“THỌ TẠO ĐỂ VÂNG LỜI” (Sáng. 2:8-17) “8Đoạn, Giêhôva Đức Chúa Trời lập một cảnh vườn tại Êđen, ở về hướng Đông, và đặt người mà Ngài vừa dựng nên ở đó. 9Giêhôva Đức Chúa Trời khiến đất mọc lên các thứ cây đẹp mắt, và trái thì ăn ngon; giữa vườn lại có cây sự sống cùng cây biết điều thiện và điều ác. 10Một con sông từ Êđen chảy ra đặng tưới vườn; rồi từ đó chia ra làm bốn ngả. 11Tên ngả thứ nhứt là Bisôn; ngả đó chảy quanh xứ Havila, là nơi có vàng. 12Vàng xứ nầy rất cao; đó lại có nhũ hương và bích ngọc. 13Tên sông thứ nhì là Ghihôn, chảy quanh xứ Cusơ. 14Tên sông thứ ba là Hiđêke, chảy về phía đông bờ cõi Asiri. Còn sông thứ tư là sông Ơphơrát. 15Giêhôva Đức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Êđen để trồng và giữ vườn. 16Rồi, Giêhôva Đức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; 17nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết” (Sáng. 2:8-17) I. KINH THÁNH “8Đoạn, Giêhôva Đức Chúa Trời lập một cảnh vườn tại Êđen, ở về hướng Đông, và đặt người mà Ngài vừa dựng nên ở đó. 9Giêhôva Đức Chúa Trời khiến đất mọc lên các thứ cây đẹp mắt, và trái thì ăn ngon; giữa vườn lại có cây sự sống cùng cây biết điều thiện và điều ác. 10Một con sông từ Êđen chảy ra đặng tưới vườn; rồi từ đó chia ra làm bốn ngả. 11Tên ngả thứ nhứt là Bisôn; ngả đó chảy quanh xứ Havila, là nơi có vàng. 12Vàng xứ nầy rất cao; đó lại có nhũ hương và bích ngọc. 13Tên sông thứ nhì là Ghihôn, chảy quanh xứ Cusơ. 14Tên sông thứ ba là Hiđêke, chảy về phía đông bờ cõi Asiri. Còn sông thứ tư là sông Ơphơrát. 15Giêhôva Đức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Êđen để trồng và giữ vườn. 16Rồi, Giêhôva Đức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; 17nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết” (Sáng. 2:8-17) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức Chúa Trời ban cho con người mà Ngài đã tạo dựng một cuộc an định thuận lợi cho mối tương giao mật thiết với Ngài! (C. 8-14) (1) Một sự sắp đặt hoàn hảo cho mối tương giao với Ngài (C. 8-9). a. “cảnh vườn”: Hb. ןג [gan], “khuôn viên” b. “đặt”: Hb. םושׂ [suwm], “để vào chỗ” c. “sự sống”: Hb. יח [chay], “sống động” d. “điều thiện”: Hb. בוט [towb], “điều ưng ý” e. “điều ác”: Hb. ער [ra‘], “điều trái ý” (2) Một sinh cảnh lý tưởng cho việc vâng lời Ngài (C. 10-14; Sv. Êx. 28:13). a. “sông”: Hb. רהנ [nahar], “dòng chảy” b. “tưới”: Hb. הקשׁ [shaqah], “cho uống nước” 2. Đức Chúa Trời thiết lập một cơ chế đặc biệt cùng với một sự hạn định an toàn để giữ cho cuộc an định ấy được trường tồn! (C. 15-17) (1) Một cơ chế phước hạnh (C. 15). a. “đem”: Hb. חני [yanach], “an cư” (Sáng. 19:16; Phục. 12:10) b. “trồng”: Hb. דבע [‘abad]; “hầu việc” c. “giữ”: Hb. רמשׁ [shamar], “tuân giữ” (2) Một sự hạn định an toàn (C. 16-17). a. “tự do ăn”: Hb. לכא [‘akal], “tận hưởng” b. “chết”: Hb. תומ [muwth], “phân li” III. ÁP DỤNG 1. Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên con người và muốn con người ở trong mối tương giao mật thiết với Ngài! “8Đoạn, Giêhôva Đức Chúa Trời lập một cảnh vườn tại Êđen, ở về hướng Đông, và đặt người mà Ngài vừa dựng nên ở đó. 9Giêhôva Đức Chúa Trời khiến đất mọc lên các thứ cây đẹp mắt, và trái thì ăn ngon; giữa vườn lại có cây sự sống cùng cây biết điều thiện và điều ác” (Sáng. 2:8-9) 2. Sự dự ứng quan phòng của Đức Chúa Trời dành cho con người là tối hảo! “10Một con sông từ Êđen chảy ra đặng tưới vườn; rồi từ đó chia ra làm bốn ngả. 11Tên ngả thứ nhứt là Bisôn; ngả đó chảy quanh xứ Havila, là nơi có vàng. 12Vàng xứ nầy rất cao; đó lại có nhũ hương và bích ngọc. 13Tên sông thứ nhì là Ghihôn, chảy quanh xứ Cusơ. 14Tên sông thứ ba là Hiđêke, chảy về phía đông bờ cõi Asiri. Còn sông thứ tư là sông Ơphơrát. 15Giêhôva Đức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Êđen để trồng và giữ vườn” (Sáng. 2:10-15) 3. Con người có phận sự phải vâng lời Đức Chúa Trời! “ 16Rồi, Giêhôva Đức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; 17nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết” (Sáng. 2:16-17) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THỌ TẠO ĐỂ TIN CẬY” (Sáng. 15:1-6) “1Sau các việc đó, trong sự hiện thấy có lời Đức Giêhôva phán cùng Ápram rằng: Hỡi Ápram! Ngươi chớ sợ chi; Ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn. 2Ápram thưa rằng: Lạy Chúa Giêhôva, Chúa sẽ cho tôi chi? Tôi sẽ chết không con, kẻ nối nghiệp nhà tôi là Êliêse, người Đamách. 3Ápram lại nói rằng: Nầy, Chúa làm cho tôi tuyệt tự; một kẻ tôi tớ sanh đẻ tại nhà tôi sẽ làm người kế nghiệp tôi. 4Đức Giêhôva bèn phán cùng Ápram rằng: Kẻ đó chẳng phải là kẻ kế nghiệp ngươi đâu, nhưng ai ở trong gan ruột ngươi ra, sẽ là người kế nghiệp ngươi. 5Đoạn, Ngài dẫn người ra ngoài và phán rằng: Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy. 6Ápram tin Đức Giêhôva, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người” (Sáng. 15:1-6) I. KINH THÁNH “1Sau các việc đó, trong sự hiện thấy có lời Đức Giêhôva phán cùng Ápram rằng: Hỡi Ápram! Ngươi chớ sợ chi; Ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn. 2Ápram thưa rằng: Lạy Chúa Giêhôva, Chúa sẽ cho tôi chi? Tôi sẽ chết không con, kẻ nối nghiệp nhà tôi là Êliêse, người Đamách. 3Ápram lại nói rằng: Nầy, Chúa làm cho tôi tuyệt tự; một kẻ tôi tớ sanh đẻ tại nhà tôi sẽ làm người kế nghiệp tôi. 4Đức Giêhôva bèn phán cùng Ápram rằng: Kẻ đó chẳng phải là kẻ kế nghiệp ngươi đâu, nhưng ai ở trong gan ruột ngươi ra, sẽ là người kế nghiệp ngươi. 5Đoạn, Ngài dẫn người ra ngoài và phán rằng: Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy. 6Ápram tin Đức Giêhôva, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người” (Sáng. 15:1-6) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức Chúa Trời hằng tể trị trên cuộc đời của Ápram và Ngài đã định mạng cho Ápram có tương lai vẻ vang (C. 1; Sv. Ma. 10:30). (1) “cái thuẫn đỡ”: Hb. ןגמ [magen], “sự che chắn” (2) “phần thưởng”: Hb. רכשׂ [sakar], “tiền công” 2. Ápram thiếu tầm nhìn Thiên Thượng và đã có sự nhận thức sai, cho rằng tương lai của mình sẽ hẩm hiu (C. 2-3; Sv. Ês. 55:8-9). (1) “cho chi?”: Hb. ןתנ [nathan], “ban cấp” (2) “chết không con”: Hb. ערז [zera‘],“chẳng có con cho đến chết” (3) “tuyệt tự”: Hb. ירירע [‘ariyriy], “kết thúc dòng họ” 3. Đức Chúa Trời ban giao ước đời đời của Ngài về dòng dõi thuộc thể và thuộc linh của Ápram (C. 4-5; Sv. Ês. 55:10-11). (1) “trong gan ruột”: Hb. העמ [me‘ah], “ruột thịt” (2) “người kế nghiệp”: Hb. שׁרי [arash], “người kế tục dòng họ” (3) “đếm”: Hb. רפס [caphar], “xác định số lượng” 4. Được sự khải thị của Đức Chúa Trời, đức tin của Ápram gia tăng và Đức Chúa Trời đẹp ý kể Ápram là người công nghĩa (C. 6; Sv. Rô. 4:18; Hê. 11:1, 8-11). (1) “tin”: Hb. ןמא [‘aman], “hiểu biết, đồng ý, và kỳ vọng” (2) “công bình”: Hb. הקדצ [tsᵉdaqah], “phải lẽ” III. ÁP DỤNG 1. Chúng ta phải thận trọng trong việc nhận thức về đường lối của Đức Chúa Trời trên đời sống mình! “1Sau các việc đó, trong sự hiện thấy có lời Đức Giêhôva phán cùng Ápram rằng: Hỡi Ápram! Ngươi chớ sợ chi; Ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn. 2Ápram thưa rằng: Lạy Chúa Giêhôva, Chúa sẽ cho tôi chi? Tôi sẽ chết không con, kẻ nối nghiệp nhà tôi là Êliêse, người Đamách. 3Ápram lại nói rằng: Nầy, Chúa làm cho tôi tuyệt tự; một kẻ tôi tớ sanh đẻ tại nhà tôi sẽ làm người kế nghiệp tôi” (Sáng. 15:1-3) 2. Sự phán hứa của Đức Chúa Trời là bất di, bất dịch vì Ngài là Đấng thành tín! “4Đức Giêhôva bèn phán cùng Ápram rằng: Kẻ đó chẳng phải là kẻ kế nghiệp ngươi đâu, nhưng ai ở trong gan ruột ngươi ra, sẽ là người kế nghiệp ngươi. 5Đoạn, Ngài dẫn người ra ngoài và phán rằng: Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy” (Sáng. 15:4-5) 3. Chúng ta phải sống đức tin, luôn trông cậy Đức Chúa Trời! “Ápram tin Đức Giêhôva, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người” (Sáng. 15:6) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THỌ TẠO ĐỂ HIỂU BIẾT” (Xuất. 3:13-14) “13Môise thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: Nầy, tôi sẽ đi đến dân Ysơraên, nói cùng họ rằng: Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi sai ta đến cùng các ngươi; nhưng nếu họ hỏi: Tên Ngài là chi? Thì tôi nói với họ làm sao? 14Đức Chúa Trời phán rằng: Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu; rồi Ngài lại rằng: Hãy nói cho dân Ysơraên như vầy: Đấng Tự Hữu đã sai ta đến cùng các ngươi” (Xuất. 3:13-14) I. KINH THÁNH “13Môise thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: Nầy, tôi sẽ đi đến dân Ysơraên, nói cùng họ rằng: Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi sai ta đến cùng các ngươi; nhưng nếu họ hỏi: Tên Ngài là chi? Thì tôi nói với họ làm sao? 14Đức Chúa Trời phán rằng: Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu; rồi Ngài lại rằng: Hãy nói cho dân Ysơraên như vầy: Đấng Tự Hữu đã sai ta đến cùng các ngươi” (Xuất. 3:13-14) II. GIẢI NGHĨA 1. Người theo Chúa phải có phận sự học biết Chúa (C. 13; Sv. Xuất. 6:3; 1Phi. 3:15; 2Phi. 3:18a). (1) “đến cùng các ngươi”: Hb. אוב [bow’]; “lãnh đạo” (2) “của tổ phụ các ngươi”: Hb. בא [‘ab], “cha” (3) “Tên Ngài là chi?”: Hb. םשׁ [shem], “danh xưng” (Sv. 1Sa. 25:25) (4) “Nói với họ làm sao?”: Hb. רמא [‘amar], “trả lời” 2. Sự hiểu biết Chúa phải căn cứ chính trên sự khải thị của Chúa (C. 14a; Sv. Gióp 11:7; Phục. 29:29) (1) “Đức Chúa Trời phán”: Hb. רמא [‘amar], “bày tỏ” (2) “Tự Hữu Hằng Hữu”: Hb. היה היה [hayah hayah], “Ta là Ta” (Sv. Thi. 90:2; Ês. 44:6) 3. Thể theo sự hiểu biết Chúa, phải có sự xác tín về chức phận theo Chúa của mình (C. 14b; Sv. 1Phi. 4:10-11; Ma. 25:14-30; 1Cô. 15:58) (1) “Hãy nói cho Ysơraên”: Hb. רמא [‘amar], “phải giảng ra” (2) “sai ta đến”: Hb. חלשׁ [shalach], “công cử” III. ÁP DỤNG 1. Tất cả chúng ta đều có phận sự phải học biết Chúa! “Môise thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: Nầy, tôi sẽ đi đến dân Ysơraên, nói cùng họ rằng: Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi sai ta đến cùng các ngươi; nhưng nếu họ hỏi: Tên Ngài là chi? Thì tôi nói với họ làm sao?” (Xuất. 3:13) “Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ” (2Phi. 3:18a) 2. Chúng ta chỉ có thể biết được Chúa nhờ sự tự khải thị của Chúa! “Đức Chúa Trời phán rằng: Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu…” (Xuất. 3:14a) “Những sự bí mật thuộc về Giêhôva Đức Chúa Trời chúng ta; song những sự bày tỏ thuộc về chúng ta, và con cháu chúng ta đời đời, để chúng ta làm theo mọi lời của luật pháp nầy” (Phục. 29:29) 3. Phải trung tín trong chức phận theo Chúa của chúng ta! “… rồi Ngài lại rằng: Hãy nói cho dân Ysơraên như vầy: Đấng Tự Hữu đã sai ta đến cùng các ngươi” (Xuất. 3:14b) “10Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời. 11Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen” (1Phi. 4:10-11) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THỌ TẠO CÁCH ĐẶC BIỆT” (Sáng. 2:7, 22; Sv. 18-25) “7Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh… 22Giêhôva Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi Ađam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Ađam” (Sáng. 2:7, 22; Sv. 18-25) I. KINH THÁNH “7Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh… 22Giêhôva Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi Ađam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Ađam” (Sáng. 2:7, 22; Sv. 18-25) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức Chúa Trời trực tiếp tạo dựng phần vật chất (hữu hình) cho con người (C. 7a). (1) “bụi đất”: Hb. רפע ןמ המדא [‘aphar min ‘adamah], “đất bột” (2) “nắn”: Hb. רצי [yatsar], “tạo hình” (3) “hình người”: Hb. םדא [‘adam], “người” 2. Đức Chúa Trời cũng trực tiếp chia sẻ sinh khí của Ngài để tạo dựng phần phi vật chất (vô hình) cho con người (C. 7b). (1) “hà”: Hb. חפנ [naphach], “thổi qua” (2) “sinh khí”: Hb. המשׁנ יח [nᵉshamah chay], “thần khí” (3) “loài sanh linh”: Hb. יח שׁפנ [chay nephesh], “sinh vật có linh hồn” 3. Con người chỉ có hai giống đực và cái và mối quan hệ giữa hai giống là mối quan hệ thân thiết (C. 22). (1) “xương sườn”: Hb. עלצ [tsela‘], “bên cạnh” (2) “làm nên”: Hb. הנב [banah], “tạo ra” (3) “người nữ”: Hb. השׁא [‘ishshah], “đàn bà” III. ÁP DỤNG 1.Phương tiện trung gian để tạo ra con người là do Đức Chúa Trời qui định! “Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người…” (Sáng. 2:7a) “Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm” (Thi. 139:14) “Hỡi Đức Giêhôva, dầu vậy, bây giờ Ngài là Cha chúng tôi! Chúng tôi là đất sét, Ngài là thợ gốm chúng tôi; chúng tôi thảy là việc của tay Ngài” (Ês. 64:8) 2. Con người là sinh vật duy nhất được chia sẻ thần khí của Đức Chúa Trời và thuộc về Đức Chúa Trời cách đặc biệt! “… hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh” (Sáng. 2:7b) “Phải biết rằng Giêhôva là Đức Chúa Trời. Chính Ngài đã dựng nên chúng tôi, chúng tôi thuộc về Ngài; Chúng tôi là dân sự Ngài, là bầy chiên của đồng cỏ Ngài” (Thi. 100:3) 3. Con người chỉ có hai giống và quan hệ giữa hai giống là mối quan hệ có trật tự và thân thiết! “Giêhôva Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi Ađam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Ađam” (Sáng. 2:22) “8Bởi chưng không phải đàn ông ra từ đàn bà, bèn là đàn bà ra từ đàn ông; 9không phải đàn ông vì cớ đàn bà mà được dựng nên, bèn là đàn bà vì cớ đàn ông vậy” (1Cô. 11:8-9) “Vì Ađam được dựng nên trước nhứt, rồi mới tới Êva” (1Ti. 2:13) “Song trong Chúa thì chẳng phải đàn bà ngoại đàn ông, cũng chẳng phải đàn ông ngoại đàn bà” (1Cô. 11:11) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THỌ TẠO CÓ MỤC ĐÍCH” (Sáng. 1:26-28) “26Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng Ta hãy làm nên loài người như hình Ta và theo tượng Ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. 27Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. 28Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất” (Sáng. 1:26-28) I. KINH THÁNH “26Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng Ta hãy làm nên loài người như hình Ta và theo tượng Ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. 27Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. 28Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất” (Sáng. 1:26-28) II. GIẢI NGHĨA 1. Theo sự định mạng Thiên Thượng, loài người được chỉ định làm đại biểu của Đức Chúa Trời trong việc quan hệ với giới thọ tạo của Ngài (C. 26). (1) “hình Ta”: Hb. םלצ [tselem], “hình ảnh Thiên Thượng” (2) “tượng Ta”: Hb. תומד [dᵉmuwth], “sự tương đồng với Thiên Thượng” (3) “quản trị”: Hb. הדר [radah], “nắm quyền điều khiển” 2. Loài người gồm hai giống đực và cái, họ đều được mang hình ảnh Thiên Thượng, được hưởng sự vinh quang của Đức Chúa Trời (C. 27) (1) “người nam”: Hb. רכז [zakar], “giống đưc” (2) “người nữ”: Hb. הבקנ [nᵉqebah], “giống cái” (3) “dựng nên”: Hb. ארב [bara’], “tạo ra” a. “như hình Ngài”: Theo hình ảnh của Ngài. b. “giống như hình Đức Chúa Trời”: Có sự vinh quang của Đức Chúa Trời (Sv. 1Cô. 11:7). 3. Loài người được ban phước để phát triển dòng dõi, gia tăng ảnh hưởng, chiếm ưu thế đối với mọi sự, làm chủ trên mọi sự vì đã được định mạng nắm quyền điều khiển cả thế gian trong cương vị là đại biểu của Đức Chúa Trời (C. 28). (1) “ban phước”: Hb. ךרב [barak] a. “sanh sản”: Hb. הרפ [parah], “phát triển dòng dõi” b. “thêm nhiều”: Hb. הבר [rabah], “gia tăng ảnh hưởng” c. “đầy dẫy”: Hb. אלמ [male’], “chiếm ưu thế” d. “phục tùng”: Hb. שׁבכ [kabash], “làm chủ” (2) “quản trị”: Hb. הדר [radah], “nắm quyền điều khiển” (Sv. Hê. 2:7-8) III. ÁP DỤNG 1. Chúng ta phải hoàn thành chức năng đại biểu của Đức Chúa Trời! “Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng Ta hãy làm nên loài người như hình Ta và theo tượng Ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất” (Sáng. 1:26) 2. Chúng ta phải sống phản ánh vinh quang của Đức Chúa Trời! “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ” (Sáng. 1:27) 3. Chúng ta phải gìn giữ các phước hạnh được Đức Chúa Trời ban! “Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất” (Sáng. 1:28) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THỜ PHƯỢNG CÓ NGUYÊN TẮC” (1Cô. 14:36-37; Sv. C. 33; 1Cô. 11:16) “36Có phải là Đạo Đức Chúa Trời ra từ nơi anh em, hoặc chỉ đến cùng anh em mà thôi chăng? 37Nếu ai tưởng mình là Tiên Tri, hay là được Đức Thánh Linh soi sáng, thì người ấy hãy biết rằng điều tôi viết cho anh em đây là mạng lịnh của Chúa” (1Cô. 14:36-37; Sv. C. 33; 1Cô. 11:16) I. KINH THÁNH “36Có phải là Đạo Đức Chúa Trời ra từ nơi anh em, hoặc chỉ đến cùng anh em mà thôi chăng? 37Nếu ai tưởng mình là Tiên Tri, hay là được Đức Thánh Linh soi sáng, thì người ấy hãy biết rằng điều tôi viết cho anh em đây là mạng lịnh của Chúa” (1Cô. 14:36-37; Sv. C. 33; 1Cô. 11:16) II. GIẢI NGHĨA 1. Đạo của Đức Chúa Trời luôn có chuẩn mực phổ quát và bất biến! (C. 36). (1) “chỉ”: Gr. μόνος [monos]; “duy nhất” (2) “ra từ”: Gr. ἐξέρχομαι [exerchomai]; nói về “xuất phát điểm” (3) “đến cùng”: Gr. εἰς [eis]; nói về “đích điểm” 2. Không phải chỉ tự nhận nhân thân hầu việc của mình là đủ mà phải tra xét và chịu sự tra xét về nhân thân của mình cách thấu đáo! (C. 37a). (1) “Tiên Tri”: Gr. προφήτης [prophetes]; “người tiên báo về ý chỉ của Đức Chúa Trời theo ý chỉ của Ngài” (2) “được Đức Thánh Linh soi sáng”: Gr. πνευματικός [pneumatikos]; “được Đức Thánh Linh dắt dẫn hoàn toàn” 3. Người hầu việc Chúa phải luôn luôn tuân thủ Lời của Chúa! (C. 37b). (1) “điều tôi viết”: Gr. γράφω [grapho]; “trước thuật” (Sv. 2Ti. 3:16-17; 2Phi. 1:20-21) (2) “mạng lịnh”: Gr. ἐντολή [entole]; “điều đã được định rằng phải thi hành” III. ÁP DỤNG 1. Khuôn phép của Đạo của Đức Chúa Trời là phổ quát và bất biến! “Có phải là Đạo Đức Chúa Trời ra từ nơi anh em, hoặc chỉ đến cùng anh em mà thôi chăng?” (1Cô. 14:36) 2. Không được mạo nhận và lạm quyền để đưa ra khuôn phép thờ phượng! “Nếu ai tưởng mình là Tiên Tri, hay là được Đức Thánh Linh soi sáng…” (1Cô. 14:37a) 3. Khuôn phép cho đời sống thờ phượng phải bám sát Lời của Đức Chúa Trời! “…thì người ấy hãy biết rằng điều tôi viết cho anh em đây là mạng lịnh của Chúa” (1Cô. 14:37b) Chẳng hạn… (1) Nguyên Tắc "Giữ Phận Thọ Tạo" (Rô. 9:20) (2) Nguyên Tắc "Trông Cậy Ân Điển" (Êph. 2:8) (3) Nguyên Tắc "Tìm Kiếm Yêu Thương" (1Gi. 4:16) (4) Nguyên Tắc "Đáp Ứng Tích Cực" (Rô. 12:1) (5) Nguyên Tắc "Bày Tỏ Trung Thực" (1Sa. 16:7) (6) Nguyên Tắc "Dâng Mình Hết Sức" (Thi. 139:23) (7) Nguyên Tắc "Sống Thờ Phượng Thật" (Rô. 12:2) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐÁP ỨNG PHẢI TRÌNH DÂNG” (Thi. 51:15-17) “15Chúa ơi, xin mở môi tôi, Rồi miệng tôi sẽ truyền ra sự ngợi khen Chúa. 16Vì Chúa không ưa thích của lễ, bằng vậy, tôi chắc đã dâng; Của lễ thiêu cũng không đẹp lòng Chúa: 17Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương; Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu” (Thi. 51:15-17) I. KINH THÁNH “15Chúa ơi, xin mở môi tôi, Rồi miệng tôi sẽ truyền ra sự ngợi khen Chúa. 16Vì Chúa không ưa thích của lễ, bằng vậy, tôi chắc đã dâng; Của lễ thiêu cũng không đẹp lòng Chúa:17Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương; Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu” (Thi. 51:15-17) II. GIẢI NGHĨA 1. Để thờ phượng, trước hết cần phải được Chúa khai phóng khỏi trạng thái trì trệ bởi tội lỗi (C. 15). (1) “mở môi”: Hb. חתפ [pathach]; “làm cho dạn dĩ” (2) “truyền ra”: Hb. דגנ [nagad]; “nói lên” (3) “sự ngợi khen”: Hb. הלהת [tᵉhillah]; “sự tán tụng” 2. Lắm khi người thờ phượng không thể tìm thấy của lễ qui định cho sự vi phạm mình (C. 16a). (1) “ưa thích”: Hb. ץפח [chaphets]; “mong” (2) “của lễ”: Hb. חבז [zebach]; “của lễ dâng cho tội cố ý tà dâm và sát nhân mà vua Đavít đã phạm” 3. Ngay đến của lễ thiêu vốn đã được qui định nhưng nếu thiếu lòng chân thật thì Đức Chúa Trời vẫn không đẹp ý (C. 16b). (1) “của lễ thiêu”: Hb. הלע [‘olah]; “của lễ dâng bằng lửa được chính thức qui định” (Sv. 1Sa. 15:22; Ôsê 6:6, Thi. 69:30-31) (2) “đẹp lòng”: Hb. הצר [ratsah]; “chấp nhận” 4. Nhưng Đức Chúa Trời quí chuộng những tâm linh đang nhận được chứng giải về tội lỗi (C. 17a) (1) “tâm thần”: Hb. חור [ruwach]; “tâm linh” (2) “đau thương”: Hb. רבשׁ [shabar]; “tan vỡ” 5. Ngài không hề chê bỏ những tấm lòng ăn năn vì đó mới là của lễ không thể thiếu đối với Ngài (C. 17b) (1) “lòng”: Hb. בל [leb]; “tấm lòng” (2) “thống hối”: Hb. הכד [dakah]; “bị dày vò vì đã nhận biết tội lỗi” III. ÁP DỤNG 1. Đời sống Cơ Đốc phải là một đời sống chịu trình dâng! (Thi. 51:15; Sv. Rô. 3:19-20) “Chúa ơi, xin mở môi tôi, Rồi miệng tôi sẽ truyền ra sự ngợi khen Chúa” (Thi. 51:15) “19Vả, chúng ta biết rằng những điều mà Luật Pháp nói, là nói cho mọi kẻ ở dưới Luật Pháp, hầu cho miệng nào cũng phải ngậm lại, cả thiên hạ đều nhận tội trước mặt Đức Chúa Trời; 20vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo Luật Pháp mà sẽ được xưng công bình trước mặt Ngài, vì Luật Pháp cho người ta biết tội lỗi” (Rô. 3:19-20) 2. Ý chỉ của Đức Chúa Trời là chúng ta phải trình dâng! (Thi. 51:16; Sv. Php. 4:6-7; Hê. 5:7-10) “Vì Chúa không ưa thích của lễ, bằng vậy, tôi chắc đã dâng; Của lễ thiêu cũng không đẹp lòng Chúa” (Thi. 51:16) “6Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời. 7Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Php. 4:6-7) 3. Trình dâng là của lễ thờ phượng đẹp ý Đức Chúa Trời hơn hết! (Thi. 51:17; Sv. Ma. 22:11-14) “Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương; Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu” (Thi. 51:17) “11Vua vào xem khách dự tiệc, chợt thấy một người không mặc áo lễ, 12thì phán cùng người rằng: Hỡi bạn, sao ngươi vào đây mà không mặc áo lễ? Người đó làm thinh. 13Vua bèn truyền cho đầy tớ rằng: Hãy trói tay chân nó lại, và quăng ra ngoài nơi tối tăm, là nơi sẽ có khóc lóc và nghiến răng. 14Bởi vì có nhiều kẻ được gọi, mà ít người được chọn” (Ma. 22:11-14) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐÁP ỨNG PHẢI HIẾN THÂN” (Rô. 6:12-14) “12Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó. 13Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình. 14Vì tội lỗi không cai trị trên anh em đâu; bởi anh em chẳng thuộc dưới Luật Pháp, mà thuộc dưới Ân Điển” (Rô. 6:12-14) I. KINH THÁNH “12Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó. 13Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình. 14Vì tội lỗi không cai trị trên anh em đâu; bởi anh em chẳng thuộc dưới Luật Pháp, mà thuộc dưới Ân Điển” (Rô. 6:12-14) II. GIẢI NGHĨA 1. Chúng ta phải tách ly khỏi tội lỗi (C. 12). (1) “cai trị”: Gr. βασιλεύω [basileuo], “cầm quyền điều khiển” (2) “chiều”: Gr. ὑπακούω [hupakouo], “nghe theo”, “vâng lời” 2. Phải dâng cả đời sống mình cho Đức Chúa Trời (C. 13a; Xuất. 20:5). (1) “nộp”, “phó”: Gr. παρίστημι [paristemi], “dành sẵn” (2) “chi thể”: Gr. παρίστημι [paristemi], “cơ quan của thân thể” 3. Phải tận hiến cho sự công nghĩa của Ngài (C. 13b; Xuất. 7:16). (1) “dâng”: Gr. παρίστημι [paristemi], “dành sẵn” (2) “đồ dùng”: Gr. ὅπλον [hoplon], “để dùng” 4. Để hưởng ân điển làm người thờ phượng Ngài (C. 14). (1) “cai trị”: Gr. κυριεύω [kurieuo], “làm chủ, Gr. κύριος [kurios]” (2) “Luật Pháp”: Gr. νόμος [nomos]; “qui định” (Sv. Gal. 3:24) (3) “Ân Điển”: Gr. χάρις [charis]; “ân huệ, sự ưu đãi” (Sv. Gal. 3:25) III. ÁP DỤNG 1. Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta phải tách ly để tận hiến cho Ngài! “Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình” (Rô. 6:13) 2. Chức phận môn đồ đòi hỏi chúng ta phải hiến thân cho Đức Chúa Trời! “Nếu có ai đến theo Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ Ta” (Lu. 14:26; Sv. 25-27) 3. Thờ phượng là một cách hiến thân đẹp ý Đức Chúa Trời! “Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em” (Rô. 12:1; Sv. 1-2) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐÁP ỨNG PHẢI HẠ MÌNH” (Gia. 4:7-10) “7Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em. 8Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; 9hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:7-10) I. KINH THÁNH “7Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em. 8Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; 9hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:7-10) II. GIẢI NGHĨA 1. Phải qui phục Đức Chúa Trời mới mong thoát được ách Ma Quỉ! (C. 7) (1) “phục”: Gr. ὑποτάσσω [hupotasso], “chịu ở dưới quyền điều khiển” (2) “chống trả”: Gr. ἀνθίστημι [anthistemi], “kháng cự lại sự cầm buộc” 2. Đức Chúa Trời muốn chúng ta hạ mình đối với Ngài! (C. 8a) (1) “Hãy đến gần Đức Chúa Trời”: Gr. ἐγγίζω [eggizo], “đến để kết hiệp” (2) “Ngài sẽ đến gần anh em”: Gr. ἐγγίζω [eggizo], “tiếp nhận” 3. Chúng ta hạ mình đối với Ngài khi chúng ta chịu sống sạch tội (C. 8b) (1) “hãy lau tay mình”: Gr. καθαρίζω [katharizo], “gạt bỏ đi cho hết ô nhiễm” (2) “hãy làm sạch lòng đi”: Gr. ἁγνίζω [hagnizo], “thanh tẩy” (Sv. 1Phi. 1:22; 1Gi. 3:3 ) 4. Chúng ta hạ mình đối với Ngài khi chúng ta nhận thức đúng thực trạng của chúng ta! (C. 9) (1) “cảm biết…”: Gr. ταλαιπωρέω [talaiporeo], “buồn vì…” (2) “đổi…”: Gr. μεταστρέφω [metastrepho], “chuyển biến…” 5. Chúng ta sẽ được nâng đỡ khi chúng ta thờ phượng Ngài cách hạ mình! (C. 10) (1) “hạ mình”: Gr. ταπεινόω [tapeinoo], “từ bỏ sự tự cao” (2) “nhắc”: Gr. ὑψόω [hupsoo], “tôn cao” III. ÁP DỤNG 1. Cách duy nhất để thoát ách nô dịch của Ma Quỉ là phải hạ mình đối với Đức Chúa Trời! “Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em” (Gia. 4:7) 2. Hạ mình đối với Đức Chúa Trời là để cho Ngài xác lập quyền làm Chúa trên đời sống mình! “8Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; 9hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn” (Gia. 4:8-9) “28Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. 29Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của Ta, và học theo Ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. 30Vì ách Ta dễ chịu và gánh Ta nhẹ nhàng” (Ma. 11:28-30) 3. Đời sống thờ phượng luôn được Đức Chúa Trời nâng đỡ! “Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:10) “19Samuên trở nên khôn lớn, Đức Giêhôva ở cùng người: Ngài chẳng để một lời nào của người ra hư. 20Từ Đan cho đến BêeSêba, cả Ysơraên đều biết rằng Samuên được lập làm Tiên Tri của Đức Giêhôva” (1Sa. 3:19-20) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THỜ PHƯỢNG ĐỂ ĐÁP ỨNG” (Khải. 22:6-11) “6Bấy giờ thiên sứ nói với tôi rằng: Những lời này là trung tín và chân thật, Chúa là Đức Chúa Trời của thần các đấng tiên tri, đã sai thiên sứ mình đặng tỏ cùng các tôi tớ Ngài những điều kíp phải xảy ra. 7Kìa, Ta đến mau chóng. Phước thay cho kẻ nào giữ những lời tiên tri trong sách nầy! 8Chính tôi là Giăng đã thấy và nghe những điều đó. Khi nghe và thấy đoạn, tôi sấp mình xuống dưới chân thiên sứ đã tỏ những điều ấy cho tôi, để thờ lạy. 9Song người phán rằng: Chớ làm vậy! Ta là bạn tôi tớ với ngươi, với anh em ngươi, là các đấng tiên tri, và với những kẻ giữ các lời trong sách nầy. Hãy thờ phượng Đức Chúa Trời! 10Rồi người lại phán cùng tôi rằng: Chớ niêm phong những lời tiên tri trong sách nầy; vì thì giờ đã gần đến. 11Kẻ nào không công bình, cứ không công bình nữa; kẻ nào ô uế, cứ còn ô uế nữa; kẻ nào công bình, cứ làm điều công bình nữa; kẻ nào là thánh, cứ làm nên thánh nữa!” (Khải. 22:6-11) I. KINH THÁNH “6Bấy giờ thiên sứ nói với tôi rằng: Những lời này là trung tín và chân thật, Chúa là Đức Chúa Trời của thần các đấng tiên tri, đã sai thiên sứ mình đặng tỏ cùng các tôi tớ Ngài những điều kíp phải xảy ra. 7Kìa, Ta đến mau chóng. Phước thay cho kẻ nào giữ những lời tiên tri trong sách nầy! 8Chính tôi là Giăng đã thấy và nghe những điều đó. Khi nghe và thấy đoạn, tôi sấp mình xuống dưới chân thiên sứ đã tỏ những điều ấy cho tôi, để thờ lạy. 9Song người phán rằng: Chớ làm vậy! Ta là bạn tôi tớ với ngươi, với anh em ngươi, là các đấng tiên tri, và với những kẻ giữ các lời trong sách nầy. Hãy thờ phượng Đức Chúa Trời! 10Rồi người lại phán cùng tôi rằng: Chớ niêm phong những lời tiên tri trong sách nầy; vì thì giờ đã gần đến. 11Kẻ nào không công bình, cứ không công bình nữa; kẻ nào ô uế, cứ còn ô uế nữa; kẻ nào công bình, cứ làm điều công bình nữa; kẻ nào là thánh, cứ làm nên thánh nữa!” (Khải. 22:6-11) II. GIẢI NGHĨA 1. Sự khải thị của Chúa là “trung tín và chân thật” (C. 6). (1) “trung tín và chân thật”: Gr. πιστός καί ἀληθινός [pistos kai alethinos] - Có bản chất chân chính (alethinos) - Có tính chất đáng tin (pistos) (2) “tỏ”: Gr. δεικνύω [deiknuo], “làm cho mắt thấy được để biết và hiểu” 2. Sự vâng lời Chúa là “Phước” (C. 7). (1) “phước”: Gr. μακάριος [makarios], “đáng mừng” (2) Mừng vì có được sự chân chính, đáng tin. 3. “Thờ phượng” là sự đáp ứng chân chính đối với sự khải thị của Chúa (C. 8). (1) “thờ lạy”: Gr. προσκυνέω [proskuneo] (2) Biết, hiểu sự chân chính, đáng tin cho nên đáp ứng bằng sự qui phục. 4. Chỉ duy nhất Đức Chúa Trời là đối tượng thờ phượng (C. 9). (1) “giữ”: Gr. τηρέω [tereo], “tuân theo” (2) “thờ phượng”: Gr. προσκυνέω [proskuneo] (3) “Đức Chúa Trời”: Gr. θεός [theos] 5. Sự hầu việc phải cặp theo sự thờ phượng (Cc. 10-11). (1) Chớ “niêm phong”: Gr. σφραγίζω [phragizo], “giữ im lặng” (C. 10b) (2) Hãy cứ tận hiến (C. 11b; Sv. Rô. 12:1-2; 1Cô. 9:16) III. ÁP DỤNG 1. Chỉ có thể thực sự biết Chúa nhờ Lời “trung tín và chân thật” của Ngài! “Những lời này là trung tín và chân thật” (Khải. 22:6a) 2. Thờ phượng Chúa là sự đáp ứng phải có khi biết Chúa! “Khi nghe và thấy đoạn, tôi sấp mình xuống dưới chân thiên sứ đã tỏ những điều ấy cho tôi, để thờ lạy” (Khải. 22:8b) 3. Không được phép thờ phượng bất cứ ai ngoài Chúa! “Hãy thờ phượng Đức Chúa Trời!” (Khải. 22:9b) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |