải giảng, có thể giảng, và đã giảng: - Quí vị giảng một sứ điệp bằng lời chào mừng nhau một cách vui vẻ thật thà ngay tại nhà gửi xe! - Quí vị giảng một sứ điệp khi vui vẻ đưa tay đón người đến sau ngồi vào chỗ gần với mình chứ không phải chỉ đưa mắt nhìn họ như ngầm bảo “Hãy lại đằng kia mà ngồi đi!” - Quí vị giảng một sứ điệp khi hát thánh ca tôn vinh Chúa một cách vui mừng và thiết tha! - Quí vị giảng một sứ điệp khi quí vị tỏ ra chăm chú lắng nghe một cách trân trọng những lời làm chứng về ơn phước của Đức Chúa Trời trên đời sống của anh, chị, em mình trong Hội Thánh! - Quí vị giảng một sứ điệp khi quí vị nồng nhiệt chào đón khách đến thăm Hội Thánh! - Quí vị giảng một sứ điệp khi đi nhóm quí vị có mang theo Kinh Thánh, và quí vị chăm chú tra xem Kinh Thánh khi nghe giảng! Quí vị còn có thể giảng nhiều điều khác đến nỗi không sao kể hết được. Điều có thể gây cho quí vị bất ngờ là nếu suy xét cho cùng, quí vị sẽ thấy đó chính là những biểu hiện thực hành của các ân tứ thuộc linh trong Hội Thánh! Phẩm chất Cơ Đốc một khi được bày tỏ ra một cách thực hành sẽ tác động mạnh mẽ hơn bất cứ điều gì được nói bằng môi miệng. Đối với những ai biết nhiệt tình sử dụng các ân tứ thuộc linh đã được ban cho, họ không cần phải lo sợ thất bại; vì đây là lời hứa dành cho họ: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phil. 4:13). Tất cả các ân tứ thuộc linh đều có đặc điểm chung là sự ban cho của Đức Chúa Trời để sử dụng vào việc gây dựng Hội Thánh của Ngài và trong tay của mỗi tín hữu đều có ít nhất một ân tứ thuộc linh nào đó. Nếu quí vị cảm thấy những gì đang có trong tay mình sao mà yếu ớt quá; hãy nói chuyện với Samsôn để biết bí quyết nào khiến yếu biến thành mạnh. Nếu quí vị cảm thấy điều mình có trong tay ít quá, không làm sao chia sẻ được; hãy đi hỏi thăm người đàn bà góa đã dâng hai đồng tiền ăn một phần tư xu để được biết phải làm thế nào. Nếu quí vị thấy sao khó buông ra những gì hiện có trong tay quá; hãy nói chuyện với Anne để biết nhờ đâu mà Bà dám dâng cho Đức Chúa Trời đứa con cầu duy nhất của mình. Nếu người ta chê cười về những gì quí vị hiện có trong tay là tầm thường; hãy nói chuyện với Đavít để nhớ lại bài học về cái trành ném đá đã giết tên khổng lồ Gôliát. Nếu quí vị thấy những gì có trong tay làm cho mình đau quá; hãy thưa với Đức Chúa Jêsus để được xem dấu đinh trên tay của Ngài và được Ngài dùng sự đau đớn mà làm cho trở nên trọn lành! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ÂN TỨ THUỘC LINH (#2)” (1Cô. 12:7) “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy được sự ích chung” (1Cô. 12:7) Ngay tại lúc tiếp nhận Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và làm Chúa đời sống mình, mỗi người chúng ta được Đức Chúa Trời sáp nhập vào Hội Thánh của Ngài và chúng ta được chia sẻ sự sống của Đức Chúa Jêsus: “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy được sự ích chung” (1Cô. 12:7). Đức Chúa Trời không muốn chúng ta làm những thành viên thụ động trong Hội Thánh. Ngài không muốn chúng ta là những con người nhàn cư, vô sự. Đức Chúa Trời đã định rằng mỗi thành viên của Hội Thánh đều là một thành viên hoạt động, tích cực. Ngài trao ban cho mỗi người chúng ta một chức năng trong Hội Thánh của Ngài, không miễn trừ bất cứ một ai. Chức phận đầy tớ thuộc về mọi thành viên trong Hội Thánh, mọi cá nhân trong Hội Thánh đều có một vị trí đặc biệt trong chương trình của Đức Chúa Trời, đều hữu dụng đối với kế hoạch của Đức Chúa Trời trong Hội Thánh. I. ÂN TỨ THUỘC LINH CÓ TRONG MỖI NGƯỜI. Thật ra, Đức Chúa Trời đã ban ân tứ thuộc linh cho mọi thành viên trong Hội Thánh tại lúc họ tiếp nhận sự cứu rỗi. Nếu còn có thành viên nào nhàn cư, vô sự thì chỉ vì người ấy vẫn chưa khám phá và thực hành được các ân tứ của mình mà thôi. Warren Myers trong tác phẩm “Pray: How To Be Effective In Prayer” có nhắc đến hai nhân vật xuất sắc: William Carrey, Giáo Sĩ ở Ấn Độ, và “Carrey Bại Liệt”, là em gái của William Carrey, một người hầu như bại liệt hoàn toàn. William Carrey đã hoàn thành công trình dịch và xuất bản Kinh Thánh không ai so sánh được trong lịch sử truyền giáo. Như chúng ta đọc được ở chương cuối tác phẩm của Myers, William Carrey được gọi là “Cha Đẻ Của Các Giáo Sĩ Hiện Nay”. Đến nay chúng ta vẫn không biết được tên đầy đủ của em gái William Carrey, thế nhưng trong khi William Carrey làm công việc dịch Kinh Thánh ở Ấn Độ và in ra bằng 40 thứ ngôn ngữ khác nhau thì tại London, “Em Gái Carrey” tuy phải nằm liệt giường vẫn cứ cầu nguyện từ giờ này sang giờ khác, ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, và năm này sang năm khác! “Em Gái Carrey” cầu nguyện cho từng chi tiết, cho từng trục trặc, cho từng trăn trở,… cho công việc của William Carrey, anh trai của mình! Đem câu chuyện của anh em nhà Carrey vào tác phẩm của mình, Warren Myers muốn nêu lên một câu hỏi: Theo cách nhìn nhận của Đức Chúa Trời, trong những gì William Carrey đã làm được, công của ai lớn hơn? Tất cả chúng ta đều có thể nhìn nhận rằng “Em Gái Carrey” đã dự phần vào chức vụ của anh mình. Thật ra, phần việc của “Em Gái Carrey” là một phần quan trọng đặc biệt. Về nguyên tắc, thiếu sự cầu nguyện của “Em Gái Carrey”, chức vụ của William Carrey không thể kết quả được như thế. Trong khi William Carrey dịch Kinh Thánh ở Ấn Độ, được nhiều người trên thế gới biết đến, “Em Gái Carrey” âm thầm cầu nguyện tại nhà ở London, không ai thấy, không ai biết. Cả hai đều quan cùng quan trọng vì chính Đức Chúa Trời đã trang bị cho họ hoàn thành chức năng của mình. Đó là ơn Đức Chúa Trời ban cho mỗi người, đó là ân tứ thuộc linh: Một ân tứ thuộc linh là một thân năng được Đức Chúa Trời ban cho và được Đức Thánh Linh làm cho có quyền năng để thực hiện một chức năng cụ thể giữa vòng Hội Thánh mà Đức Chúa Trời đã phân công cho mỗi người chúng ta. Mỗi ân tứ thuộc linh bao giờ cũng có một chức năng trong Hội Thánh. Và, như Kinh Thánh cho biết, trong Hội Thánh ai cũng được trao ban ân tứ thuộc linh, không ai có thể nói được rằng “Tôi không hề có phận sự nào trong Hội Thánh, vì tôi không làm được gì cho Hội Thánh cả!”: “4Vả, như trong một thân chúng ta có nhiều chi thể, và các chi thể không làm một việc giống nhau… 6Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta…” (Rô. 12:4, 6). II. ÂN TỨ THUỘC LINH CHO THA NHÂN VÀ VÌ SỰ VINH HIỂN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI. Theo Phierơ, ân tứ thuộc linh phải giúp phục vụ tha nhân và tôn qui vinh hiển cho Đức Chúa Trời; hai mục tiêu ấy của ân tứ thuộc linh phải luôn được nhắm đến; trong đó, mục tiêu tôn qui vinh hiển cho Đức Chúa Trời là nguyên tắc tối cao của mọi hành vi Cơ Đốc. Đừng bao giờ sử dụng các ân tứ thuộc linh mà mình có để làm cho bản thân được nổi bật mà hãy chỉ sử dụng các ân tứ đã được trao ban cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời: “Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Jêsus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha” (Côl. 3:17). “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm” (1Cô. 10:31). Để Đức Chúa Trời được vinh hiển, không phải chỉ với một phạm vi hạn hẹp của bốn bức tường nơi chúng ta nhóm lại là đủ. Đức Chúa Trời muốn chúng ta sử dụng ân tứ thuộc linh trong nhà ở của mình, với láng giềng của mình, tại cộng đồng cư dân mà mình đang sống, trong trường học, ở nơi làm việc, cùng tất cả những nơi nào chúng ta đặt chân đến: “10Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời. 11Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng đáng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen” (1Phi. 4:10-11). Đừng vì thấy một người nào đó không có mặt trong ban hát, hoặc không bao giờ được bước lên bục hướng dẫn, hay là không ở trong Ban Điều Hành Hội Thánh Địa Phương mà chúng ta tưởng là họ không có ân tứ thuộc linh nào cả. Một người có thể không có mặt trong ban hát, không bao giờ được bước lên bục hướng dẫn, không phải là một Chấp Sự,… nhưng họ có thể nấu cho mọi người trong Hội Thánh ăn, sửa chữa đồ đạc trong Hội Thánh cho mọi người dùng, chưng dọn phòng nhóm cho mọi người có nơi thờ phượng vui vẻ… Một người có thể không hề đứng trên bục giảng để giảng dạy một cách trôi chảy, đầy sức thuyết phục được nhưng họ có thể bày trò chơi để sinh hoạt với thanh thiếu niên, hướng được tấm lòng và sinh hoạt của thanh thiếu niên đi vào con đường Đức Chúa Trời đẹp ý thì đó là ân tứ thuộc linh của họ. Mỗi người đều có ít nhất một ân tứ nào đó để góp phần làm ích cho nhau trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời: “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy được sự ích chung” (1Cô. 12:7). Đó cũng là điều có thể dễ dàng nhận thấy trong đời sống xã hội. Tháng Ba năm 1981, Tổng thống Hoa Kỳ là Ronald Reagan đã bị Hinclev, Jr. bắn bị thương phải nằm bệnh viện mất mấy tuần. Mặc dầu Tổng Thống Reagan là chuyên gia hàng đầu của cả nước, là Nguyên Thủ Quốc Gia, nhưng việc ông gác công việc lại để nằm điều trị ở bệnh viện chỉ ảnh hưởng rất ít đến toàn bộ công việc của Chính Phủ mà thôi. Tổng Thống vắng mặt, không làm việc được, nhưng Chính Phủ vẫn hoạt động được. Thế nhưng, hãy thử tưởng tượng tất cả những người quét rác của nước Hoa Kỳ đồng loạt đình công một thời gian cũng bằng thời gian Tổng Thống nằm bệnh viện: Việc gì sẽ xảy ra? Chắc chắn cả nước sẽ tràn ngập rác, và sẽ có người chết vì rác! Vậy ai quan trọng hơn ai? III. ÂN TỨ THUỘC LINH CỦA ĐỨC TIN VÀ ĐỜI SỐNG VÂNG LỜI. Tính hữu hiệu của ân tứ thuộc linh tùy thuộc vào đức tin đặt nơi Đức Chúa Jêsus của cá nhân. Không nhờ Chúa, chúng ta chẳng làm được gì cả. Để duy trì một cách nhìn đúng về sự chuyên tâm trong phận sự cá nhân và một thái độ chân thật trong sự nương cậy nơi quyền phép của Đức Chúa Trời, chúng ta cần phải chú ý đến hai phương diện. Một mặt, chúng ta cần tránh phạm sai lầm bởi sự lười biếng, uể oải rồi mượn cớ rằng “chúng ta phải cầu xin Chúa”, phải “để cho Chúa làm tất cả”. Mặt khác, chúng ta cần phải tránh sự cậy mình, lấy những nổ lực cá nhân thay cho phước hạnh của Đức Chúa Trời. Chúng ta không được sử dụng ân tứ thuộc linh chỉ như là thân năng thuần túy của chính mình, nhờ thực hành thuần thục mà có. Việc thực hành ân tứ thuộc linh phải hoàn toàn dựa vào đức tin trong Đức Chúa Jêsus và Lời Ngài trong Kinh Thánh: “Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh. Ai cứ ở trong Ta và Ta trong họ thì sinh ra lắm trái; vì ngoài Ta, các ngươi chẳng làm chi được” (Gi. 15:5). Dầu rằng ân tứ thuộc linh cũng là thân năng có nơi người tín hữu, nhưng thân năng tự có khác hẳn với ân tứ thuộc linh. Ân tứ thuộc linh có được nhờ công việc của Đức Thánh Linh trong đời sống người tin; thân năng thuần túy có được nhờ di truyền, môi trường, và giáo dục. Chỉ những người tin theo Đức Chúa Jêsus mới được nhận lãnh Đức Thánh Linh, và chỉ những người được Đức Thánh Linh ở cùng (là các tín hữu) mới được trao ban ân tứ thuộc linh: “…37Nếu người nào khát, hãy đến cùng Ta mà uống. 38Kẻ nào tin Ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy ra từ trong lòng mình, y như Kinh Thánh đã chép vậy” (Gi. 7:37b-38). Đức tin và sự trung tín luôn gắn liền với ân tứ thuộc linh. Trong ẩn dụ về các ta lâng (Ma. 25:14-30), sự trung tín được sử dụng làm căn cứ cho việc ban thưởng. Vì thế, những người trung tín hơn hết vốn thường là những người được ban phước nhiều nhất trong chức vụ. Một số học giả Kinh Thánh gọi đây là giáo lý về tính khả phước (blessability doctrine), theo đó Đức Chúa Trời chỉ ban phước cho những ai có thể ban phước được: “10Ai trung tín trong việc rất nhỏ, cũng trung tín trong việc lớn; ai bất nghĩa trong việc rất nhỏ, cũng bất nghĩa trong việc lớn. 11Vậy nếu các ngươi không trung tín về của bất nghĩa, có ai đem của thật giao cho các ngươi” (Lu. 16:10-11). “Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi” (Ma. 25:21). Tuy nhiên, nhờ sự nhân từ của Đức Chúa Trời, Ngài cũng sử dụng ân tứ thuộc linh ở một số người ngay cả khi họ không còn trung tín nữa, khi tội lỗi của họ được phát giác, và đó chỉ là những trường hợp ngoại lệ. Đối với những trường hợp như vậy, không thể nói được rằng con người của họ được Đức Chúa Trời ban phước mà chỉ có thể thấy được rằng ân tứ thuộc linh trên đời sống họ được Đức Chúa Trời ban phước nhằm hoàn thành những mục đích nhất định nào đó của Ngài mà thôi. Giá như họ cứ giữ mình trong sự trung tín, Đức Chúa Trời chắc chắn đã sử dụng họ còn đặc biệt hơn thế. IV. ÂN TỨ THUỘC LINH VÌ TÌNH YÊU THƯƠNG. Chỉ duy nhất tình yêu thương mới có thể đem lại giá trị thật cho ân tứ thuộc linh. Sứ Đồ Phaolô cho biết rằng dầu chúng ta có được những ân tứ thuộc linh rất “cao trọng” nhưng nếu thiếu tình yêu thương thì con người và công việc của chúng ta đều vô nghĩa: “1Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ, nếu không có tình yêu thương, thì tôi chỉ như đồng kêu lên hay là chập chỏa vang tiếng. 2Dầu tôi được ơn nói tiên tri, cùng biết đủ các sự mầu nhiệm và mọi sự hay biết; dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được, nhưng không có tình yêu thương, thì tôi chẳng ra gì. 3Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi” (1Cô. 13:1-3). Không phải tình yêu thương được đặt cao hơn các ân tứ thuộc linh. Vấn đề ở chỗ “tình yêu thương” đem lại cho các ân tứ thuộc linh chân giá trị của nó là sự gây dựng: “1Hãy nôn nả tìm kiếm tình yêu thương. Cũng hãy ước ao các sự ban cho thiêng liêng, nhứt là sự ban cho nói tiên tri. 2Vì người nào nói tiếng lạ, thì không phải nói với người ta, bèn là nói với Đức Chúa Trời, bởi chẳng có ai hiểu (ấy là trong tâm thần mà người kia nói lời mầu nhiệm); 3còn như kẻ nói tiên tri, thì nói với người ta để gây dựng, khuyên bảo và yên ủi. 4Kẻ nói tiếng lạ, tự gây dựng lấy mình; song kẻ nói tiên tri, gây dựng cho Hội Thánh. 5Tôi ước ao anh em đều nói tiếng lạ cả, song tôi còn ước ao hơn nữa là anh em nói tiên tri. Người nói tiên tri là trọng hơn kẻ nói tiếng lạ mà không giải nghĩa để cho Hội Thánh được gây dựng” (1Cô. 14:1-5). Chúng ta sống là để làm đẹp ý Đức Chúa Trời. Ngài trang bị chúng ta cho mục đích ấy bằng các ân tứ thuộc linh, là những thân năng được Đức Thánh Linh ban quyền, để chúng ta đóng góp phần tích cực nhất của mình cho Hội Thánh. Ân tứ thuộc linh có trong mỗi người nhưng đó không phải là một khoản tài sản cá nhân để chúng ta chi tiêu tùy tiện. Ân tứ thuộc linh là để phục vụ tha nhân và làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Ân tứ thuộc linh là quà tặng cặp theo đức tin cứu rỗi đặt trong Đức Chúa Jêsus. Ân tứ thuộc linh chỉ có được chân giá trị khi nó được kích hoạt bởi tình yêu thương và gia tốc cho tình yêu thương: Yêu Chúa và yêu tha nhân. Việc sở hữu ân tứ thuộc linh giúp cho chúng ta trở nên hữu dụng nhưng cũng đồng thời làm cho chúng ta thực thụ có được chức phận đầy tớ đối với Đức Chúa Trời. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ÂN TỨ THUỘC LINH (#1)” (1Cô. 12:6) “Có các việc làm khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Chúa Trời, là Đấng làm mọi việc trong mọi người” (1Cô. 12:6) Để có thể biết ân tứ thuộc linh là gì, và ân tứ thuộc linh từ đâu đến, chúng ta cần phải tra xét Lời Kinh Thánh là lời có thẩm quyền giải đáp cho các câu hỏi ấy, vì: “Nếu Đức Giêhôva không cất nhà,_Thì những thợ xây cất làm uổng công._Nhược bằng Đức Giêhôva không coi giữ thành,_Thì người canh thức canh luống công” (Thi. 127:1). Chỉ những gì được Đức Chúa Trời ban cho mới thực sự có giá trị và giúp cho chúng ta sống được theo mục đích mà Ngài đã định. Nếu chẳng phải như thế, dầu trông bề ngoài có vẻ như thế nào cũng chỉ là vô ích mà thôi; thậm chí, có thể còn có hại nữa! I. CHÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI BAN ÂN TỨ THUỘC LINH. Chúng ta không thể làm được gì ngoài Chúa. Chúng ta phải được Đức Chúa Trời thiết lập giữa vòng Hội Thánh và trong chính đời sống cá nhân của mình. Sự gây dựng mà mỗi người chúng ta có được là nhờ bàn tay của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời vận hành thông qua những ân tứ thuộc linh mà chính Ngài đã ban, để các ân tứ ấy được sử dụng để gây dựng Hội Thánh của Ngài, trong đó có mỗi một người chúng ta: “4Chỉ có một Thân Thể, một Thánh Linh, như anh em bởi chức phận mình đã được gọi đến một sự trông cậy mà thôi; 5chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép Báptêm; 6chỉ có một Đức Chúa Trời và một Cha của mọi người, Ngài là trên cả mọi người, giữa mọi người và ở trong mọi người. 7Nhưng, đã ban Ân Điển cho mỗi một người trong chúng ta theo lượng sự ban cho của Đấng Christ” (Êph. 4:4-7). Như vậy, chúng ta có: (1) Một Thân Thể là Hội Thánh của Đức Chúa Jêsus Christ; (2) Một Đức Thánh Linh; (3) Một sự trông cậy [Sự cứu rỗi]; (4) Một Chúa [Đức Chúa Jêsus Christ]; (5) Một đức tin [Không phải chỉ là hệ phái]; (6) Một phép Báptêm; (7) Một Cha chung [Đức Chúa Trời], Ngài ở trên chúng ta, giữa vòng chúng ta, và trong mỗi người chúng ta! Tất cả mọi tín hữu trong Đức Chúa Jêsus đều cùng thuộc về một Thân Thể, được liên hiệp lại dưới duy nhất một Đầu là Đức Chúa Jêsus. Mỗi tín hữu đều được Đức Chúa Trời ban cho những năng lực nhất định để góp phần làm vững mạnh (Gây dựng) cả Thân Thể (Hội Thánh). Khả năng đó của mỗi người có thể nhiều hay ít nhưng tất cả đều là ơn Đức Chúa Trời ban cho để mỗi người được góp phần của mình vào việc gây dựng cộng đoàn Hội Thánh. Mọi ân tứ thuộc linh đều đến từ Đức Chúa Trời và đều thống nhất với nhau trong tác dụng gây dựng Hội Thánh của Ngài. II. ÂN TỨ THUỘC LINH ĐA DẠNG, PHONG PHÚ. Sứ Đồ Phaolô cho chúng ta biết rằng tương tự với việc thân thể người ta có nhiều chi thể với những chức năng khác nhau; Hội Thánh cũng có nhiều chi thể khác nhau với các chức năng khác nhau: “4Vả, như trong một thân chúng ta có nhiều chi thể, và các chi thể không làm một việc giống nhau, 5thì cũng vậy, chúng ta là nhiều người mà hiệp nên một Thân trong Đấng Christ, và hết thảy chúng ta đều là các phần chi thể của nhau” (Rô. 12:4-5). Trong Thân Thể của Đấng Christ là Hội Thánh, không phải ai nấy đều có cùng một vai trò, chức năng như nhau. Sứ Đồ Phaolô chỉ cho thấy rằng chúng ta, nhờ là chi thể của cùng chung một Thân Thể, đều có chung một Thánh Linh; và mỗi một chúng ta phải biết nương dựa nhau vì chúng ta cần có sự hoạt động chung như một tổng thể thống nhất. Mỗi người chúng ta đều cần lẫn nhau như cần chính mình vậy: “12Vả, như thân là một, mà có nhiều chi thể, và như các chi thể của thân dầu có nhiều, cũng chỉ hiệp thành một thân mà thôi, Đấng Christ khác nào như vậy. 13Vì chưng chúng ta hoặc người Giuđa, hoặc người Gờréc, hoặc tôi mọi, hoặc tự chủ, đều đã chịu phép Báptêm chung một Thánh Linh để hiệp làm một Thân; và chúng ta đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa. 14Thân cũng chẳng phải có một chi thể, bèn là nhiều chi thể. 15Nếu chân rằng: Vì ta chẳng phải là tay, nên ta không thuộc về thân, thì chẳng phải bởi đó chân không có phần trong thân. 16Và nếu tai rằng: Vì ta chẳng phải là mắt, nên ta không thuộc về thân, thì tai chẳng phải bởi đó không có phần trong thân. 17Ví bằng cả thân đều là mắt, thì sự nghe ở đâu? Nếu cả thân đều là tai, thì sự ngửi ở đâu? 18Nhưng bây giờ, Đức Chúa Trời đã sắp đặt các chi thể của Thân chúng ta, ban cho mỗi một chi thể cái địa vị theo ý Ngài lấy làm tốt mà chỉ định” (1Cô. 12:12-18). Đức Chúa Trời biết ai là người hiệu quả nhất ở những ân tứ nào, và vào lúc nào; Ngài ban ân tứ thuộc linh cho mỗi người tùy theo sự đẹp ý của Ngài. III. MỘT SỐ CÁC ÂN TỨ THUỘC LINH. Kinh Thánh không xác định rõ số lượng các ân tứ thuộc linh. Chúng ta cũng không nên hạn chế năng lực của Đức Chúa Trời bằng cách hạn định số lượng các ân tứ thuộc linh. Chúng ta nên biết rằng còn có cả những ân tứ thuộc linh mà người ta quá đỗi quen thuộc đến độ không còn nhận ra được rằng đó là ân tứ được Đức Chúa Trời ban cho. Số lượng các ân tứ thuộc linh được Kinh Thánh nhắc đến chưa phải là tất cả: “3Vậy, nhờ ơn đã ban cho tôi, tôi nói với mọi người trong anh em chớ có tư tưởng cao quá lẽ, nhưng phải có tâm tình tầm thường, y theo lượng đức tin mà Đức Chúa Trời đã phú cho từng người. 4Vả, như trong một thân chúng ta có nhiều chi thể, và các chi thể không làm một việc giống nhau, 5thì cũng vậy, chúng ta là nhiều người mà hiệp nên một Thân trong Đấng Christ, và hết thảy chúng ta đều là các phần chi thể của nhau. 6Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta, ai được ban cho nói tiên tri, hãy tập nói theo lượng đức tin; 7ai được gọi đến làm chức vụ, hãy buộc mình vào chức vụ; ai dạy dỗ, hãy chăm mà dạy dỗ; 8ai gánh việc khuyên bảo, hãy khuyên bảo; ai bố thí, hãy lấy lòng rộng rãi mà bố thí; ai cai trị, hãy siêng năng mà cai trị; ai làm sự thương xót, hãy lấy lòng vui mà làm” (Rô. 12:3-8). Các ân tứ thuộc linh được nêu lên ở đây là : (1) Nói tiên tri [Gk. propheteia], (2) Làm chức vụ [Gk. diakonia], (3) Dạy dỗ [Gk. didasko; Êph. 4:11 > “Giáo Sư”, didaskalos], (4) Khuyên bảo [Gk. parakaleo], (5) Bố thí [Gk. metadidomi], (6) Cai trị [Gk. proistemi], (7) Làm sự thương xót [Gk. eleeo]. Chúng ta còn có thể tìm thấy các ân tứ thuộc linh khác như: (8) Nói lời khôn ngoan [Gk. sophia], (9) Nói lời tri thức [Gk. gnosis], (10) Đức tin [Gk. pistis], (11) Chữa tật bịnh [Gk. iama], (12) Làm phép lạ [Gk. dunamis], (13) Phân biệt các thần [Gk. diakrisis], (14) Nói nhiều thứ tiếng khác nhau [Gk. glossa], (15) Thông giải [Gk. hermeneia]. Lời Kinh Thánh phán: “8Vả, người nầy nhờ Đức Thánh Linh, được lời nói khôn ngoan; kẻ kia nhờ một Đức Thánh Linh ấy, cũng được nói lời có tri thức. 9Bởi một Đức Thánh Linh, cho người nầy được đức tin; cũng bởi một Đức Thánh Linh ấy, cho kẻ kia được ơn chữa tật bịnh; người thì được làm phép lạ; kẻ thì được nói tiên tri; người thì được phân biệt các thần; kẻ thì được nói nhiều thứ tiếng khác nhau, người thì được thông giải các thứ tiếng ấy. 11Mọi điều đó là công việc của đồng một Đức Thánh Linh mà thôi, theo ý Ngài muốn, phân phát sự ban cho riêng cho mỗi người” (1Cô. 12:8-11). Trong 1Cô. 12:28, Kinh Thánh cho biết về một số các ân tứ thuộc linh khác: (16) Sứ Đồ [Gk. apostolos], (17) Cứu giúp [Gk. antilepsis], (18) Cai quản [Gk. kubernesis]. Êph. 4:11 nhắc đến các ân tứ thuộc linh (19) Thầy Giảng Tin Lành [Gk. euaggelistes], (20) Mục Sư [Gk. poimen]. Ngoài ra, 1Phi. 4:11 cũng còn đề cập đến ân tứ thuộc linh (21) Giảng luận [Gk. laleo] nữa: “Đức Chúa Trời đã lập trong Hội Thánh, thứ nhứt là Sứ Đồ, thứ nhì là Đấng Tiên Tri, thứ ba là Thầy Giáo, kế đến kẻ làm phép lạ, rồi kẻ được ơn chữa bịnh, cứu giúp, cai quản, nói các thứ tiếng” (1Cô. 12:28). “Ấy chính Ngài đã cho người nầy làm Sứ Đồ, kẻ kia làm Tiên Tri, người khác làm Thầy Giảng Tin Lành, kẻ khác nữa làm Mục Sư và Giáo Sư” (Êph. 4:11). “Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen” (1Phi. 4:11). IV KHÔNG THỂ ĐÒI HỎI, CŨNG KHÔNG THỂ XEM NHẸ ÂN TỨ THUỘC LINH NÀO CẢ. Chúng ta có thể chọn lựa và cầu xin cho được loại ân tứ nào mà ý riêng của chúng ta muốn không? Câu trả lời là “không”: “Mọi điều đó là công việc của đồng một Thánh Linh mà thôi, theo ý Ngài muốn, phân phát sự ban cho riêng cho mỗi người” (1Cô. 12:11). Sự ban cho ân tứ thuộc linh là công việc của duy nhất Đức Chúa Trời, Chúng ta không thể theo ý riêng mà có được. Khả năng khôn ngoan của chúng ta, tính chất hữu lý mà chúng ta nhận thức,… tất cả đều vô nghĩa trước sự toàn tri và quyền tối thượng của Đức Chúa Trời. Theo cách nhìn nhận của Đức Chúa Trời, không có ân tứ thuộc linh nào là kém cõi cả. Tất cả các ân tứ thuộc linh đều phải được xem là quí trọng như nhau: “21Mắt không được nói với bàn tay rằng: Ta chẳng cần đến mầy; đầu cũng chẳng được nói với chân rằng: Ta chẳng cần đến bay. 22Trái lại, các chi thể của thân xem ra rất yếu đuối lại là cần dùng. 23Chi thể nào trong thân chúng ta nghĩ là hèn hạ hơn, thì chúng ta tôn trọng hơn; chi thể nào chẳng đẹp, thì chúng ta lại trau giồi hơn, 24còn như cái nào đã đẹp rồi, thì không cần trau giồi. Nhưng Đức Chúa Trời đã sắp đặt thân người, để chi thể nào thiếu thốn thì được quí trọng hơn, 25hầu cho trong Thân không có sự phân rẽ, mà các chi thể phải đồng lo tưởng đến nhau. 26Lại, trong các chi thể, khi có một cái nào chịu đau đớn, thì các cái khác đều cùng chịu; và khi một cái nào được tôn trọng, thì các cái khác đều cùng vui mừng” (1Cô. 12:21-26). V. PHÁT TRIỂN ÂN TỨ THUỘC LINH LÀ MỘT PHẬN SỰ Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Jêsus ủy thác cho chúng ta các ân tứ thuộc linh của Ngài như một sự đầu tư vào đời sống chúng ta các tài sản của Ngài. Chúng ta sẽ được hưởng lợi của sự đầu tư ấy tùy theo mức độ vâng lời của chúng ta đối với Ngài (Sv. Ma. 25:15, dunamis: “tài”, cũng là “đức hạnh”): “14Vả, Nước Thiên Đàng sẽ giống như một người kia, khi đi đường xa, gọi các đầy tớ mà giao của cải mình. 15Chủ đó cho người nầy năm talâng, người kia hai, người khác một, tùy theo tài mỗi người; đoạn, chủ lên đường. 16Tức thì, người đã nhận năm talâng đi làm lợi ra, và được năm talâng khác. 17Người đã nhận hai talâng cũng vậy, làm lợi ra được hai talâng nữa. 18Song người chỉ nhận một thì đi đào lỗ dưới đất mà giấu tiền của chủ. 19Cách lâu ngày, chủ của những đầy tớ ấy trở về khiến họ tính sổ. 20Người đã nhận năm talâng bèn đến, đem năm talâng khác nữa, và thưa rằng: Lạy chúa, chúa đã cho tôi nămtalâng; đây nầy, tôi làm lợi ra được năm talâng nữa. 21Chủ nói với người rằng: Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi. 22Người đã nhận hai talâng cũng đến mà thưa rằng: Lạy chúa, chúa đã cho tôi hai talâng; đây nầy, tôi đã làm lợi ra được hai talâng nữa. 23Chủ đáp rằng: Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi. 24Người chỉ nhận một talâng cũng đến mà thưa rằng: Lạy chúa, tôi biết chúa là người nghiêm nhặt, gặt trong chỗ mình không gieo, lượm lặt trong chỗ mình không rải ra; 25nên tôi sợ mà đi giấu talâng của chúa ở dưới đất; đây nầy, vật của chúa xin trả cho chúa. 26Song chủ đáp rằng: Hỡi đầy tớ dữ và biếng nhác kia, ngươi biết ta gặt trong chỗ ta không gieo, và lượm lặt trong chỗ ta không rải ra; 27vậy thì ngươi phải đưa bạc của ta lại cho người buôn bạc, rồi khi ta trở về, sẽ lấy vốn và lời. 28Vậy, các ngươi hãy lấy talâng của người nầy mà cho kẻ có mười talâng. 29Vì sẽ cho thêm kẻ nào đã có, thì họ sẽ dư dật; nhưng kẻ nào không có, thì cũng cất luôn điều họ đã có nữa. 30Còn tên đầy tớ vô ích đó, hãy quăng nó ra ngoài là chỗ tối tăm, ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng” (Ma. 25:14-30). Như vậy, chúng ta phải biết vận dụng các ân tứ thuộc linh mà chúng ta đã nhận được theo một phương hướng phát triển nhất, sinh lợi nhất để hoàn thành chương trình đầu tư của Đức Chúa Jêsus trên đời sống của chúng ta. Đức Chúa Jêsus đầu tư vào đời sống của chúng ta là nhằm phát triển: Phát triển chính đời sống của chúng ta và phát triển nhiều đời sống khác trong Hội Thánh. Chúng ta phải khám phá ra các ân tứ thuộc linh mà Đức Chúa Trời đã đầu tư vào đời sống của mình, chúng ta phải biết dốc lòng phát huy hết tác dụng của những gì Chúa đã ban, đừng để bị kể là “Đầy tớ dữ và biếng nhác”. Kinh Thánh bày tỏ cho chúng ta thấy được rằng mọi ân tứ thuộc linh đều bởi Đức Chúa Trời mà có để mọi tín hữu đều có thể góp phần xây dựng gia đình chung của mình là Hội Thánh; do đó, ai cũng có được ít nhất là một ân tứ thuộc linh. Ân tứ thuộc linh vốn đa dạng và phong phú, không hề có việc tất cả mọi người đều có cùng một loại ân tứ thuộc linh giống nhau được. Đòi hỏi người khác phải có cùng loại ân tứ thuộc linh giống như mình, hoặc nhất định đòi cho có loại ân tứ thuộc linh theo ý riêng của mình đều là những sự mong muốn không hợp Kinh Thánh, vì chính Đức Chúa Trời mới là Đấng duy nhất qui định ai được ban cho ân tứ gì trong thời điểm nào. Ân tứ thuộc linh được ban cho mọi tín hữu để ai nấy đều được dự phần trong việc gây dựng Hội Thánh, như vậy cũng không có việc một ân tứ thuộc linh nào đó được kể là dấu hiệu để biểu thị sự cứu rỗi, sự nên thánh, hay tình trạng thuộc linh của Cơ Đốc Nhân. Sau cùng, chỉ thực hành ân tứ thuộc linh cho mục đích gây dựng Hội Thánh mới làm đẹp ý Đức Chúa Trời được, vì ân tứ thuộc linh sẽ vô nghĩa khi thiếu tình yêu thương (Sv. 1Cô. 13). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“‘CÁI GIẰM’ TRONG ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC NHÂN” (2Cô. 12:5-10) “Vậy nên, e rằng tôi lên mình kiêu ngạo bởi sự cao trọng cả thể của những sự tỏ ra ấy chăng, t hì đã cho một cái giằm xóc vào thịt tôi, tức là quỉ sứ của Satan, để vả tôi, và làm cho tôi đừng kiêu ngạo” (2Cô. 12:7) “Vậy nên, e rằng tôi lên mình kiêu ngạo bởi sự cao trọng cả thể của những sự tỏ ra ấy chăng, thì đã cho một cái giằm xóc vào thịt tôi, tức là quỉ sứ của Satan, để vả tôi, và làm cho tôi đừng kiêu ngạo” (2Cô. 12:7) -- Theo một chuyện ngụ ngôn của Aesop, có hai chú gà trống đá nhau để giành quyền làm chủ sân kho. Chú gà thua cuộc phải lặng lẽ lẻn đi chỗ khác, nấp mình trong bụi cây, đầy tủi hổ. Trong khi đó, chú gà thắng cuộc nhảy tót lên mái nhà, vỗ cánh, gáy vang mấy hồi liền. Một con diều hâu lớn chứng kiến từ đầu đến cuối câu chuyện, từ trên cây cao bổ nhào xuống, cắp chặt chú gà đang gáy giữa những móng vuốt không sao thoát được, đem đi mất dạng. Còn lại chỉ có một mình, chú gà thua cuộc mặc nhiên trở thành kẻ thắng cuộc. Khi thắng cuộc, con người cũng có khuynh hướng “gáy” như thế. Về mặt bản chất, con người vốn có khuynh hướng tự kỷ trung tâm và kiêu ngạo. Thậm chí, ngay cả khi không có sự cố đặc biệt gì, chỉ cần được bình tịnh, yên ổn, thoải mái, người ta cũng trở thành tự mãn, không biết nương cậy. Thế nhưng Kinh Thánh cảnh báo rằng “Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau,_Và tánh tự cao đi trước sự sa ngã” (Châm 16:18). Sự trước thuật trong 2Cô. 12:1- 4 cho thấy Sứ Đồ Phaolô đã kinh nghiệm được những đắc thắng thuộc linh hết sức đặc biệt nhưng rồi ông cũng đã trải qua cuộc tranh chiến với tính tự kỷ trung tâm, và những niềm hân hoan ông nhận được cũng đồng thời là cạm bẫy cho linh hồn. Không ít người trong chúng ta đang đứng trước mối hại của trạng thái ổn định. Hễ khi nào cuộc sống chúng ta được thuận lợi, tiền bạc dồi dào, tình cảm thỏa mãn,… thì đó cũng chính là lúc chúng ta đứng trước nguy cơ về một tấm lòng thoái hóa: Ngủ quên, càng lúc càng trở nên tự mãn, ít biết nương cậy. Để giữ chúng ta khỏi mối hại lớn của một tấm lòng mê muội, lạc lầm, đôi khi Đức Chúa Trời cho phép sự trục trặc, đau đớn, hoặc đau khổ xảy đến với chúng ta hầu cho chúng ta thức tỉnh mà quay trở lại nương cậy Ngài: “Vậy nên, e rằng tôi lên mình kiêu ngạo bởi sự cao trọng cả thể của những sự tỏ ra ấy chăng, thì đã cho một cái giằm xóc vào thịt tôi, tức là quỉ sứ của Satan, để vả tôi, và làm cho tôi đừng kiêu ngạo” (2Cô. 12:7). Lời Kinh Thánh này giải đáp được một loạt các câu hỏi “Tại sao?” của chúng ta: Tại sao Đức Chúa Trời lại để cho chúng ta phải chịu khổ? Tại sao chúng ta phải nếm mùi đau đớn thể chất và tinh thần? Tại sao thân xác chúng ta phải hao mòn, tình cảm chúng ta phải biến dạng? Đức Chúa Trời cho phép những điều như thế đến với đời sống của chúng ta để giữ chúng ta ở trong sự hạ mình, tỉnh thức, nương cậy Ngài luôn luôn. Đức Chúa Trời không phải chỉ quan tâm ở những gì chúng ta hoàn thành cho Ngài mà Ngài cũng còn quan tâm đến việc chúng ta trông cậy Ngài như thế nào nữa. Đã từng có nhiều học giả Kinh Thánh tranh luận với nhau trong một thời gian dài về vấn đề bản chất của “cái giằm” của Sứ Đồ Phaolô. Tuy nhiên, Kinh Thánh cho thấy vị Sứ Đồ này không lập luận mà chỉ sử dụng bốn từ liệu khác nhau để mô tả cho chúng ta biết “cái giằm” ấy là gì. I. “CÁI GIẰM XÓC VÀO THỊT” (C. 7) Việc cho biết rằng“Một cái giằm xóc vào thịt tôi” (Gk. skolops > cây gai) có thể gợi ý cho chúng ta về sự đau đớn thuộc thể, và rất có thể là Sứ Đồ Phaolô đã nghĩ đến nỗi đau của Đức Chúa Jêsus trên Thập Tự Giá, Ngài đã phải chịu gai đâm khi “Họ đương một cái mão gai mà đội trên đầu” của Ngài (Ma. 27:29). Chiếc mão gai này khi được ấn xuống (“Đội”: Gk. epitithemi > chụp xuống) chắc chắn đã gây đau đớn và làm cho máu từ đầu, trán của Đức Chúa Jêsus phải chảy nhiều trên khuôn mặt của Ngài. Sứ Đồ Phaolô và chúng ta không phải chịu một “cái mão gai” giống như của Đức Chúa Jêsus mà chỉ có thể là một “cây gai” như thế nào đó mà thôi. Phần lớn các nhà chú giải Kinh Thánh tin rằng Phaolô nói về “cái giằm” để chỉ một bệnh chứng thuộc thể nào đó. Tuy nhiên, một số nhà chú giải khác cho rằng Phaolô nói đến một sự bắt bớ mà ông phải chịu đựng một cách nhức nhối như bị gai đâm vào da, thịt. Ngoài ra, cũng có một số người nghĩ rằng đó là một sự cám dỗ có liên quan đến vấn đề luân lý cứ mãi vây quanh vị Sứ Đồ này và ông phải tranh chiến với nó. Chúng ta không thể nói chắc đó là cái gì, nhưng chúng ta có thể để ý đến lời nhận xét rất có ích của J. Oswald Sanders: “Thoạt đầu, Sứ Đồ Phaolô xem đó như là một sự trở ngại, nhưng về sau, khi vị Sứ Đồ này nhìn nhận vấn đề theo một góc độ đáng nên có, Sứ Đồ Phaolô nhận ra được rằng đó là một điều có ích”. II. “QUỈ SỨ CỦA SATAN” (C. 7) Cho đến ngày nay, Satan vẫn còn làm những sự quấy nhiễu, châm chích của nó. Chúng ta thường mất quân bình trong việc đánh giá sự tác động của Ma Quỉ đằng sau các sự trục trặc mà chúng ta gặp phải: Nhiều khi chúng ta xem thường ảnh hưởng tà ác của Satan, lắm lúc chúng ta lại quá cường điệu nó, qui tất cả mọi sự cho nó mà không nhìn nhận trách nhiệm cá nhân của mình. Hãy để ý đến cách Sứ Đồ Phaolô qui trách cho Satan: - Khi gặp phải những người ngăn trở chức vụ mình, Sứ Đồ Phaolô kể họ như là con cái của Ma Quỉ, cần phải được sửa dạy để “…25Đức Chúa Trời ban cho họ sự ăn năn để nhìn biết lẽ thật, 26và họ tỉnh ngộ mà gỡ mình khỏi lưới Ma Quỉ, vì đã bị Ma Quỉ bắt lấy đặng làm theo ý nó” (2Ti. 2:25-26). - Khi đối đầu với những kẻ gây sự rối loạn trong Hội Thánh, Sứ Đồ Phaolô nhận biết được bàn tay thủ đoạn của Satan: “17Hỡi anh em, tôi khuyên anh em coi chừng những kẻ gây nên bè đảng và làm gương xấu, nghịch cùng sự dạy dỗ mà anh em đã nhận. Phải tránh xa họ đi…20Đức Chúa Trời bình an sẽ kíp giày đạp quỉ Satan dưới chân anh em. Nguyền xin Ân Điển của Đức Chúa Jêsus chúng ta ở cùng anh em!” (Rô. 16:17-20). - Khi không thể đến thăm Hội Thánh Têsalônica được, Sứ Đồ Phaolô xem đó là sự ngăn trở của Satan: “Vì vậy, đã hai lần, chúng tôi, nhứt là tôi, Phaolô, muốn đi đến cùng anh em; nhưng quỉ Satan đã ngăn trở chúng tôi” (1Tê. 2:18). Ở đây, 2Cô. 12:7, Sứ Đồ Phaolô gọi sự bất lợi nội tại trong bản thân ông là “quỉ sứ của Satan”. Satan có thể làm cho chúng ta trở nên đau yếu, phiền muộn, sa sút,… Mặc dầu xuất phát điểm của điều ác không phải ở Đức Chúa Trời, Ngài vẫn có thể vận dụng các thủ đoạn của Satan để gia tốc các mục đích của Ngài trên đời sống của những ai chịu vâng lời Ngài, biết đáp ứng với trở lực một cách thỏa đáng. Một sự minh họa cho lẽ thật này trong Cựu Ước là Gióp. Satan đã vùi dập con người đáng thương này đến là thế, thế nhưng Đức Chúa Trời đã dùng sự công kích của Satan để phát triển đức tin của Gióp, và cuối cùng đã ban phước cho Gióp bội phần hơn. III. “NÓ” (C. 8) Nhắc lại “cái giằm” là tai ách trong đời sống của mình, Sứ Đồ Phaolô dùng một từ liệu tổng quát: “Nó”. Sứ Đồ Phaolô cho biết: “Đã ba lần tôi cầu nguyện Chúa cho nó lìa xa tôi” (2Cô. 12:8) Bằng việc dùng đại từ trung tính “nó” (Gk. toutou > cái này), vị Sứ Đồ này đã giấu không tiết lộ bản chất đích thực của “cái giằm” là gì. Đức Chúa Trời khôn ngoan cả trong sự khải thị lẫn trong sự kín giấu. Với việc đề cập tổng quát như thế, Sứ Đồ Phaolô thiết lập một nguyên lý chung cho tất cả chúng ta: Mỗi người chúng ta, tùy theo từng giai đoạn của cuộc đời mình, đều có “một cái giằm xóc vào thịt” hiểu theo nghĩa ứng dụng trên các lĩnh vực cả thuộc thể lẫn thuộc linh; cả thân xác lẫn lý trí, ý chí, và tình cảm. Nếu Sứ Đồ Phaolô chỉ rõ một cách dứt khoát cho thấy “cái giằm” là gì, chúng ta sẽ thôi không còn bận tâm đến nó nữa vì xem đó chỉ là nan đề riêng của Sứ Đồ Phaolô mà thôi. Thế nhưng, nhờ việc Kinh Thánh khải thị một cách tổng quát, chúng ta học được một nguyên lý cho đời sống Cơ Đốc: Từng hồi, từng lúc, trên bước đường theo Chúa, Cơ Đốc Nhân phải xử lý với những trở ngại nội tại nhất định của bản thân. Sứ Đồ Phaolô đã cầu nguyện ba lần, bằng với số lần Đức Chúa Jêsus đã cầu nguyện trong vườn Ghếtsêmanê, và cũng đã quay trở lại với cùng một sự trả lời của Đức Chúa Cha: “Không!”. Tại sao có khi Đức Chúa Trời không nhậm lời cầu xin thiết tha của chúng ta xin được chữa lành một bệnh chứng, thoát khỏi một thời điểm khó khăn về tinh thần, vượt qua một giai đoạn khủng hoảng tâm lý_tình cảm,…? Ấy là vì Ngài đã dự định điều tốt hơn cho chúng ta. Đôi khi Ngài không ban cho chúng ta một sự bình an thuộc thể nào đó để chúng ta có được một kinh nghiệm thuộc linh cao hơn. Cũng có khi Ngài không sớm đưa chúng ta ra khỏi một giai đoạn khủng hoảng tâm lý_tình cảm để hình thành và làm cho sâu đậm bông trái thuộc linh trên đời sống chúng ta hầu cho chúng ta hiệu quả hơn trong việc phục vụ tha nhân, làm vinh hiển danh thánh của Ngài. IV. “SỰ YẾU ĐUỐI” (C. 9) Qua sự đáp lời cho Sứ Đồ Phaolô, Đức Chúa Trời đã bày tỏ một lẽ thật quan trọng: “Ân Điển Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cô. 12:9a). Sự đáp ứng của Sứ Đồ Phaolô đối với lẽ thật ấy đem lại cho chúng ta một nguyên tắc sống: “9Vậy tôi sẽ rất vui lòng khoe mình về sự yếu đuối tôi, hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi. 10Cho nên tôi vì Đấng Christ mà đành chịu trong sự yếu đuối, nhuốc nhơ, túng ngặt, bắt bớ, khốn khó; vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ” (2Cô. 12:9b-10). “Sự yếu đuối” (C. 9, Gk. astheneia > sự bất lực) nói về tình trạng thiếu kém, hạn chế. Làm thế nào có thể “khoe” (C. 9, Gk. kauchaomai > lấy làm tự hào) về sự yếu đuối? Chúng ta chỉ có thể bình an chịu đựng những “cái giằm” trong đời sống mình nếu chúng ta biết và tin quyết rằng đó là những khí cụ trong tay Đấng đang gọt dũa để cuối cùng chúng ta trở nên tôn quí và được tràn ngập sự vui mừng. Ma Quỉ có đang châm chích quí vị bằng một “cái giằm” khó chịu nào đó không? “Cái giằm” ấy có thể là một sự bất toàn hay một bệnh chứng nào đó. “Cái giằm” ấy cũng có thể là một sự đau đớn trong thân xác nhưng cũng có thể là một nỗi buồn khổ trong tình cảm. “Cái giằm” có thể là do sự hạn chế của bản thân nhưng cũng có thể là do hoàn cảnh tạo ra; hoặc do cả hai điều ấy hợp lại mà có. “Cái giằm” đang có trong quí vị có thể là “Quỉ sứ của Satan”, nhưng đó cũng chính là công cụ đang ở trong tay của Đức Chúa Trời kính yêu của chúng ta. Đừng quên rằng Ma Quỉ muốn dùng “cái giằm” ấy để nghiền nát chúng ta nhưng Đức Chúa Trời đang vận dụng mưu gian ác của nó để rèn luyện chúng ta cho được nhanh hơn, cao hơn, mạnh hơn. Một khi Sứ Đồ Phaolô nhận thức được rằng “cái giằm” là điều được Đức Chúa Trời ban cho (C. 7, “Đã cho một cái giằm”, Gk. didomi > trao ban), thái độ của vị Sứ Đồ này hoàn toàn thay đổi. Một khi Sứ Đồ Phaolô nhận được sự bảo an Thiên Thượng rằng “Ân Điển Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối” (C. 9a), vị Sứ Đồ này hoàn toàn được chuyển biến: “Vậy tôi sẽ rất vui lòng khoe mình về sự yếu đuối tôi, hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi” (C 9b), và “Khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ” (C. 10b). Hãy học theo Sứ Đồ Phaolô, hãy xem “cái giằm” đang có trong giai đoạn này của đời sống mình là một sự trao ban của Đức Chúa Trời và hãy thay đổi thái độ. Hãy nhận biết rằng mục đích của Đức Chúa Trời khi Ngài cho phép chúng ta chịu đựng “cái giằm” là để đem chúng ta vào trong những chiều kích mới của Ân Điển Ngài hầu cho đời sống chúng ta thăng hoa, tâm hồn chúng ta thắm đượm những hương sắc Thiên Đàng mà chúng ta chưa được kinh nghiệm. Đó chính là sự bí mật của những lời cầu xin chưa được nhậm và những nỗi đau dai dẳng trong thân thể và linh hồn của chúng ta: “Chúng ta cầu xin sức lực để có thể thắng vượt, nhưng chúng ta vẫn còn bị đặt trong sự mòn mỏi để biết vâng lời. Chúng ta cầu xin được khỏe mạnh để làm những việc lớn, nhưng chúng ta phải chịu sự yếu đuối là để làm được nhiều việc tốt. Chúng ta cầu xin quyền năng để được tỏa sáng, nhưng chính sự bất toàn khiến cho chúng ta biết nương cậy Đức Chúa Trời. Chúng ta cầu xin nhiều điều để hưởng thụ đời sống này, nhưng chúng ta không nhớ rằng chúng ta đã được ban cho đời sống này để vui hưởng mọi điều” (J. Oswald Sanders). Hãy có lòng vui mừng. “Cái giằm” châm chích chúng ta, nhưng đồng thời, bởi Ân Điển của Đức Chúa Trời, nó cũng khơi dậy than lửa nghị lực đang bị vùi tro trong linh hồn ngủ quên của chúng ta. Hãy lắng nghe Đức Thánh Linh hát bằng lời phán của Đức Chúa Trời: “Ân Điển Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối” Hãy chấp nhận “cái giằm” như một công cụ mà Đức Chúa Trời đã gửi đến để thăng tiến đời sống chúng ta! Hãy cười lên, đứng dậy, bước đi để thực hành quyền năng của Đức Chúa Trời! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“SỐNG THỜ PHƯỢNG BẰNG ĐỜI SỐNG BIẾN ĐỔI” (Rô. 12:1-2) “1Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em. 2Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô. 12:1-2) I. KINH THÁNH “1Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em. 2Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô. 12:1-2) II. GIẢI NGHĨA 1. Sống thờ phượng bằng đời sống biến đổi đòi hỏi một sự biến đổi hợp Kinh Thánh về quan hệ với Đức Chúa Trời (Sv. C. 1). (1) “dâng”: Gr. παρίστημι [paristemi] > “đặt bên cạnh” > “đầu phục” (2) “thân thể”: Gr. σῶμα [soma] > “thân mạng” > “đời sống” (3) “sự thờ phượng phải lẽ”: Gr. λογικός λατρεία [logikos latreia] > “sự hầu việc phải phép” Sự biến đổi hợp Kinh Thánh về quan hệ của Cơ Đốc Nhân với Đức Chúa Trời là dâng cả đời sống để hầu việc Ngài vì chúng ta mắc nợ Ngài mọi sự! (1) Chúng ta vốn bất xứng hoàn toàn đối với Đức Chúa Trời… “Vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo luật pháp mà sẽ được xưng công bình trước mặt Ngài, vì luật pháp cho người ta biết tội lỗi” (Rô. 3:20) (2) Nhưng chúng ta đã được Ngài kể là sạch tội… “Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được hòa thuận với Đức Chúa Trời, bởi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta” (Rô. 5:1) (3) Nhờ sự tha thứ hoàn toàn của Ngài. “Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Rô. 8:1) “7Vả, chẳng có người nào trong chúng ta vì chính mình mà sống, cũng chẳng có người nào trong chúng ta vì chính mình mà chết; 8vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, và nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy nên chúng ta hoặc sống hoặc chết, đều thuộc về Chúa cả. 9Đấng Christ đã chết và sống lại, ấy là để làm Chúa kẻ chết và kẻ sống” (Rô. 14:7-9) 2. Sống thờ phượng bằng đời sống biến đổi đòi hỏi một sự biến đổi hợp Kinh Thánh về tấm lòng của Cơ Đốc Nhân (Sv. C. 2). (1) “biến hóa”: Gr. μεταμορφόω [metamorphoo] > “thay hình đổi dạng thành tốt hơn” (2) “tâm thần”: Gr. νοῦς [nous] > “tấm lòng” > “nơi diễn ra mọi sự vận động của linh và hồn” (3) “thử”: Gr. δοκιμάζω [dokimazo] > “làm cho thấy chứng cứ” “Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em” (Rô. 8:29; Sv. 28-30) III. ÁP DỤNG 1. Đời sống chúng ta phải là đời sống thờ phượng và hầu việc! “Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em” (Rô. 12:1) 2. Đời sống chúng ta phải ngày càng trở nên giống Chúa nhiều hơn! “Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô. 12:2) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“SỐNG THỜ PHƯỢNG BẰNG ĐỜI SỐNG TẬN HIẾN” (Rô. 6:12-14; Sv. 12-23) “12Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó. 13Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình. 14Vì tội lỗi không cai trị trên anh em đâu; bởi anh em chẳng thuộc dưới Luật Pháp, mà thuộc dưới Ân Điển” (Rô. 6:12-14; Sv. 12-23) I. KINH THÁNH “12Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó. 13Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình. 14Vì tội lỗi không cai trị trên anh em đâu; bởi anh em chẳng thuộc dưới Luật Pháp, mà thuộc dưới Ân Điển” (Rô. 6:12-14; Sv. 12-23) II. GIẢI NGHĨA 1. Phải sống thờ phượng bằng đời sống tận hiến vì đã không còn ở dưới sự khống chế của tội lỗi nữa (Sv. C. 12) (1) “cai trị”: Gr. βασιλεύω [basileuo] > “nắm toàn quyền như vua” (2) “chiều”: Gr. ὑπακούω [hupakouo] > “vâng theo” (3) “tư dục”: Gr. ἐπιθυμία [epithumia] > “sự ham muốn” “Những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh em bị cám dỗ quá sức mình đâu; nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được” (1Cô. 10:13) 2. Phải sống thờ phượng bằng đời sống tận hiến vì đã được dùng như công cụ công bình của Đức Chúa Trời (Sv. C. 13) (1) “nộp”: Gr. παρίστημι [paristemi] > “đứng với”, “chung chạ” (2) “phó”: Gr. παρίστημι [paristemi] > “dâng mình” (3) “đồ dùng”: Gr. ὅπλον [hoplon] > “công cụ”, “vũ khí” ĐỊCH THỦ THUỘC LINH & CHIẾN PHÁP ĐỐI ĐỊCH Địch Thủ: Chiến Pháp: (1) Thế Gian (1Gi. 2:15-17) (1) Tránh Xa (1Ti. 6:11; 2Ti. 2:22) (2) Xác Thịt (Rô. 7:18-24) (2) Kiềm Chế (Rô. 6:12-13; 8:13) (3) Ma Quỉ (1Phi. 5:8) (3) Chống Cự (1Phi. 5:9) “20Nhưng anh em học cho biết Đấng Christ thì chẳng phải như vậy, 21vì anh em đã nghe đạo Ngài, và được dạy dỗ trong Ngài (y theo lẽ thật trong Đức Chúa Jêsus) 22rằng anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành, 23mà phải làm nên mới trong tâm chí mình, 24và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật” (Êph. 4:20-24; Sv. 17-24) 3. Phải sống thờ phượng bằng đời sống tận hiến vì đã được giải trừ khỏi sự định tội của Luật Pháp (Sv. C. 14) (1) “thuộc”: Gr. κυριεύω [kurieuo] > “làm chúa” (2) “Luật Pháp”: Gr. νόμος [nomos] > “lề luật theo qui định” (3) “Ân Điển”: Gr. χάρις [charis] > “sự chiếu cố theo ân huệ” “11Vả, Ân Điển Đức Chúa Trời hay cứu mọi người, đã được bày tỏ ra rồi. 12Ân ấy dạy chúng ta chừa bỏ sự không tin kính và tình dục thế gian, phải sống ở đời nầy theo tiết độ, công bình, nhân đức, 13đương chờ đợi sự trông cậy hạnh phước của chúng ta, và sự hiện ra của sự vinh hiển Đức Chúa Trời lớn và Cứu Chúa chúng ta, là Đức Chúa Jêsus Christ, 14là Đấng liều mình vì chúng ta, để chuộc chúng ta khỏi mọi tội và làm cho sạch, đặng lấy chúng ta làm một dân thuộc riêng về Ngài, là dân có lòng sốt sắng về các việc lành” (Tít 2:11-14; Sv. Ma. 11:28-30) III. ÁP DỤNG 1. Phải luôn luôn kháng cự cám dỗ! “Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó” (Rô. 6:12) 2. Phải luôn luôn theo đuổi đời sống mới! “Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình” (Rô. 6:13; Sv. 2Cô. 5:17) 3. Phải luôn luôn tìm kiếm ý chỉ của Đức Chúa Trời! “Vì tội lỗi không cai trị trên anh em đâu; bởi anh em chẳng thuộc dưới Luật Pháp, mà thuộc dưới Ân Điển” (Rô. 6:14) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |